KẾT LUẬN
Du lịch có vị trí ngày càng quan trọng đối với kinh
tế thế giới. Nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
đặt mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0,
nhiều sản phẩm du lịch mới ra đời đem lại hiệu
quả vượt trội so với trước đây. Để nâng cao năng
lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trước những
bước đi nhanh, mạnh của cuộc CMCN 4.0, việc
nhanh chóng phát triển du lịch thông minh theo
hướng số hóa nhằm cung cấp dịch vụ thuận tiện
nhất cho du khách đang trở thành đòi hỏi bức
thiết. Cùng với đó, chỉ riêng nỗ lực của ngành du
lịch là chưa đủ, mà để phát triển thành công du lịch
thông minh không thể thiếu sự kết nối và tham gia
của các bên liên quan như hàng không, hải quan,
xuất nhập cảnh, thuế, thương mại , của cả cộng
đồng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Các doanh nghiệp du lịch trong nước cần đầu tư
mạnh mẽ và áp dụng các công nghệ du lịch tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông
vào hoạt động kinh doanh du lịch trực tuyến, tham
gia vào các hệ thống phối chỗ toàn cầu (GDS)
nhằm phục vụ hoạt động marketing, quảng bá sản
phẩm và tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn
cầu trong du lịch.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Ngành du lịch Việt Nam trong bối cảnh Cách mạng
Công nghiệp 4.0
Vietnam tourism in the context of the Fourth Industrial Revolution
Vũ Thị Hường, Nguyễn Thị Huế
Email: huongvudhsd20102014@gmail.com
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 19/12/2018
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 25/6/2019
Ngày chấp nhận đĕng: 28/6/2019
Tóm tắt
Trong Cách mạng Công nghiệp (CMCN) 4.0, cơ hội đến với ngành du lịch Việt Nam là rất lớn khi có
thể ứng dụng các thành tựu kỹ thuật số để tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng cao chất lượng dịch vụ...
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Tuy nhiên, cuộc cách mạng này cũng đặt ra thách thức
không hề nhỏ cho cả Nhà nước, doanh nghiệp và lao động du lịch, cần có những giải pháp kịp thời để
chủ động đón nhận cơ hội mới.
Từ khóa: Du lịch; công nghệ thông tin; Cách mạng Công nghiệp 4.0.
Abstract
In the context of the Fourth Industrial Revolution, opportunities for Vietnam’s tourism are tremendous
thanks to the application of the advances in digital technology to create new products, enhance service
quality, ect. to meet the increasing requirements of visitors. This Revolution, however, presents the
significant challenges to Government, enterprises and labors, which needs timely solutions to actively
take the advantage of new opportunities.
Keywords: Tourism; information technology; fourth Industrial Revolution.
1. GIỚI THIỆU CHUNG
Là quốc gia có ngành du lịch đang trên đà phát
triển, hiện nay, Việt Nam ở vị trí thứ 17 trong bảng
xếp hạng những quốc gia có mức độ phổ cập
internet hàng đầu thế giới với tỷ lệ 64% thanh niên
thường xuyên sử dụng internet và 53% thanh niên
sở hữu smartphone [15]. Đây là những lợi thế của
doanh nghiệp Việt Nam trong việc phát triển một
nền tảng du lịch thông minh nhờ ứng dụng những
thành tựu của cuộc CMCN 4.0. Vấn đề đặt ra là du
lịch Việt Nam cần nhận định đúng và có sự chuẩn
bị nhằm đáp ứng những thách thức và tận dụng
cơ hội mà cuộc cách mạng này mang lại.
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác động
của CMCN 4.0 về các khía cạnh của nền kinh tế
Việt Nam như: Nguyễn Quang Thuấn và cộng sự
[5], Tạ Thị Đoàn [1], Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung ương [12] Tuy nhiên, qua tìm hiểu của
tác giả, các công trình nghiên cứu CMCN 4.0 đối
với lĩnh vực du lịch có nhiều nghiên cứu cụ thể đến
từng bộ phận, hợp phần như: tác động đến nguồn
nhân lực du lịch, cơ sở lưu trú Bài nghiên cứu
của tác giả tổng quan các nghiên cứu nêu trên
được thực hiện là cần thiết.
2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁCH MẠNG CÔNG
NGHIỆP 4.0 VỚI NGÀNH DU LỊCH
Việc áp dụng công nghệ thông tin vào du lịch luôn
tồn tại hai mặt tích cực và tiêu cực.
Xét về khía cạnh tích cực
Đối với du khách, đầu tiên chúng ta phải tìm địa
chỉ, tìm kiếm thông tin điểm đến trên mạng, tìm
kiếm khách sạn, tìm các chỗ đi lại và giá cả hợp lý
nhất. Tiếp theo là mua vé máy bay rồi các chỉ dẫn
đường đi. Trong mỗi khâu này, CMCN 4.0 đều có
tác dụng.
Bên cạnh đó, với CMCN 4.0 đã phủ sóng toàn
cầu, việc sử dụng Viber hay dùng các phần mềm
khác như Zalo cho phép tương tác gần như tức
thì, không có chậm trễ ngay cả khi ở nước ngoài.
Nên khi đi du lịch ở nước ngoài vẫn có thể giữ
được liên lạc thường xuyên với gia đình, người
thân, giải quyết công việc.
