Tóm lại, văn hóa của người Khmer Nam Bộ đã
được hình thành từ lâu đời, là kết quả của sự kết
tinh, kế thừa của những nền văn hóa khác nhau nên
vừa đa dạng vừa phong phú. Người Khmer khéo
léo tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác để tạo ra
những diện mạo mới, mang sắc thái độc đáo riêng.
Người Khmer Nam Bộ sinh sống đông đảo nhất là
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, việc phát triển
văn hóa ở đây cũng góp phần không nhỏ vào sự
phát triển chung của nền văn hóa Nam Bộ. Trong
đó, Dù kê là loại hình nghệ thuật cần được bảo tồn
và phát triển.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghệ thuật dù kê và sự giao thoa với các loại hình sân khấu của các quốc gia Đông Nam Á, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014184 Soá 13, thaùng 3/2014 185
với các tộc người khác và cũng trống lúa nước,
nhưng với hình thức sống tập trung trong phum
sróc, người Khmer vẫn bảo lưu được bản sắc văn
hóa vốn có. Mỗi phum sróc của người Khmer
không thể thiếu ngôi chùa, nơi thờ Phật, gửi cốt tổ
tiên mà còn là nơi bảo tổn thư tích cổ, là trung tâm
văn hóa giáo dục. Trong một môi trường văn hóa
được bảo tồn chặt chẽ như vậy, người Khmer có
điều kiện phát huy loại hình nghệ thuật đại chúng
như Dù kê. Các quy chuẩn nghệ thuật sẵn có với
những motif ổn định cho phép việc thiết kế sân
khấu, đạo cụ bằng bàn tay nghiệp dư.
Nếu Rô băm đòi hỏi diễn viên múa chuyên
nghiệp, tổ chức sân khấu quy phạm và phức tạp thì
với bản chất không chuyên cho phép nghệ thuật Dù
kê sống trong đời sống người Khmer Tây Nam Bộ.
Biểu hiện sinh động nhất là nguồn diễn viên có thể
được huy động từ một phum sróc nào đó. Và thế
là trong vài đêm có cô thôn nữ chăm trồng hành,
trồng cải đã sống đời hoàng hậu giữa cung đình. Còn
người nông dân giỏi cày cấy đã thành hoàng tử nhiều
quyền phép sẵn sàng vượt hiểm nguy để đón nhận sự
trầm trồ thán phục từ khán giả.
Lễ hội đóng một vai trò quan trọng trong đời
sống người Khmer. Mỗi năm, người Khmer tổ
chức khoảng 22 lễ hội Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian chưa kể số lễ tết theo phong tục tập quán cổ
truyền. Các lễ hội dân gian trước là để làm phước
như cách gọi Bean của người Khmer, sau là cơ hội
để thỏa sức múa hát và bao giờ cũng phải có A day,
Rô băm, Dù kê.
Ngoài những lễ hội cố định hành năm như
Phật Đản, nhập hạ, xuất hạ, dâng y, đắp núi cát,
đặt cơm vắt, Cũng có những lễ hội vài năm mới
tổ chức một lần như Bean Chol Sama. Hệ thống lễ
hội dày đặc đã lưu giữ vững chắc bản sắc văn hóa
Khmer. Vì lời nhắc nhở ngàn đời luôn được gửi
trong những âm sắc rực rỡ, trong những nghi thức
cổ truyền trang trọng và trong những vở Dù kê mà
quá khứ dân tộc luôn ẩn hiện sau những tuồng tích
ngợi ca nhân nghĩa và niềm tin vào cái thiện
Là một dân tộc sùng bái đạo Phật, người
Khmer đưa luật nhân quả vào hầu hết các vở diễn.
Như vở Hoàng tử Linh Thum, nhân vật có nhiều
loại người, loại thú, nhiều tình tiết đan xen nhưng
vẫn lấy tư tưởng Phật giáo làm chủ đạo để cuối
cùng dù khó khăn trắc trở đến mấy thì thiện vẫn
thắng ác đúng như sự chờ đợi của người xem.
3. Kết luận
Là những cư dân lâu đời ở Đồng bằng sông
Cửu Long, người Khmer Nam Bộ trong suốt hành
trình lịch sử của mình đã không ngừng dung nạp
các yếu tố văn hóa từ Ấn Độ, người Kinh, người
Hoa để hình thành một nét văn hóa rất riêng thậm
chí khác biệt với những nét văn hóa ở Campuchia
mà nghệ thuật Dù kê là một minh chứng.
