Nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4

Thứ nhất, trước hết phải đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng cách về tri thức với các nước phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta phải đổi mới tư duy, coi sự phát triển bằng vốn trí tuệ con người là nhân tố quyết định, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, không có đội ngũ trí thức thì không có kinh tế tri thức. Thứ hai, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, đi thẳng vào công nghệ mới nhất; đẩy mạnh phát triển công nghệ mà con người Việt Nam có nhiều khả năng nhất như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, đặc biệt chú trọng phát triển phần mềm, tham gia xuất khẩu phần mềm; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và phát triển để các doanh nghiệp đó trở thành doanh nghiệp sáng tạo trong nền KTTT. Thứ ba, tạo lập để có một hệ thống chính sách, pháp luật và thể chế phù hợp cũng như các biện pháp tổ chức thực hiện đủ sức kích thích tính tích cực sáng tạo cái mới của mọi người dân; chủ động đón bắt thời cơ của thời đại KTTT. Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật nhằm phát huy dân chủ; bảo đảm môi trường dân chủ, tự do cạnh tranh, tạo cơ sở cho nền KTTT phát triển một cách bền vững. Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó tăng cường quản lý xã hội bằng các công cụ và chính sách vĩ mô trên nguyên tắc thị trường, không trái với quy luật của thị trường; tôn trọng, bảo hộ quyền sở hữu của người dân, tạo cơ hội cho mọi người được tự do kinh doanh, tự do sáng tạo và cạnh tranh bình đẳng

pdf5 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nền kinh tế tri thức và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017 CHÑNH SAÁCH 1. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư Bước sang thế kỷ 21, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của một cuộc cách mạng công nghiệp mới, một số người gọi đây là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Fourth Industrial Revolution), hay công nghiệp thế hệ 4.0 (Industry 4.0). Theo Giáo sư Klaus Schwab - sáng lập viên kiêm Tổng Giám đốc Diễn đàn Kinh tế thế giới, thuật ngữ “Cuộc cách mạng” được dùng để chỉ một sự thay đổi thế giới mang tính đột biến và triệt để. Các cuộc cách mạng trước đây đã diễn ra trong suốt chặng đường lịch sử khi công nghệ mới và phương pháp nhận thức mới về thế giới đã tạo ra một sự thay đổi sâu sắc trong hệ thống kinh tế và kết cấu xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã sử dụng năng lượng hơi nước và nước để cơ khí hoá cho sản xuất; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã sử dụng năng lực điện để sản xuất trên một quy mô lớn; cuộc Cách mạng công NÏÌN KINH TÏË TRI THÛÁC VAÂ CUÖÅC CAÁCH MAÅNG CÖNG NGHIÏåP LÊÌN THÛÁ TÛ Phạm Chí Trung* *TS., Vụ Khoa học - Công nghệ và Môi trường, Văn phòng Quốc hội. Thông tin bài viết: Từ khóa: Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế tri thức. Lịch sử bài viết: Nhận bài: 23/12/2016 Biên tập: 24/03/2017 Duyệt bài: 29/03/2017 Article Infomation: Keywords: The fourth Industrial Revolution, knowledge economy Article History: Received: 23 Dec. 2017 Edited: 23 Mar. 2017 Approved: 29 Mar. 2017 Tóm tắt: Bước sang thế kỷ 21, chúng ta đang ở giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp mới, một số người gọi đây là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Fourth Industrial Revolution). Đặc trưng cơ bản của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là được xây dựng trên nền tảng công nghệ số và sự sáng tạo tri thức, tri thức đóng một vai trò quan trọng và là lực lượng sản xuất trực tiếp trong phương thức sản xuất mới này. Như vậy, nhân loại đã và đang tiến hành cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trên nền tảng của kinh tế tri thức (KTTT). Bài viết trình bày, phân tích về vấn đề này và đưa ra một số kiến nghị phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Abstract: In the 21st century, we are in the early stages of a new industrial revolution, someone call this the fourth Industrial Revolution. The basic features of the fourth Industrial Revolution are based on the digital platform technology and knowledge creation. The knowledge plays an important role and it is a direct production force of this new production method. Thus, humanity has been conducting the 4th industrial revolution on the foundation of the knowledge economy. This article provides discussions and analysis of the 4th industrial revolution and gives out recommendations for developments of knowledge economy of Vietnam. 