Người phản biện: 1. PGS.TSKH. Phạm Hoàng Hải
2. TS. Nguyễn Đặng Tiến
NGÀNH KINH TẾ
69Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Đối với các đơn vị du lịch, đây cũng là một cơ hội
để chúng ta có thể tuyên truyền, quảng bá những
thông tin lên mạng, lên website. Việc áp dụng
công nghệ giúp các đơn vị du lịch đưa những hình
ảnh tốt đẹp lên nhằm quảng bá điểm đến, đồng
thời cũng nhận lại những thông tin phản ánh về
tuyến điểm như: chèo kéo hay đeo bám du khách để
làm giảm thiểu thiệt hại không mong muốn, giảm tình
trạng khách du lịch đến và không muốn quay lại nữa.
Ngành du lịch trong CMCN 4.0 cũng cần được
phát triển một cách thông minh với sự hỗ trợ của
công nghệ số, để tạo ra và cung cấp các dịch vụ
tốt nhất cho khách du lịch, làm cho khách thật hài
lòng khi đến Việt Nam. Vì vậy, sử dụng công nghệ
số có thể tạo lập thông tin và cung cấp các dịch vụ
tốt nhất cho khách du lịch, làm cho du khách thật
sự hài lòng khi đến Việt Nam.
Xét về khía cạnh tiêu cực:
Cũng như các cuộc CMCN khác, lỗ hổng về trình
độ cũng như nguy cơ tụt hậu là những rủi ro lớn
của lao động trong giai đoạn chuyển tiếp, bởi
CMCN 4.0 sẽ triệt tiêu lao động giản đơn và đòi
hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao.
3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH
DU LỊCH VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG
CÔNG NGHIỆP 4.0
3.1. Tiềm nĕng và thực trạng ngành du lịch
Việt Nam
Việt Nam có bờ biển dài 3.260 km, với 125 bãi tắm
biển [17], trong đó hầu hết là các bãi tắm rất đẹp
và thuận lợi cho khai thác du lịch mà không phải
quốc gia nào cũng có. Các bãi tắm nổi tiếng từ
Bắc đến Nam có thể kể đến như Trà Cổ, Hạ Long,
Cát Bà, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Lĕng Cô,
Ðà Nẵng, Nha Trang, Cà Ná, Mũi Né, Vũng Tàu,
Hà Tiên, Phú Quốc Bên cạnh đó, Việt Nam có
33 vườn quốc gia [18] và 400 nguồn nước khoáng
nóng [19] . Nhiều suối có hạ tầng xây dựng khá tốt
như: suối nước nóng thiên nhiên Đam Rông, Lâm
Đồng; suối nước nóng Kim Bôi Hòa Bình, suối
nước nóng Bình Châu Bà Rịa - Vũng Tàu
Về di tích lịch sử - vĕn hóa, danh lam thắng cảnh
của nước ta, đã có 85 di tích được xếp hạng di
tích quốc gia đặc biệt, 3.329 di tích xếp hạng di
tích quốc gia và 9.857 di tích cấp tỉnh [16]. Cho
đến nay, Việt Nam đã có 8 di sản vật thể và danh
thắng được công nhận Di sản thế giới là: Quần thể
di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Khu di tích Mỹ
Sơn, Khu phố cổ Hội An, Vườn quốc gia Phong
Nha - Kẻ Bàng, Khu trung tâm Hoàng thành Thĕng
Long, Thành Nhà Hồ, Khu danh thắng Tràng An.
Việt Nam có cả kho tàng di sản vĕn hóa phi vật
thể với 191 di sản thuộc cả 7 loại hình di sản vĕn
hóa phi vật thể của các dân tộc sinh sống trên mọi
miền đất nước được đưa vào Danh mục di sản
vĕn hóa phi vật thể quốc gia. Đặc biệt, tính đến
hết nĕm 2016, đã có 11 di sản được công nhận
là di sản vĕn hóa phi vật thể đại diện của nhân
loại và di sản phi vật thể cần được bảo vệ khẩn
cấp đó là: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian
vĕn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Dân ca quan họ
Bắc Ninh, Ca trù, Lễ hội Đền Gióng, 2 Hát Xoan,
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Đàn ca tài tử
Nam Bộ, Dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh, Kéo co, Tín
ngưỡng thờ Tam Phủ.
Ngoài những lợi thế trên, Việt Nam còn là nước
có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi
dào. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của
Nhà nước cũng tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch
phát triển.
Biểu đồ 1. Khách quốc tế đến Việt Nam nĕm 2016-2017 (theo tháng)
Nguồn: Tổng cục Du lịch [6]
70
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Bên cạnh đó, hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất
kỹ thuật ngành du lịch ngày càng phát triển. Theo
bảng 1, cơ sở lưu trú du lịch tĕng từ 3.267 nĕm
2000 lên 25.600 nĕm 2017; số buồng cũng tĕng từ
72.200 lên 508.000 trong vòng 17 nĕm. Số lượng
cơ sở lưu trú du lịch từ 3-5 sao trong giai đoạn
2013-2017 tĕng mạnh, đặc biệt là khách sạn 5 sao
và tương đương (bảng 2).