Dù kê ra đời từ nhu cầu thiết thực của người
bình dân. Họ muốn truyền tải tình cảm, tâm sự,
ước mơ của mình vào các vở diễn. Nhiều yếu tố từ
sân khấu, diễn xướng, nhạc cụ, đến diễn viên,
đều mang đậm sắc thái dân gian.
Cũng từ thực tế sinh động, phong phú và đa
dạng đó nên việc bảo tồn gìn giữ và phát triển loại
hình nghệ thuật thuật đặc sắc này hiện cũng gặp
không ít trở ngại. Cần lắm những công trình lí luận
nghiên cứu chuyên sâu hoàn chỉnh về Dù kê, song
song với đó là những chính sách hợp lí để truyền
dạy, gìn giữ giá trị văn hóa nghệ thuật đặc sắc này
của đồng bào dân tộc Khmer.
Tài liệu tham khảo
Chu Xuân Diên. 2002. Văn hóa dân gian và những biến đổi văn hóa – xã hội hiện nay in trong Văn hóa
dân gian và sự phát triển văn hóa đô thị. NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội.
Hoàng Phê. 1994. Từ điển Tiếng Việt. NXB Giáo dục. Hà Nội.
Nhiều tác giả. 1977. Kỷ yếu Hội nghị khoa học chuyên đề: Mối quan hệ giữa diễn xướng dân gian và
nghệ thuật sân khấu. Viện Nghệ thuật - Bộ Văn hóa. Hà Nội.
Nguyễn Hằng Phương. 2010. Diễn xướng ca dao theo dòng thời gian. Tạp chí Nghiên cứu văn học. số 6.
Tô Ngọc Thanh. 2007. Trình diễn sân khấu dân gian Việt Nam in trong Ghi chép về văn hóa và âm nhạc.
NXB. Khoa học xã hội. Hà Nội.
Trần Minh Thương. 2012. Nghệ thuật hát Dù kê của người Khmer Sóc Trăng, Văn hóa Phật giáo. ngày
15 tháng 6 năm 2012.
Trần Minh Thương. 2013. Văn hóa dân gian phi vật thể của người Khmer Sóc Trăng. Công trình đạt giải
Ba của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam.
NGHỆ THUẬT DÙ KÊ
VÀ SỰ GIAO THOA VỚI CÁC LOẠI HÌNH SÂN KHẤU
CỦA CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
Tài Lê Khanh 1
Tóm tắt
Bài viết giới thiệu khái quát những điểm chung của nền nghệ thuật Đông Nam Á và một số loại hình
sân khấu truyền thống tiêu biểu của Đông Nam Á. Trên cơ sở đó, bước đầu tìm hiểu những nét giao thoa
giữa nghệ thuật Dù kê Khmer Nam Bộ và các loại hình nghệ thuật sân khấu Đông Nam Á.
Từ khóa: tính độc nhất của sân khấu Dù kê, loại hình nghệ thuật đặc biệt, sân khấu truyền thống của
đồng bào Khmer Nam Bộ, nghệ thuật âm nhạc truyền thống - dàn dựng biểu diễn.
Abstract
This paper is to introduce general points between the art of Southeast Asia and some typical types
of traditional theatre of Southeast Asia. On that basis, this paper is also to find out interference between
Southern Khmer Du ke and Southern Asia art.
Keys work: the unique of Du ke theater, distinctive form of art, the Southern Khmer’s traditional
theatre, traditional musical art- choreograph performance.
1 Bộ môn Quản trị Văn phòng - Trường Đại học Trà Vinh
1. Đặt vấn đề
Ở Nam Bộ, người Khmer cư trú ở hầu hết
các tỉnh thành nhưng tập trung đông nhất là ba
tỉnh miền Tây Nam Bộ: Trà Vinh, Sóc Trăng, An
Giang. Người Khmer rất thân thiện, vui vẻ và có
năng khiếu về âm nhạc, diễn ca. Người Khmer là
dân tộc thiểu số duy nhất có hình thức sân khấu
riêng còn hoạt động cho đến ngày nay, đó là hai
loại hình sân khấu dân gian cổ truyền nổi tiếng:
Dù kê và Rô băm độc đáo với nhiều đoàn hát hàng
năm lưu diễn theo mùa.
Vị trí của nền văn nghệ dân gian trong lịch sử
dân tộc là rất lớn, không chỉ bởi giá trị tự thân mà
còn vì đó là nguồn cảm hứng, là “bầu sữa” nuôi
dưỡng nghệ thuật ca múa nhạc, sân khấu chuyên
nghiệp Khmer đương đại. Trong nền sân khấu
truyền thống Khmer, Dù kê trở thành món ăn tinh
thần không thể thiếu trong đời sống người Khmer
Nam Bộ. Lịch sử hàng trăm năm của sân khấu
truyền thống đã khẳng định cái gì do nhân dân
sáng tạo ra, thì cái đó có chỗ đứng trong đời sống
tinh thần của họ.