44 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017 CHÑNH SAÁCH nghiệp lần thứ ba sử dụng các thiết bị điện tử và công nghệ thông tin để tự động hóa sản xuất. Đặc trưng cơ bản của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này chính là công nghệ số và sự sáng tạo tri thức. Trong đó, In- ternet, điện thoại thông minh (smartphone) ngày càng phổ biến; các cảm biến nhỏ và mạnh mẽ hơn, giá thành rẻ hơn. Đồng thời, cuộc cách mạng công nghiệp mới còn là sự kết hợp công nghệ giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn vật kết nối Internet (Internet of Things - IoT), các hệ thống kết nối Internet (Internet of Systems - IoS); nhận dạng vô tuyến (RFID), in 3D, điện toán đám mây (cloud computing), trí tuệ nhân tạo, các robot có kết nối, phần mềm có khả năng tự kết nối và tương tác qua mạng, phân tích dữ liệu lớn (big data). Các giải pháp thế giới kết nối (connected world) thông minh đang và sẽ ngày càng chi phối và thay đổi mạnh mẽ và bao trùm mọi lĩnh vực điều hành, quản trị quốc gia, kinh tế, xã hội. Các công nghệ mới nổi và sự đổi mới trên diện rộng được khuếch tán nhanh hơn và rộng rãi hơn so với trước đây đã làm cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư về cơ bản khác với các cuộc cách mạng trước đó. Những công nghệ mới này sẽ tác động mạnh mẽ đến cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau, không giống như bất cứ những gì mà nhân loại đã từng trải qua trước đây. 2. Nền kinh tế tri thức Có thể nói, trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tri thức đóng một vai trò vô cùng quan trọng, bởi tri thức sẽ sản sinh ra công nghệ mới. Và hiển nhiên, tri thức đóng vai trò là lực lượng sản xuất trực tiếp trong phương thức sản xuất mới này. Vì vậy, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư dựa trên nền KTTT. Khái niệm KTTT manh nha xuất hiện từ đầu những năm 1960 của thế kỷ trước, tiên phong bởi Fritz Machlup và Peter Drucker. Trong hơn bốn thập kỷ qua, KTTT được chọn làm chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, cả những nước phát triển và đang phát triển. Trên diễn đàn khoa học đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định và giải thích nội hàm của nền kinh tế này. KTTT là khái niệm được xây dựng dựa trên hai khái niệm trừu tượng là kinh tế và tri thức. Vì vậy, KTTT còn được gọi là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge - Based Economy), là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin” (OECD 1996)1. “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” (APEC 2000)2; Ngân hàng Thế giới (WB, 2000) đánh giá “Đối với các nền kinh tế tiên phong trên thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức”3. Về bản chất, KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống. KTTT thực sự đã trở thành yếu tố quan trọng nhất - hơn cả yếu tố 1 https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c 2 https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c 3 https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c 45 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017 CHÑNH SAÁCH đất đai, yếu tố tư liệu sản xuất, yếu tố lao động. Ngày nay, KTTT là xu hướng phát triển của các nền kinh tế hiện đại, trong đó tri thức, lao động chất xám được phát huy khả năng sinh lợi của nó và mang lại hiệu quả kinh tế lớn lao trong tất cả các ngành kinh tế: công nghiệp - tài chính, ngân hàng, dịch vụ, nông - lâm - ngư nghiệp, phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng và an ninh. KTTT cũng được hiểu là một đặc trưng phản ánh sự phát triển của lực lượng sản xuất ở trình độ cao. Hoặc cũng được hiểu là một loại môi trường kinh tế - văn hóa - xã hội mới, có những đặc tính phù hợp và mở ra, tạo thuận lợi nhất cho việc học hỏi, đổi mới và sáng tạo của con người. Có thể nói rằng, KTTT là hình thái phát triển cao nhất của nền kinh tế hàng hoá, trong đó công thức truyền thống Tiền - Hàng - Tiền được thay thế bằng công thức Tiền - Tri thức - Tiền và vai trò quyết định của tri thức. Đây cũng là sự