Biểu đồ 2. Khách du lịch nội địa nĕm 2016-2017 (triệu lượt)
Bảng 1. Cơ sở lưu trú du lịch giai đoạn 2000-2017
Nĕm Số lượng cơ sở
Tĕng trưởng
(%)
Số buồng Tĕng trưởng
(%)
Công suất buồng
bình quân (%)
2000 3.267 - 72.200 - -
2002 4.390 34,4 92.500 28,1 -
2004 5.847 33,2 125.400 35,6 49,9
2006 7.039 20,4 160.500 28,0 60,0
2007 9.080 29,0 178.348 11,1 60,7
2008 10.406 14,6 202.776 13,7 59,9
2009 11.467 10,2 216.675 6,9 56,9
2010 12.352 7,7 237.111 9,4 58,3
2011 13.756 11,4 256.739 8,3 59,7
2012 15.381 11,8 277.661 8,1 58,8
2014 16.000 - 332.000 - 69,0
2015 19.000 18,7 370.000 11,4 55,0
2016 21.000 10,5 420.000 13,5 57,0
2017 25.600 21,9 508.000 21,0 56,5
Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch [10]
Bảng 2. Số lượng cơ sở lưu trú du lịch từ 3-5 sao (2013-2017)
Nĕm
Tổng số Khách sạn 5 sao và tương đương
Khách sạn 4 sao
và tương đương
Khách sạn 3 sao
và tương đương
Biệt thự và cĕn hộ
du lịch cao cấp
Số cơ
sở
Số
buồng
Số cơ
sở
Số
buồng
Số cơ
sở
Số
buồng
Số cơ
sở
Số
buồng
Số cơ
sở
Số
buồng
2013 598 62.002 64 15.385 159 20.270 375 26.347 - -
2014 640 66.728 72 17.659 187 22.569 381 26.500 - -
2015 747 82.325 91 24.212 215 27.379 441 30.734 - -
2016 784 91.250 107 30.624 230 29.387 442 30.902 11 1.557
2017 882 104.315 118 34.444 261 33.764 490 34.332 12 1.713
Nguồn: Trung tâm Thông tin du lịch [10]
NGÀNH KINH TẾ
71Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Loại hình sản phẩm, dịch vụ du lịch ngày càng
phong phú và đa dạng. Chất lượng và tính chuyên
nghiệp từng bước được nâng cao. Lực lượng
doanh nghiệp du lịch ngày càng lớn mạnh. Trong
10 nĕm (2007-2017), doanh nghiệp lữ hành quốc
tế tĕng từ 620 doanh nghiệp lên 1.752 doanh
nghiệp, gần gấp 3 lần (bảng 3).
Bảng 3. Doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai đoạn 2007-2017
Nĕm
Loại hình doanh nghiệp
Doanh
nghiệp nhà
nước
Công ty
TNHH
Doanh
nghiệp cổ
phần
Doanh
nghiệp tư
nhân
Doanh nghiệp
có vốn đầu tư
nước ngoài
Tổng số
2007 85 350 169 4 12 620
2008 69 389 227 4 12 701
2009 68 462 249 4 12 795
2010 58 527 285 5 13 888
2011 13 621 327 4 15 980
2012 9 731 371 6 15 1.132
2013 9 845 428 8 15 1.305
2014 8 949 474 9 15 1.456
2015 7 1.012 475 10 15 1.519
2016 5 1.081 489 10 15 1.600
2017 5 1.164 556 11 16 1.752
Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Du lịch [6, 7]
Thêm vào đó, thị trường du lịch Việt Nam đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều hãng hàng không
quốc tế, nhiều đường bay thẳng đến Việt Nam
được mở, tiêu biểu như Việt Nam - New Zealand;
Thượng Hải - TP. Hồ Chí Minh; Thổ Nhĩ Kỳ - Hà
Nội, TP. Hồ Chí Minh; Đà Nẵng - Hồng Kông;
Sydney/Melbourne - TP. Hồ Chí Minh; Đồng Hới
- Chiang Mai Ngoài ra, một số sân bay được
nâng cấp, mở rộng: Sân bay quốc tế Tân Sơn
Nhất, Cam Ranh, Đà Nẵng, tạo điều kiện thuận
lợi cho phát triển du lịch.
Đặc biệt, nĕng lực cạnh tranh toàn cầu của ngành
du lịch Việt Nam trong 10 nĕm qua đã có những
bước tiến vượt bậc, từ thứ hạng 70 nĕm 2007 lên
55/137 quốc gia nĕm 2017 - tĕng 15 bậc trong 10
nĕm theo bảng xếp hạng của Báo cáo tính cạnh
tranh trong du lịch và lữ hành 2017 của WEF [16].
Một trong những điểm sáng của bức tranh kinh tế
Việt Nam 2017 chính là du lịch. Chín tháng liên
tiếp Việt Nam là điểm đến của hơn 1 triệu lượt
khách quốc tế. Cả nĕm 2017, Việt Nam đón được
12,9 triệu lượt khách quốc tế, tĕng gần 30% so
với nĕm 2016 và phục vụ hơn 73 triệu lượt khách
nội địa. Lần đầu tiên, Việt Nam lọt vào danh sách
các quốc gia có tốc độ tĕng trưởng du lịch nhanh
nhất thế giới.
Tóm lại, sự phát triển của ngành du lịch đã và
đang góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị
di sản vĕn hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh
quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất
nước, con người Việt Nam.