Vấn đề văn hóa nói chung, nghệ thuật nói
riêng, nhất là nghệ thuật truyền thống Đông Nam
Á đang được các nhà quản lí nhà nước, nhà nghiên
cứu quan tâm bởi tính đa dạng, phong phú và vai
trò, vị trí quan trọng của nó. Phân tích làm rõ nét
tính độc đáo của nghệ thuật truyền thống của các
quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, đặc
biệt là nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer
Nam Bộ, đồng thời rút ra những nét khác biệt về
văn hóa, nghệ thuật khu vực gắn với điều kiện kinh
tế- xã hội- lịch sử đặc thù của mỗi dân tộc sẽ nâng
cao hiểu biết, tăng mối giao lưu và đề cao sự tôn
trọng lẫn nhau. Bài viết đề cập đến nhiều nói nét
tương đồng, điểm sáng tạo của nghệ thuật Dù kê
của đồng bào Khmer.
2. Điểm chung của nền nghệ thuật truyền
thống Đông Nam Á
2.1. Văn hóa lúa nước là điểm chung của các
nền văn hóa truyền thống Đông Nam Á
Đông Nam Á là một trong những khu vực có
nền văn hóa cổ xưa của thế giới. Nền văn hóa ở
đây vừa được hội tụ những nét văn hóa Đông-Tây,
vừa mang sắc thái độc đáo, muôn hình muôn vẻ.
Đặc biệt là nền văn minh nông nghiệp lúa nước.
Sự ra đời của văn minh nông nghiệp lúa nước
một phần do môi trường qui định, mặt khác là do
cách lựa chọn và ứng xử của cư dân tại đây. Cũng
chính nền văn hóa lúa nước này đã chi phối đến
tất cả các mặt đời sống của cư dân trong khu vực:
Do yêu cầu sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là công
tác thủy lợi, đắp đê và bảo vệ vùng đất màu mỡ,
các tộc người đã liên kết lại trong một hệ thống
chính trị gồm nhiều “mường” do một tù trưởng của
mường lớn có ưu thế về quân sự, kinh tế hay tôn
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014186 Soá 13, thaùng 3/2014 187
giáo đứng đầu. Làm nông nghiệp lúa nước thì phải
sống định cư. Ngôi nhà sàn là một sáng tạo độc
đáo của cư dân Đông Nam Á. Nó không chỉ thích
hợp với khí hậu nóng ẩm, chống thú dữ ở trên cao,
giải quyết được mặt bằng trên mọi địa hình dù ở
trên núi cao, bên sườn dốc, hay trên vùng sình lầy.
Tâm lý cộng đồng đã chi phối mọi ứng xử trong xã
hội nông nghiệp theo kiểu “trong họ ngoài làng”,
“hòa cả làng”, “phép vua thua lệ làng”, các thành
viên đều phải sống và ứng xử theo những trật tự,
những tập tục mà đối với họ đã trở thành vô thức
Là những cư dân nông nghiệp, cuộc sống của
các dân tộc ở Đông Nam Á được diễn ra theo nhịp
điệu của cây lúa gắn giữa lịch nông nghiệp và lễ
hội. Mối quan hệ ấy được biểu hiện thành các lễ
hội gắn với đời sống tâm linh như thờ thần linh, thờ
tổ tiên, nghi lễ phồn thực nhằm cầu mong cho mọi
người được an khang, mùa màng tươi tốt. Nghệ
thuật biểu diễn của cư dân Đông Nam Á cũng từng
bước được hình thành. Nó là chất xúc tác làm cho
mối cộng cảm giữa các cư dân trong khu vực thêm
sâu đậm.
Nghệ thuật biểu diễn Đông Nam Á cổ chủ yếu
gồm bốn bộ môn kết hợp: thơ ca, âm nhạc, nhảy
múa và tích diễn.2
2.2. Ảnh hưởng của các nền văn hóa ngoại lai
Có thể nói rằng các cư dân Đông Nam Á vốn
đã định hình được những truyền thống nghệ thuật
từ trước với những hình thái tổng hợp, tuy còn sơ
khai. Do vậy, khi tiếp xúc với các luồng văn hóa
bên ngoài, họ đã có sự sàng lọc, cải biến cho phù
hợp với nếp nghệ thuật của mình.