thay đổi về cách thức chiếm đoạt tư liệu sản xuất, tài nguyên thiên nhiên. Nhiều chuyên gia cho rằng, nền KTTT là nền kinh tế phi trọng lượng, trong đó hàng hóa tri thức có giá trị cao, quan trọng hơn nhiều so với hàng hóa vật chất. Nhìn một cách khái quát hơn, KTTT là nền kinh tế tạo ra giá trị “tư bản con người” (human capital), bao gồm hàng hóa, dịch vụ dựa trên tri thức, có tính chất vô hình, phi trọng lượng và giá trị trao đổi cao (ví dụ thiết bị điện tử, phần mềm máy tính, đào tạo, tư vấn, vốn vay) để trao đổi với các hàng hóa khác, trong đó có hàng hóa vật chất, chủ yếu là tư bản thiên nhiên (natural capital). Các trao đổi này được bảo hộ thông qua các định chế quốc gia, đa quốc gia và quốc tế như các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương, điển hình là các hiệp định thương mại trong WTO. 3. Phát triển nền kinh tế tri thức là một tất yếu Khác với nền kinh tế công nghiệp, chủ thể là công nhân với các công cụ cơ khí, cho năng suất lao động cao; còn nền KTTT, chủ thể là công nhân trí thức tạo ra tri thức, quảng bá tri thức và sử dụng tri thức. Như vậy, nền KTTT là một nền kinh tế tiếp nối nền kinh tế công nghiệp nhưng phát triển ở trình độ cao hơn nền kinh tế công nghiệp và là nền kinh tế mà nhân loại đang hướng tới và phát triển để tiến hành cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đối với các nước phát triển, phát triển nền KTTT là một quá trình tự nhiên, phù hợp quy luật. Đối với những quốc gia mới bắt đầu quá trình công nghiệp hóa, không thể chuyển ngay sang nền KTTT với đầy đủ cơ cấu, đặc trưng, cách thức hoạt động của nó. Do vậy, quốc gia này phải biết nắm bắt, tiếp thu những tri thức mới (về công nghệ, tổ chức quản lý, quản trị sản xuất kinh doanh), đồng thời, chuyển hướng chính sách phát triển sang dựa nhiều hơn vào tri thức để đẩy nhanh và rút ngắn quá trình phát triển và đi lên của mình. Đối với các nước đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như Việt Nam, phát triển KTTT là sự phát triển kinh tế bằng sức mạnh trí tuệ và tinh thần của con người, vì sự phát triển toàn diện của con người và xã hội; có thể coi KTTT vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới; không bắt buộc phải áp dụng khuôn mẫu theo mô hình các nước phát triển TBCN đã đi, mà phải sáng tạo, có thể có bước đi riêng, phù hợp hoàn cảnh, đặc điểm từng nước; kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển con người, phát triển văn hóa, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, khắc phục các mặt trái của kinh tế thị trường cũng như quá trình toàn cầu hóa. Xây dựng và phát triển KTTT là một 46 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 07(335) T4/2017 CHÑNH SAÁCH tất yếu của lịch sử nhân loại, là cơ hội lớn để các nước đi sau rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư này, quốc gia nào biết phát huy sức mạnh tri thức của con người để tăng cường nội lực, đồng thời, biết cách hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu sẽ là những quốc gia dẫn đầu và về đích trước. Tuy nhiên, KTTT cũng đang và sẽ là những thách thức to lớn, trước hết là khoảng cách tri thức giữa các quốc gia. Xu thế chung, trong các nền kinh tế hướng tới KTTT, khoảng cách giữa các nước sẽ ngày càng doãng ra, mặc dù cộng đồng thế giới có nhiều cố gắng để khắc phục khoảng cách số, khoảng cách tri thức, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. 4. Một số kiến nghị phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta Ở nước ta, ngay từ rất sớm, Đảng và Nhà nước đặt vấn đề về cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, đã chuẩn bị những nền tảng về tư tưởng, cơ sở vật chất cho sự tiếp thu các kỹ thuật và công nghệ mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra đường lối công nghiệp hóa và hiện đại hóa, vấn đề tiếp cận, ứng dụng công nghệ hiện đại vào kinh tế nước ta. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, trong phần về phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế trong giai đoạn 2016 - 2020 và các năm tiếp theo đã nêu rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế gắn với kinh tế tri thức”4. Theo đó, Việt Nam sẽ chú trọng phát triển kinh tế tri thức, đầu tư cho một số lĩnh vực và công nghệ mũi nhọn để không bị tụt hậu so với một số quốc gia đã có nền kinh tế tri thức. Như vậy, chúng ta sẽ không chờ đến công nghiệp hóa hoàn thành cơ bản mới chuyển sang kinh tế tri thức như một số nước đi trước đã trải qua. Mặc dù là một nước có xuất phát điểm thấp cả về lực lượng sản xuất và trình độ quản lý, nhưng điều đó không thể cản trở Việt Nam tiếp thu các thành tựu và tinh hoa của nền KTTT. Việt Nam cần đi thẳng vào nền KTTT theo cách riêng của mình trên cơ sở lựa chọn những lĩnh vực, ngành phù hợp và có thế mạnh của đất nước. Theo WB, một quốc gia như Việt Nam muốn chuyển sang nền kinh tế tri thức, trước tiên cần hình thành bốn trụ cột quan trọng, đó là: - Môi trường kinh tế và thể chế xã hội thuận lợi cho sáng tạo và sử dụng tri thức: Một môi trường và thể chế theo luật, cho phép dòng chảy tự do của tri thức, hỗ trợ công nghệ thông tin và truyền thông, khuyến khích việc làm chủ doanh nghiệp như trọng tâm của kinh tế tri thức. - Hệ thống giáo dục và đào tạo có chất lượng cao để người dân được giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực sáng tạo, chia sẻ và sử dụng tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao. - Hạ tầng cơ sở thông tin (ICT) hiện đại: Một cơ sở thông tin động, từ radio đến internet, là cần thiết để cho phép dễ dàng liên lạc, phổ biến và xử lý thông tin. - Hệ thống sáng tạo có hiệu quả: Một mạng lưới các trung tâm nghiên cứu, đại học, tổ chức chuyên gia, cố vấn, doanh nghiệp tư nhân, các nhóm cộng đồng là cần thiết để thu nhận được kho tri thức toàn cầu luôn không ngừng tăng, truyền bá và thích 4 Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2016, tr. 90. 47 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 07(335) T4/2017 CHÑNH SAÁCH ứng chúng cho các nhu cầu của đất nước và sáng tạo ra các tri thức mới cần thiết5. Để xây dựng bốn trụ cột cơ bản nêu trên, Việt Nam cần phải đẩy mạnh thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, trước hết phải đầu tư phát triển giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng cách về tri thức với các nước phát triển. Bên cạnh đó, chúng ta phải đổi mới tư duy, coi sự phát triển bằng vốn trí tuệ con người là nhân tố quyết định, coi tri thức là nguồn gốc của mọi của cải; coi trọng tài sản trí tuệ hơn tài sản hữu hình; đội ngũ trí thức là chủ thể của nền kinh tế tri thức, không có đội ngũ trí thức thì không có kinh tế tri thức. Thứ hai, đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, đi thẳng vào công nghệ mới nhất; đẩy mạnh phát triển công nghệ mà con người Việt Nam có nhiều khả năng nhất như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, đặc biệt chú trọng phát triển phần mềm, tham gia xuất khẩu phần mềm; đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu và phát triển để các doanh nghiệp đó trở thành doanh nghiệp sáng tạo trong nền KTTT. Thứ ba, tạo lập để có một hệ thống chính sách, pháp luật và thể chế phù hợp cũng như các biện pháp tổ chức thực hiện đủ sức kích thích tính tích cực sáng tạo cái mới của mọi người dân; chủ động đón bắt thời cơ của thời đại KTTT. Thứ tư, hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật nhằm phát huy dân chủ; bảo đảm môi trường dân chủ, tự do cạnh tranh, tạo cơ sở cho nền KTTT phát triển một cách bền vững. Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó tăng cường quản lý xã hội bằng các công cụ và chính sách vĩ mô trên nguyên tắc thị trường, không trái với quy luật của thị trường; tôn trọng, bảo hộ quyền sở hữu của người dân, tạo cơ hội cho mọi người được tự do kinh doanh, tự do sáng tạo và cạnh tranh bình đẳng n TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Thanh Tuyên và Trương Hữu Chung, “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”: Cái giá đắt đỏ của nước nghèo, không chịu lớn lên, trên 4-cai-gia-dat-do-cua-nuoc-ngheo-khong-chiu-lon-len-346221.html. 2. KTTT, trên https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_t%E1%BA%BF_tri_th%E1%BB%A9c. 3. Nền KTTT và những đặc trưng cơ bản của nền KTTT, trên https://vi-vn.facebook.com/ccvietnam/posts/309259439203985:0. 4. Klaus Schwab, The Fourth Industrial Revolution, 2016. 5. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H., 2016 6. Phát triển KTTT: Cơ hội và thách thức của Việt Nam, Trên: viet-nam.html. 5 nam.html.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnen_kinh_te_tri_thuc_va_cuoc_cach_mang_cong_nghiep_lan_thu_4.pdf