Mặc dù vậy, thứ hạng nĕng lực cạnh tranh điểm
đến của Việt Nam vẫn còn xa mới tới được
các điểm đến nổi tiếng khu vực, như: Thái Lan,
Malaysia hay Singapore. Với hệ thống tính điểm
gồm 4 tiêu chí (Môi trường du lịch; Chính sách hỗ
trợ phát triển; Cơ sở vật chất hạ tầng; Tài nguyên
du lịch tự nhiên và vĕn hóa) với 14 mục và 90 chỉ
tiêu riêng biệt, báo cáo xếp hạng của WEF [16] đã
chỉ rõ điểm mạnh nhất của Việt Nam là Tài nguyên
vĕn hóa (hạng 30), Tài nguyên tự nhiên (hạng 34),
Sự cạnh tranh về giá và nhân lực và Thị trường lao
động (hạng 34-35). Tuy nhiên, rất nhiều các chỉ số
của Việt Nam bị xếp hạng thấp, đặc biệt là các chỉ
tiêu về chính sách hỗ trợ phát triển và phát triển
bền vững, như: Chất lượng hạ tầng du lịch (hạng
113), Mức độ bền vững về môi trường (hạng 129),
Chi tiêu chính phủ cho ngành du lịch (hạng 114),
Mức độ ưu tiên cho ngành du lịch (hạng 101), Mức
độ mở cửa quốc tế (hạng 76) (hình 1).
72
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Hình 1. Một số chỉ số nĕng lực cạnh tranh du lịch
và lữ hành Việt Nam nĕm 2017
Nguồn: WEF [16]
Mặt khác, khi so sánh các với các nước trong
ASEAN, kết quả phát triển du lịch của Việt Nam
còn khiêm tốn, đặc biệt khoảng cách giữa du lịch
Việt Nam và các nước trong khu vực còn rất lớn.
Ví dụ: nĕm 2016, Việt Nam đứng thứ 5 về số lượng
khách quốc tế với hơn 10 triệu lượt, con số này chỉ
bằng 31% so với Thái Lan (32,6 triệu), 37% của
Malaysia (26,8 triệu), 61% của Singapore (16,4
triệu) và 83% khi so với Indonesia (12 triệu) [9].
Nguyên nhân là do du lịch phát triển chưa tương
xứng với tiềm nĕng, thế mạnh và kỳ vọng của xã
hội. Sản phẩm du lịch chưa thực sự hấp dẫn và có
sự khác biệt, khả nĕng cạnh tranh chưa cao. Chất
lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu
lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch chưa
cao. Môi trường du lịch, an toàn thực phẩm và an
toàn giao thông còn nhiều bất cập. Công tác xúc
tiến quảng bá du lịch còn nhiều hạn chế về nguồn
lực, sự phối hợp và tính chuyên nghiệp. Nguồn
nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu.
Trước thực trạng trên, Nghị quyết số 08-NQ/TW,
ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị đã đặt ra mục
tiêu cho ngành du lịch Việt Nam đến nĕm 2020
cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tạo
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; có
tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du
lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu,
mang đậm bản sắc vĕn hóa dân tộc, cạnh tranh
được với các nước trong khu vực. Phấn đấu đến
nĕm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi
nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các
ngành, lĩnh vực khác.
3.2. Cơ hội đối với ngành du lịch trong
Cách mạng Công nghiệp 4.0
Nâng cao chất lượng du lịch và sự hài lòng của
du khách
Trong CMCN 4.0, ngành du lịch được phát triển
một cách thông minh với hỗ trợ của công nghệ số
để tạo ra và cung cấp các dịch vụ tốt nhất cho du
khách, làm cho du khách thật hài lòng khi đến Việt
Nam. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-
TTg, ngày 4/5/2017 về việc tĕng cường nĕng lực
tiếp cận cuộc CMCN 4.0. Thực hiện chỉ thị trên, Bộ
Vĕn hóa, Thể thao và Du lịch đã đặt mục tiêu tập
trung xây dựng sản phẩm chủ lực trên các lĩnh vực
gồm du lịch, thể thao và các ngành công nghiệp
vĕn hóa, định hướng danh mục sản phẩm chủ lực
giai đoạn 2017-2020 bao gồm hai nhóm sản phẩm
chính là nhóm sản phẩm phục vụ du lịch thông
minh và nhóm sản phẩm thuộc các ngành công
nghiệp vĕn hóa.
Đối với các đơn vị du lịch, đây cũng là một cơ hội
để chúng ta có thể tuyên truyền, quảng bá những
thông tin lên mạng, lên website. Để làm được điều
đó, ngành du lịch cần phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực hướng tới tiêu chuẩn khu vực
và quốc tế, phù hợp với cuộc CMCN 4.0 đang
diễn ra trên mọi lĩnh vực. Theo Hiệp hội Doanh
nghiệp lữ hành Việt Nam, nĕm 2017 có tới 71%
khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thông qua
tham khảo thông tin điểm đến trên internet, 64%
đặt chỗ và mua dịch vụ trực tuyến cho chuyến đi.
Điển hình, đối với Saigontourist, lượng khách đặt
mua tour qua internet đang tĕng rất mạnh so với
phương thức truyền thống. Nĕm 2017, doanh thu
của Saigontourist từ khách đặt tour trên internet
khoảng 130 tỷ đồng, tuy con số còn nhỏ so với
phương thức truyền thống nhưng là xu hướng
phát triển [2].