Nghệ thuật Ấn Độ- cuộc tiếp xúc đầu tiên
của nghệ thuật Đông Nam Á
Vào những thế kỉ trước sau công nguyên, cư
dân Đông Nam Á bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Ấn
Độ. Các thương nhân Ấn Độ sang Đông Nam Á
bằng những đoàn thuyền buồm, cùng đi có cả thầy
tu Bàlamôn, hoặc tăng ni Phật giáo để cầu nguyện
cho họ qua khỏi giông tố, bão táp hiểm nguy. Tất
cả họ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa
Ấn Độ lâu đời. Họ mang đến Đông Nam Á phong
tục, tập quán của Ấn, mang theo các động tác múa,
các hình thức kịch bản, kiểu trình diễn, các nhạc
cụ và cả một hệ nguyên lý thẩm mỹ đã được định
2 Nguyễn Phan Thọ.2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam
Á. NXB Chính trị quốc gia.
hình dưới thời đại Ấn Độ giáo và được hợp thức
hóa một cách tự nhiên theo dòng Phật giáo.
Các cư dân Đông Nam Á tiếp nhận văn hóa,
các vị thần thiên nhiên của Ấn Độ giáo với tâm
niệm cầu mong được ban phát ấm no, phồn vinh
trên đồng ruộng, ngoài biển cả. Và cũng thích thú
tiếp nhận những hình thức và nội dung kịch nghệ
mà các thầy Bàlamôn, tăng lữ Phật giáo, thương
nhân Ấn Độ du nhập vào.
Sân khấu Ấn Độ là một nghệ thuật tổng hợp
của ba bộ môn múa, kịch và âm nhạc, trong đó
múa và âm nhạc chiếm vị trí chủ đạo. Nội dung
chính là hai ca tráng Ramayana và Mahabharata.
Nội dung của hai tác phẩm này đã thâm nhập vào
sân khấu nhiều nơi vùng Đông Nam Á. Ở In-đô-
nê-xi-a có vở Brata Yudha; Campuchia có Rama
Kiên; ở Thái Lan, Rama trong các cuộc diễn xuất
được khán giả gọi là “Phật”, Ravana là “khổng lồ”
hoặc quỷ.
Yếu tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn nhất
mà Đông Nam Á tiếp nhận từ Ấn Độ là kịch bản.
Có nhiều huyền thoại, truyền thuyết, những bộ sử
thi, Phật thoại và cả những tập truyện luân lý, ngụ
ngôn và truyện dân gian Ấn Độ đã được đưa vào
Đông Nam Á và trở thành nguồn kịch bản cho sân
khấu Đông Nam Á.
Như vậy, có thể nói ảnh hưởng của nghệ thuật
biểu diễn Ấn Độ đối với Đông Nam Á là rất lớn
bởi khu vực này có khả năng tiếp nhận và tiếp
nhận thành công những yếu tố của nghệ thuật Ấn
Độ, bởi vì các dân tộc ở vùng này đã sẵn có một
nền nghệ thuật diễn xướng khá phát triển.
Ảnh hưởng của nghệ thuật Hồi giáo
Nghệ thuật Hồi giáo dựa trên cơ sở nhận thức,
bản thân nó vốn có bản chất tâm linh, các bậc trí
giả về nghệ thuật Hồi giáo gọi đó là trí tuệ. Nghệ
thuật độc đáo cả về kiến thức, âm nhạc, trang trí
và chủ yếu bằng thư pháp tiểu họa. Nghệ thuật Hồi
giáo nói chung và sân khấu nói riêng - dù rất hiếm
hoi - thâm nhập vào Đông Nam Á từ thế kỉ XIII,
XIV chủ yếu thông qua người Ấn. Ba nước Đông
Nam Á tiếp nhận mạnh mẽ nghệ thuật Ấn-Hồi là
In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin.
Nghệ thuật sân khấu Trung Quốc
Sân khấu truyền thống Đông Nam Á nói chung
và sân khấu truyền thống Việt Nam nói riêng chịu
nhiều tác động của sân khấu cổ truyền Trung Quốc
hơn cả, nhất là ở tuồng và chèo. Việt Nam và
Trung Quốc vốn có địa lý gần gũi, có những nét
tương đồng về phong tục tập quán trong sản xuất
và đời sống.
Sân khấu Trung Quốc và Việt Nam không sao
chép lại hiện thực, nó chỉ tạo ra một vũ trụ nhân
tạo tương ứng. Đặc điểm cơ bản của sân khấu hai
nước là nghệ thuật tả thần. Hay nói cách khác, do
ảnh hưởng qua lại của quá trình phát triển nghệ
thuật nên kinh kịch và tuồng đều thuộc thể loại
kịch hát, sử dụng hình thức biểu diễn cách điệu có
tính cường điệu cao để tạo cái thần là sức mạnh và
linh hồn của loại sân khấu này. Nguồn cảm hứng
là những vấn đề quốc gia đại sự nhằm giáo dục đạo
đức cơ bản.