Đặc biệt, dựa vào phân tích mọi dữ liệu về khách
hàng, trí tuệ nhân tạo sẽ tạo ra nhiều lựa chọn
cho chuyến du lịch với các loại hình và hoạt động
theo sở thích cá nhân. Công nghệ có thể tính toán
được xu hướng nhu cầu của khách đối với loại
hình du lịch nào, sở thích về các hoạt động trong
chuyến đi, địa điểm, hình thức mua sắm, hay loại
cơ sở lưu trú mà khách thường lựa chọn. Phần
mềm sẽ gợi ý cho khách hàng thời điểm, địa điểm
xuất phát, lịch trình chuyến đi. Những chiếc xe
được lập trình sẽ đến đón khách hàng. Thậm chí
đó là những chiếc xe không người lái.
Trên thực tế, xu hướng sử dụng dịch vụ trên
internet để quyết định cho các chuyến đi và nội
dung hoạt động du lịch ngày càng tĕng. Theo Hiệp
hội Thương mại điện tử Việt Nam [2], tốc độ tĕng
trưởng thương mại điện tử của nước ta nĕm 2017
đạt hơn 25% và có thể được duy trì trong giai đoạn
2018-2020. Trong đó, tốc độ tĕng trưởng của du
lịch trực tuyến lên tới 50%, gấp hai lần tốc độ tĕng
trưởng chung của thương mại điện tử.
NGÀNH KINH TẾ
73Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
Còn theo báo cáo của Tổng cục Du lịch Việt Nam
[6] và Hiệp hội Doanh nghiệp lữ hành Việt Nam
[2], trong nĕm 2017, lượng khách du lịch quốc tế
đến Việt Nam thông qua việc tham khảo thông tin
điểm đến trên internet chiếm 71%. Ngoài ra, lượng
du khách quốc tế đặt và mua dịch vụ trên mạng
cho chuyến đi đến Việt Nam chiếm 64%. Điều này
cho thấy, thói quen tiêu dùng của du khách đang
phụ thuộc nhiều vào công nghệ và đây chính là cơ
hội để các nhà quản lý, doanh nghiệp du lịch dễ
dàng nắm bắt nhu cầu thật sự của du khách, từ đó
cung cấp sản phẩm đúng, trúng tới từng đối tượng
khách hàng mục tiêu.
Tạo ra các sản phẩm du lịch mới
Mặt khác, CMCN 4.0 cũng tạo ra các sản phẩm du
lịch mới. Trong số các doanh nghiệp ở Việt Nam
tiên phong xây dựng chiến lược nghiên cứu và xây
dựng sản phẩm du lịch sử dụng công nghệ, mang
lại những lựa chọn thông minh cho khách hàng có
thể kể tới Tripi. Tripi hoạt động dựa trên nền tảng
Data Science có khả nĕng tự động gợi ý gói du
lịch thông minh trong khoảng thời gian khởi hành
khách hàng yêu cầu. Công ty này áp dụng ứng
dụng di động giúp đặt tour, vé máy bay, khách sạn,
gói combo Holidays (gồm vé máy bay và khách
sạn, tour du lịch) chỉ bằng một vài thao tác trên
ứng dụng di động. Ngoài ra, khách hàng có thể
tìm kiếm, so sánh giá các sản phẩm du lịch và cập
nhật chính xác 24/24h tình trạng sản phẩm du lịch.
Một xu thế kết hợp khác, tuy không mới nhưng
cũng hứa hẹn nhiều tiềm nĕng khi áp dụng công
nghệ trong lĩnh vực du lịch và y tế. CMCN 4.0 sẽ
giúp ngành y tế tạo lập chuỗi giá trị, chĕm sóc sức
khoẻ con người từ tất cả các khía cạnh liên quan
như thói quen sinh hoạt, ĕn uống, tập luyện, bổ
sung các chất thiết yếu, phòng bệnh, chữa bệnh
một cách đơn giản, chính xác và ít tốn kém nhất.
Phần mềm có thể kết nối với hệ thống chẩn đoán
các chỉ số về chức nĕng chuyển hóa trong cơ
thể và đưa ra những lựa chọn các điểm nghỉ
dưỡng phù hợp nhất, cũng như những lựa chọn
điều trị để người bệnh được điều trị tốt nhất.
Cải thiện điều kiện làm việc của đội ngũ làm du lịch
Quá trình robot tự động hóa, báo cáo tự động và
trợ lý ảo sẽ trở nên phổ biến. Mỗi du khách sẽ
có "robot tư vấn" khi sử dụng các thiết bị thông
minh như điện thoại, máy tính bảng... Robot tự
động và trí tuệ nhân tạo có thể thực hiện lao động
chân tay cũng như các công việc có liên quan đến
thuật toán và tổ chức và chúng không yêu cầu một
mức lương, trợ cấp chĕm sóc sức khỏe, và không
bị bệnh hoặc mắc một số sai lầm trong làm việc.
Điều này sẽ giúp nâng cao điều kiện làm việc, cải
thiện chất lượng nguồn nhân lực, trong đó có lao
động ngành du lịch.
Nâng cao chất lượng giám sát, quản lý
Triển khai hệ thống IoT, ngành du lịch sẽ nâng cao
hiệu quả quản lý và hoạt động. Ví dụ, sử dụng hệ
thống quản lý nĕng lượng thông minh, nhân viên
khách sạn có thể xác định được khi phòng không
có khách và tự động điều chỉnh nhiệt độ để giảm
mức tiêu thụ nĕng lượng từ 20% đến 45%. Đồng
thời, một hệ thống quản lý nĕng lượng thông minh
cũng cho phép khách điều chỉnh ánh sáng và nhiệt
độ bằng cách sử dụng các ứng dụng khách hàng
thân thiện của khách sạn, điều khiển tivi qua sự
tương tác bằng giọng nói.
Hơn nữa, IoT có thể được sử dụng để dự đoán
bảo trì hiệu quả các hệ thống thiết bị. Chẳng hạn,
trong trường hợp điều hòa gặp sự cố, hệ thống
sẽ gửi thông báo cho nhân viên khách sạn để
vấn đề có thể khắc phục trong khi khách không
ở trong phòng.
Các hoạt động kinh doanh khách sạn khác như
nhà hàng cũng có thể áp dụng các hệ thống IoT
để quản lý hàng tồn kho tốt hơn. Bộ cảm biến
trong nhà bếp có thể theo dõi thức ĕn được
chuẩn bị theo thời gian thực và điều này có thể
giúp các chủ nhà hàng thực hiện việc kiểm soát
chất lượng tốt hơn và đáp ứng các tiêu chuẩn an
toàn thực phẩm.
3.3. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, ngành du lịch Việt
Nam cũng sẽ đối mặt với nhiều thách thức trong
CMCN 4.0.
Về nguồn nhân lực, trong CMCN 4.0, sự xuất hiện
của các thiết bị, máy móc và hạ tầng công nghệ
thông tin hiện đại đòi hỏi lực lượng lao động có kỹ
nĕng tay nghề cao. Tuy nhiên, lao động trong lĩnh
vực du lịch không những thiếu về mặt số lượng,
mà còn yếu về chuyên môn. Mỗi nĕm ngành du
lịch cần 40.000 lao động nhưng số lượng sinh viên
tốt nghiệp ở các cơ sở đào tạo nghiệp vụ du lịch ra
trường khoảng 15.000 người, trong đó hơn 12%
có trình độ cao đẳng, đại học... Cả nước hiện có
khoảng 425 nghìn lao động trực tiếp và hơn 750
nghìn lao động gián tiếp, phần lớn ở độ tuổi dưới
30 chiếm 60%; phân bố ở khu vực phía Bắc 40%,
miền Trung 10% và khu vực phía Nam 50%. Lao
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
động quản lý nhà nước và quản trị kinh doanh
chiếm 25%; lao động phục vụ trực tiếp chiếm 75%.
Mới có 42,5% lao động được đào tạo, bồi dưỡng
các nghề du lịch; có 3,5% cán bộ đạt trình độ
đại học và trên đại học. Lao động sử dụng được
ngoại ngữ chiếm 57,7%, nhiều nhất là tiếng Anh,
chiếm 40% [3].
Nguyên nhân là do nĕng lực đào tạo, dạy nghề du
lịch ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Cơ sở vật chất
kỹ thuật, trang thiết bị thiếu, cũ kỹ, lạc hậu so với
doanh nghiệp Nhu cầu đào tạo lại, dạy nghề lại
và bồi dưỡng du lịch rất lớn, nhưng đáp ứng được
ở mức thấp. Hơn nữa, lao động phổ thông tuyển
vào làm việc ở khách sạn, nhà hàng không được
quan tâm đào tạo tại chỗ. Liên kết quốc tế đào tạo,
dạy nghề du lịch chưa đạt hiệu quả mong muốn,
chưa chú trọng khai thác công nghệ, kinh nghiệm
và chất xám; số lượng cơ sở đào tạo, dạy nghề
du lịch liên kết quốc tế rất ít. Liên kết giữa Nhà
nước - nhà trường - người sử dụng lao động tuy
khắc phục được một số hạn chế, nhưng vẫn còn
rời rạc, chưa bài bản. Nếu như không khắc phục
được tình trạng này, nhân lực du lịch sẽ không đáp
ứng được những cơ hội lớn mở ra trong sân chơi
CMCN 4.0.
Về nĕng lực cạnh tranh, hiện nay, trong lĩnh vực
du lịch trực tuyến, nhất là ở thị trường đặt chỗ
trực tuyến (booking online), Việt Nam đang bị các
doanh nghiệp nước ngoài thao túng. Nhiều công ty
du lịch trực tuyến của Việt Nam vừa hình thành đã
không thể đi tiếp để cạnh tranh. Các sàn giao dịch
điện tử về du lịch ở trong nước mới chỉ thực hiện
được khoảng 20% số nhu cầu giao dịch. Nguyên
nhân là do so với các doanh nghiệp nước ngoài,
doanh nghiệp du lịch Việt Nam đi sau khoảng 20
nĕm về kinh nghiệm, tiềm lực tài chính còn hạn
chế và yếu hơn về nền tảng công nghệ. Bên cạnh
đó, mức độ hiểu biết của từng doanh nghiệp về số
hóa cũng không cao và chưa đồng đều [13].
Về quản lý du lịch, CMCN 4.0 đòi hỏi các cơ quan,
đơn vị phải cung cấp dịch vụ mới trên nền tảng
mở, tích hợp, chia sẻ dữ liệu chung giữa Nhà
nước và khu vực tư.
Hơn nữa, công nghệ thông tin liên tục thay đổi
với tốc độ rất nhanh sẽ gây ra sự lạc hậu về
công nghệ, lỗi thời về thiết kế hệ thống của các
thành phần trong hệ thống chính phủ điện tử.