Ảnh hưởng của sân khấu châu Âu
Từ sau khi thực Pháp đặt ách thống trị trên
toàn cõi Đông Dương, dù muốn hay không thì
những ảnh hưởng của phương Tây như văn hóa,
khoa học, nghệ thuật cũng tác động đến tất cả mọi
mặt đời sống chính trị, văn hóa, thẩm mỹ của nước
ta, trong đó đặc biệt là loại hình nghệ thuật kịch và
tiểu thuyết.
Ngoài ra, sân khấu Xôviết cũng đã tác động
mạnh mẽ, tích cực vào sân khấu Việt Nam. Tác
động diễn ra tự giác, nó bắt nguồn từ sự đồng nhất
lý tưởng xã hội của hai dân tộc mà hạt nhân là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng
chịu những ảnh hưởng tương tự như Việt Nam. Ở
In-đô-nê-xi-a, sự có mặt của Hà Lan cũng tạo nên
ở nước này những yếu tố châu Âu trong ngôn ngữ,
văn hóa, văn học nghệ thuật. Kịch nói In-đô-nê-
xi-a xuất hiện vào những năm 20 của thế kỉ XX
là sản phẩm trực tiếp của phong trào sinh viên
và trí thức đấu tranh cho sự thống nhất dân tộc.
Hay ở Phi-líp-pin, vào giữa thế kỉ XIX, người Tây
Ban Nha đưa vào Phi-líp-pin loại hình sân khấu
Zarzuela- một loại hình ca kịch có xen kẽ đối thoại.
3. Một vài loại hình sân khấu truyền thống
các nước Đông Nam Á
3.1. Sân khấu bóng
Trong sân khấu bóng, khán giả xem qua hình
bóng được ánh đèn chiếu lên một tấm màn vải,
diễn viên gồm con rối hoặc người. Vì vậy, trên thế
giới có hai loại sân khấu bóng khác nhau: sân khấu
bóng-rối và sân khấu bóng-người. Ở Đông Nam Á,
phổ biến nhất là sân khấu bóng- người.
Java là quê hương của rối bóng và cũng chỉ ở
Java nghệ thuật rối bóng mới có một vai trò đặc
biệt trong đời sống tinh thần của người dân. Từ
một hoạt động nghi lễ, nó tiếp nhận nội dung văn
học Ấn Độ để trở thành một hoạt động sân khấu.
Sân khấu rối bóng là một loại hình nghệ thuật độc
đáo, đặc sắc của Đông Nam Á, đã có thời kì rất
được ưa chuộng.
3.2. Sân khấu kịch múa
Đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo khác
của Đông Nam Á, ở nhiều nước nghệ thuật múa
rất được coi trọng. Trên sân khấu múa, các diễn
viên múa diễn tả vai của mình bằng những động
tác hình thể cách điệu có âm nhạc đệm theo. Họ
hầu như không nói hoặc hát, còn diễn biến của
hành động kịch thì do một đội đồng ca xướng đọc.
Trong sân khấu múa có thể được phân ra sân khấu
dân gian quần chúng và sân khấu cung đình, sân
khấu mặt trần và sân khấu mặt nạ.
3.3. Sân khấu kịch hát
Trong khi ở nhiều nước Đông Nam Á, kịch
múa giữ vị trí chủ yếu của nghệ thuật sân khấu, thì
ở Việt Nam và Phi-líp-pin, kịch hát lại là nét tiêu
biểu của nền nghệ thuật sân khấu.
Ở Việt Nam, sân khấu kịch hát ra đời khá sớm,
tiêu biểu là Chèo và Tuồng. Chèo là hình thức sân
khấu phát triển trên cơ sở của những làn điệu dân
ca, những điệu múa và những trò diễn dân gian,
nhất là trò nhại của vùng Đồng bằng Bắc Bộ Việt
Nam. Mầm mống của Chèo có từ thế kỉ X-XI và
định hình ổn định vào khoảng thế kỉ XIV; Tuồng
xây dựng nên những lối hát, múa và động tác cách
điệu rất cao, mang nhiều tính tượng trưng, ước lệ.
Tuồng có nội dung thiên về những cuộc đấu tranh
chính trị, những vấn đề quốc sự, những cuộc xung
đột giữa chính và tà, trung và nịnh của các triều
đình phong kiến xưa.