Điều đó dẫn đến việc xuất hiện các nhu cầu cần
thay đổi, nâng cấp và mở rộng hệ thống chính
phủ điện tử rất lớn, kéo theo chi phí ngân sách
lớn. Trong khi đó, ngân sách đầu tư cho lĩnh
vực này còn hạn chế.
4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH
DU LỊCH VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
Để chủ động đón nhận cơ hội, ứng phó với thách
thức trong bối cảnh CMCN 4.0, người dân, doanh
nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh
vực du lịch cần chú trọng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, giải pháp đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ du lịch gắn với công nghệ
Không chỉ riêng Việt Nam mà ngay cả với các
nước phát triển trên thế giới, du lịch đã và đang
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, ngành
du lịch cần phải luôn xác định việc tĕng cường sử
dụng hiệu quả cơ sở vật chất là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm nhằm đảm bảo và nâng cao
chất lượng phục vụ. Phát triển hệ thống thông tin
ngành du lịch và các ứng dụng gắn với Đề án Hệ
tri thức Việt số hóa, chính phủ điện tử. Bên cạnh
đó, cần nâng cao chất lượng dữ liệu thông tin và
dịch vụ trên các chuyến bay, cửa khẩu, cảng hàng
không, cảng biển quốc tế và trong nước; khuyến
khích các địa phương, doanh nghiệp viễn thông
xây dựng hệ thống mạng internet không dây công
cộng phục vụ du khách và các ứng dụng công nghệ
thông minh nhằm quảng bá điểm đến, sản phẩm,
dịch vụ du lịch; xây dựng, phát triển các ứng dụng
giám sát, cảnh báo an toàn, hỗ trợ khách du lịch
trong những trường hợp cần sự trợ giúp, trường
hợp khẩn cấp.
Thứ hai, giải pháp đào tạo, phát triển nhân lực phù
hợp với CMCN 4.0
Đào tạo và phát triển nhân lực du lịch đảm bảo chất
lượng, số lượng, cân đối về cơ cấu ngành nghề và
trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch
trong CMCN 4.0. Phát triển mạng lưới cơ sở đào
tạo về du lịch mạnh với cơ sở vật chất kỹ thuật,
thiết bị giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa
chất lượng giảng viên và chương trình đào tạo.
Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực du lịch phù
hợp với nhu cầu phát triển du lịch từng thời kỳ,
từng vùng, miền trong cả nước; từng bước thực
hiện chuẩn hóa nhân lực du lịch hợp chuẩn với
khu vực và quốc tế. Bản thân người lao động trong
ngành du lịch cũng cần chủ động nâng cao ngoại
ngữ, tin học, tiếp thị số, kỹ nĕng tay nghề, tinh thần
liên kết gắn với các nhóm lao động đặc thù và lợi
ích xã hội khác nhau.
Thứ ba, giải pháp phát triển các sản phẩm du lịch
thông minh
Sự phát triển của công nghệ đã thúc đẩy sự hình
NGÀNH KINH TẾ
75Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
thành và phát triển nhiều loại hình kinh doanh du
lịch trực tuyến mới, đặc biệt là công nghệ điện
toán đám mây, dữ liệu lớn, công nghệ di động,
mạng xã hội, kinh tế chia sẻ và các ứng dụng di
động gắn với địa điểm đã tĕng sự trải nghiệm của
du khách và mang lại cơ hội lớn cho các doanh
nghiệp nắm bắt được xu hướng. Vì vậy, để đẩy
mạnh phát triển du lịch thông minh, tĕng cường
quảng bá hình ảnh du lịch Việt Nam đến du khách
thông qua dịch vụ cần cung cấp các giải pháp về
viễn thông, công nghệ thông tin, tiến hành nâng
cấp và lắp đặt các hệ thống wifi miễn phí tại nơi
công cộng, các trạm thông tin và hỗ trợ khẩn cấp.
Thứ tư, giải pháp về chiến lược, định hướng phát
triển ngành
Nhà nước cần quan tâm phát triển, ứng dụng các
tiến bộ khoa học công nghệ hiện đại vào các thành
phần tham gia quản lý cũng như thực hành các
hoạt động, dịch vụ của ngành du lịch, đặc biệt là
ứng dụng các công cụ, thành quả của công nghệ
thông tin để phát triển “quảng bá xúc tiến và kinh
doanh du lịch trực tuyến” cho phù hợp xu hướng
và thói quen của du khách trên thế giới. Huy động
nguồn vốn từ doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế
để nâng cấp hệ thống quản lý hành chính, thông
tin điện tử trong lĩnh vực du lịch.
Hiện tại, Tổng cục Du lịch đang trong quá trình xin
ý kiến các cơ quan chức nĕng để hoàn thiện “Đề
án Tổng thể ứng dụng công nghệ thông tin trong
lĩnh vực du lịch giai đoạn 2018 - 2020, định hướng
đến nĕm 2030”. Đề án hướng tới xây dựng hệ
thống cơ sở dữ liệu quốc gia đầy đủ, khoa học của
ngành du lịch về các điểm đến, hệ thống cơ sở lưu
trú, dịch vụ du lịch, doanh nghiệp lữ hành, hướng
dẫn viên, chính sách thị thực Trong đó, nêu mục
tiêu cụ thể đến nĕm 2020 sẽ số hóa toàn bộ dữ
liệu về hướng dẫn viên du lịch, doanh nghiệp lữ
hành quốc tế, cơ sở lưu trú trong cả nước.
5. KẾT LUẬN
Du lịch có vị trí ngày càng quan trọng đối với kinh
tế thế giới. Nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam
đặt mục tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Dưới tác động của cuộc CMCN 4.0,
nhiều sản phẩm du lịch mới ra đời đem lại hiệu
quả vượt trội so với trước đây. Để nâng cao nĕng
lực cạnh tranh của du lịch Việt Nam trước những
bước đi nhanh, mạnh của cuộc CMCN 4.0, việc
nhanh chóng phát triển du lịch thông minh theo
hướng số hóa nhằm cung cấp dịch vụ thuận tiện
nhất cho du khách đang trở thành đòi hỏi bức
thiết. Cùng với đó, chỉ riêng nỗ lực của ngành du
lịch là chưa đủ, mà để phát triển thành công du lịch
thông minh không thể thiếu sự kết nối và tham gia
của các bên liên quan như hàng không, hải quan,
xuất nhập cảnh, thuế, thương mại, của cả cộng
đồng doanh nghiệp và toàn xã hội.
Các doanh nghiệp du lịch trong nước cần đầu tư
mạnh mẽ và áp dụng các công nghệ du lịch tiên
tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và viễn thông
vào hoạt động kinh doanh du lịch trực tuyến, tham
gia vào các hệ thống phối chỗ toàn cầu (GDS)
nhằm phục vụ hoạt động marketing, quảng bá sản
phẩm và tham gia mạnh mẽ vào chuỗi giá trị toàn
cầu trong du lịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Tạ Thị Đoàn (2017), Cách mạng Công nghiệp
lần thứ 4: Cơ hội và thách thức đối với phát triển
kinh tế ở Việt Nam, Tạp chí Công Thương, Các
kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ số 10, tháng 09/2017.
[2] Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2018),
Chỉ số Thương mại điện tử Việt Nam 2018.
[3] Phan Thị Ngàn (2018), Đào tạo nguồn nhân lực
du lịch trong bối cảnh CMCN 4.0, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Phát triển du lịch trong CMCN 4.0,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
[4] Thủ tướng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 16/CT-
TTg, ngày 04/05/2017 về việc tĕng cường nĕng
lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư.
[5] Nguyễn Quang Thuấn và cộng sự (2016), Báo
cáo tổng hợp cuộc Cách mạng Công nghiệp
lần thứ tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý
chính sách đối với Việt Nam, tháng 11/2016.
[6] Tổng cục Du lịch (2018), Báo cáo thường niên du
lịch Việt Nam nĕm 2017.
[7] Tổng cục Du lịch (2017), Báo cáo thường niên du
lịch Việt Nam nĕm 2016.
[8] Tổng cục Thống kê (2017), Báo cáo tình hình
kinh tế - xã hội nĕm 2017.
[9] Phạm Hương Trang (2018), Nâng cao nĕng lực
cạnh tranh và xây dựng thương hiệu điểm đến du
lịch Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 26,
tháng 9/2018.
[10] Trung tâm Thông tin du lịch - Tổng cục Du
lịch (2018), Cơ sở lưu trú du lịch giai đoạn
2000 - 2017.
[11] Trường Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu (2018),
Kỷ yếu Hội thảo khoa học Phát triển du lịch
trong CMCN 4.0, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Tạp chí Nghiên cứu khoa học - Đại học Sao Đỏ, ISSN 1859-4190 Số 2(65).2019
[12] Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
(2018), Chuyên đề số 10: Tác động Cách mạng
Công nghiệp 4.0 đến phát triển nguồn nhân lực
của Việt Nam.
[13] Việt Anh (2018), Số hóa - lộ trình tất yếu để phát
triển du lịch, truy cập từ
gov.vn/index.php/items/27580
[14] Pew Research Center (2018), Spring 2017
Global Attitudes Survey.
[15] WEF (2017), The Travel & Tourism
Competitiveness Report 2017.
[16] thegioidisan.vn (Số liệu về hoạt động di sản
Việt Nam nĕm 2016).
[17] Sở Nội vụ Hà Nội, trang thông tin điện tử: Biển và
đảo Việt Nam - tiềm nĕng và lợi thế.
[18] Wikipedia - Danh sách các vườn quốc gia tại
Việt Nam.
[19] Võ Công Nghiệp (1998), Danh bạ các nguồn
nước khoáng và nước nóng Việt Nam.
THÔNG TIN VỀ TÁC GIẢ
Vũ Thị Hường
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Nĕm 2006: Tốt nghiệp Trường Đại học Thương mại
+ Nĕm 2009: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Bách khoa
Hà Nội
- Hiện nay đang là giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ
- Lĩnh vực quan tâm: Quản trị kinh doanh, khách sạn - du lịch, lữ hành...
- Email: huongvudhsd20102014@gmail.com
- Điện thoại: 0977244097
Nguyễn Thị Huế
- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo,
nghiên cứu):
+ Nĕm 2011: Tốt nghiệp Trường Đại học Thương mại
+ Nĕm 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ ngành Quản lý kinh tế, Trường Đại học Thương mại
- Hiện nay đang là giảng viên khoa Kinh tế, Trường Đại học Sao Đỏ
- Lĩnh vực quan tâm: Quản trị kinh doanh, khách sạn - du lịch, lữ hành...
- Email: ng.huetoan@gmail.com
- Điện thoại: 0984152429
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nganh_du_lich_viet_nam_trong_boi_canh_cach_mang_cong_nghiep.pdf