Ở Phi-líp-pin, loại hình sân khấu gọi là Moro-
moro xuất hiện vào thế kỉ XVII. Nội dung chủ yếu
xoay quanh cuộc xung đột giữa những người Cơ
đốc giáo và những người Islam. Các vở Moro-
moro do các thầy tu Cơ đốc viết để ca ngợi sự
chiến thắng của quân đội Cơ đốc đối với quân
Islam. Đến thế kỉ XIX, người Tây Ban Nha đã đưa
đến Phi-líp-pin loại hình sân khấu Zarzuela, một
loại ca kịch có xen đối thoại.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014186 Soá 13, thaùng 3/2014 187
giáo đứng đầu. Làm nông nghiệp lúa nước thì phải
sống định cư. Ngôi nhà sàn là một sáng tạo độc
đáo của cư dân Đông Nam Á. Nó không chỉ thích
hợp với khí hậu nóng ẩm, chống thú dữ ở trên cao,
giải quyết được mặt bằng trên mọi địa hình dù ở
trên núi cao, bên sườn dốc, hay trên vùng sình lầy.
Tâm lý cộng đồng đã chi phối mọi ứng xử trong xã
hội nông nghiệp theo kiểu “trong họ ngoài làng”,
“hòa cả làng”, “phép vua thua lệ làng”, các thành
viên đều phải sống và ứng xử theo những trật tự,
những tập tục mà đối với họ đã trở thành vô thức
Là những cư dân nông nghiệp, cuộc sống của
các dân tộc ở Đông Nam Á được diễn ra theo nhịp
điệu của cây lúa gắn giữa lịch nông nghiệp và lễ
hội. Mối quan hệ ấy được biểu hiện thành các lễ
hội gắn với đời sống tâm linh như thờ thần linh, thờ
tổ tiên, nghi lễ phồn thực nhằm cầu mong cho mọi
người được an khang, mùa màng tươi tốt. Nghệ
thuật biểu diễn của cư dân Đông Nam Á cũng từng
bước được hình thành. Nó là chất xúc tác làm cho
mối cộng cảm giữa các cư dân trong khu vực thêm
sâu đậm.
Nghệ thuật biểu diễn Đông Nam Á cổ chủ yếu
gồm bốn bộ môn kết hợp: thơ ca, âm nhạc, nhảy
múa và tích diễn.2
2.2. Ảnh hưởng của các nền văn hóa ngoại lai
Có thể nói rằng các cư dân Đông Nam Á vốn
đã định hình được những truyền thống nghệ thuật
từ trước với những hình thái tổng hợp, tuy còn sơ
khai. Do vậy, khi tiếp xúc với các luồng văn hóa
bên ngoài, họ đã có sự sàng lọc, cải biến cho phù
hợp với nếp nghệ thuật của mình.
Nghệ thuật Ấn Độ- cuộc tiếp xúc đầu tiên
của nghệ thuật Đông Nam Á
Vào những thế kỉ trước sau công nguyên, cư
dân Đông Nam Á bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Ấn
Độ. Các thương nhân Ấn Độ sang Đông Nam Á
bằng những đoàn thuyền buồm, cùng đi có cả thầy
tu Bàlamôn, hoặc tăng ni Phật giáo để cầu nguyện
cho họ qua khỏi giông tố, bão táp hiểm nguy. Tất
cả họ đều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn hóa
Ấn Độ lâu đời. Họ mang đến Đông Nam Á phong
tục, tập quán của Ấn, mang theo các động tác múa,
các hình thức kịch bản, kiểu trình diễn, các nhạc
cụ và cả một hệ nguyên lý thẩm mỹ đã được định
2 Nguyễn Phan Thọ.2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam
Á. NXB Chính trị quốc gia.
hình dưới thời đại Ấn Độ giáo và được hợp thức
hóa một cách tự nhiên theo dòng Phật giáo.
Các cư dân Đông Nam Á tiếp nhận văn hóa,
các vị thần thiên nhiên của Ấn Độ giáo với tâm
niệm cầu mong được ban phát ấm no, phồn vinh
trên đồng ruộng, ngoài biển cả. Và cũng thích thú
tiếp nhận những hình thức và nội dung kịch nghệ
mà các thầy Bàlamôn, tăng lữ Phật giáo, thương
nhân Ấn Độ du nhập vào.
Sân khấu Ấn Độ là một nghệ thuật tổng hợp
của ba bộ môn múa, kịch và âm nhạc, trong đó
múa và âm nhạc chiếm vị trí chủ đạo. Nội dung
chính là hai ca tráng Ramayana và Mahabharata.
Nội dung của hai tác phẩm này đã thâm nhập vào
sân khấu nhiều nơi vùng Đông Nam Á. Ở In-đô-
nê-xi-a có vở Brata Yudha; Campuchia có Rama
Kiên; ở Thái Lan, Rama trong các cuộc diễn xuất
được khán giả gọi là “Phật”, Ravana là “khổng lồ”
hoặc quỷ.
Yếu tố quan trọng nhất, có ảnh hưởng lớn nhất
mà Đông Nam Á tiếp nhận từ Ấn Độ là kịch bản.
Có nhiều huyền thoại, truyền thuyết, những bộ sử
thi, Phật thoại và cả những tập truyện luân lý, ngụ
ngôn và truyện dân gian Ấn Độ đã được đưa vào
Đông Nam Á và trở thành nguồn kịch bản cho sân
khấu Đông Nam Á.
Như vậy, có thể nói ảnh hưởng của nghệ thuật
biểu diễn Ấn Độ đối với Đông Nam Á là rất lớn
bởi khu vực này có khả năng tiếp nhận và tiếp
nhận thành công những yếu tố của nghệ thuật Ấn
Độ, bởi vì các dân tộc ở vùng này đã sẵn có một
nền nghệ thuật diễn xướng khá phát triển.
Ảnh hưởng của nghệ thuật Hồi giáo
Nghệ thuật Hồi giáo dựa trên cơ sở nhận thức,
bản thân nó vốn có bản chất tâm linh, các bậc trí
giả về nghệ thuật Hồi giáo gọi đó là trí tuệ. Nghệ
thuật độc đáo cả về kiến thức, âm nhạc, trang trí
và chủ yếu bằng thư pháp tiểu họa. Nghệ thuật Hồi
giáo nói chung và sân khấu nói riêng - dù rất hiếm
hoi - thâm nhập vào Đông Nam Á từ thế kỉ XIII,
XIV chủ yếu thông qua người Ấn. Ba nước Đông
Nam Á tiếp nhận mạnh mẽ nghệ thuật Ấn-Hồi là
In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a và Phi-líp-pin.
Nghệ thuật sân khấu Trung Quốc
Sân khấu truyền thống Đông Nam Á nói chung
và sân khấu truyền thống Việt Nam nói riêng chịu
nhiều tác động của sân khấu cổ truyền Trung Quốc
hơn cả, nhất là ở tuồng và chèo. Việt Nam và
Trung Quốc vốn có địa lý gần gũi, có những nét
tương đồng về phong tục tập quán trong sản xuất
và đời sống.
Sân khấu Trung Quốc và Việt Nam không sao
chép lại hiện thực, nó chỉ tạo ra một vũ trụ nhân
tạo tương ứng. Đặc điểm cơ bản của sân khấu hai
nước là nghệ thuật tả thần. Hay nói cách khác, do
ảnh hưởng qua lại của quá trình phát triển nghệ
thuật nên kinh kịch và tuồng đều thuộc thể loại
kịch hát, sử dụng hình thức biểu diễn cách điệu có
tính cường điệu cao để tạo cái thần là sức mạnh và
linh hồn của loại sân khấu này. Nguồn cảm hứng
là những vấn đề quốc gia đại sự nhằm giáo dục đạo
đức cơ bản.
Ảnh hưởng của sân khấu châu Âu
Từ sau khi thực Pháp đặt ách thống trị trên
toàn cõi Đông Dương, dù muốn hay không thì
những ảnh hưởng của phương Tây như văn hóa,
khoa học, nghệ thuật cũng tác động đến tất cả mọi
mặt đời sống chính trị, văn hóa, thẩm mỹ của nước
ta, trong đó đặc biệt là loại hình nghệ thuật kịch và
tiểu thuyết.
Ngoài ra, sân khấu Xôviết cũng đã tác động
mạnh mẽ, tích cực vào sân khấu Việt Nam. Tác
động diễn ra tự giác, nó bắt nguồn từ sự đồng nhất
lý tưởng xã hội của hai dân tộc mà hạt nhân là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng
chịu những ảnh hưởng tương tự như Việt Nam. Ở
In-đô-nê-xi-a, sự có mặt của Hà Lan cũng tạo nên
ở nước này những yếu tố châu Âu trong ngôn ngữ,
văn hóa, văn học nghệ thuật. Kịch nói In-đô-nê-
xi-a xuất hiện vào những năm 20 của thế kỉ XX
là sản phẩm trực tiếp của phong trào sinh viên
và trí thức đấu tranh cho sự thống nhất dân tộc.
Hay ở Phi-líp-pin, vào giữa thế kỉ XIX, người Tây
Ban Nha đưa vào Phi-líp-pin loại hình sân khấu
Zarzuela- một loại hình ca kịch có xen kẽ đối thoại.
3. Một vài loại hình sân khấu truyền thống
các nước Đông Nam Á
3.1. Sân khấu bóng
Trong sân khấu bóng, khán giả xem qua hình
bóng được ánh đèn chiếu lên một tấm màn vải,
diễn viên gồm con rối hoặc người. Vì vậy, trên thế
giới có hai loại sân khấu bóng khác nhau: sân khấu
bóng-rối và sân khấu bóng-người. Ở Đông Nam Á,
phổ biến nhất là sân khấu bóng- người.
Java là quê hương của rối bóng và cũng chỉ ở
Java nghệ thuật rối bóng mới có một vai trò đặc
biệt trong đời sống tinh thần của người dân. Từ
một hoạt động nghi lễ, nó tiếp nhận nội dung văn
học Ấn Độ để trở thành một hoạt động sân khấu.
Sân khấu rối bóng là một loại hình nghệ thuật độc
đáo, đặc sắc của Đông Nam Á, đã có thời kì rất
được ưa chuộng.
3.2. Sân khấu kịch múa
Đây là một loại hình nghệ thuật độc đáo khác
của Đông Nam Á, ở nhiều nước nghệ thuật múa
rất được coi trọng. Trên sân khấu múa, các diễn
viên múa diễn tả vai của mình bằng những động
tác hình thể cách điệu có âm nhạc đệm theo. Họ
hầu như không nói hoặc hát, còn diễn biến của
hành động kịch thì do một đội đồng ca xướng đọc.
Trong sân khấu múa có thể được phân ra sân khấu
dân gian quần chúng và sân khấu cung đình, sân
khấu mặt trần và sân khấu mặt nạ.
3.3. Sân khấu kịch hát
Trong khi ở nhiều nước Đông Nam Á, kịch
múa giữ vị trí chủ yếu của nghệ thuật sân khấu, thì
ở Việt Nam và Phi-líp-pin, kịch hát lại là nét tiêu
biểu của nền nghệ thuật sân khấu.
Ở Việt Nam, sân khấu kịch hát ra đời khá sớm,
tiêu biểu là Chèo và Tuồng. Chèo là hình thức sân
khấu phát triển trên cơ sở của những làn điệu dân
ca, những điệu múa và những trò diễn dân gian,
nhất là trò nhại của vùng Đồng bằng Bắc Bộ Việt
Nam. Mầm mống của Chèo có từ thế kỉ X-XI và
định hình ổn định vào khoảng thế kỉ XIV; Tuồng
xây dựng nên những lối hát, múa và động tác cách
điệu rất cao, mang nhiều tính tượng trưng, ước lệ.
Tuồng có nội dung thiên về những cuộc đấu tranh
chính trị, những vấn đề quốc sự, những cuộc xung
đột giữa chính và tà, trung và nịnh của các triều
đình phong kiến xưa.
Ở Phi-líp-pin, loại hình sân khấu gọi là Moro-
moro xuất hiện vào thế kỉ XVII. Nội dung chủ yếu
xoay quanh cuộc xung đột giữa những người Cơ
đốc giáo và những người Islam. Các vở Moro-
moro do các thầy tu Cơ đốc viết để ca ngợi sự
chiến thắng của quân đội Cơ đốc đối với quân
Islam. Đến thế kỉ XIX, người Tây Ban Nha đã đưa
đến Phi-líp-pin loại hình sân khấu Zarzuela, một
loại ca kịch có xen đối thoại.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014188 Soá 13, thaùng 3/2014 189
4. Dù kê với sự giao thoa với các loại hình sân
khấu khu vực Đông Nam Á
Nghệ thuật Dù kê bắt nguồn ngay trên mảnh
đất Đồng bằng sông Cửu Long, nó được hình
thành khoảng năm 1921. Loại hình này xuất hiện
đầu tiên là ở Trà Vinh, “thủy tổ” của Dù kê là đoàn
Kru Kưu.3
Nội dung nghệ thuật Dù kê
Ngoài các tuồng tích từ các bản hùng ca Ấn
Độ Ramayana, Dù kê còn đưa lên sân khấu các
truyện tích của người Kinh như: Tấm Cám, Thạch
Sanh chém Chằn hay các tuồng Tàu như: Phàn Lê
Huê, Tiết Đinh San, Tam Tạng thỉnh kinh. Cho đến
nay, mảng đề tài này vẫn giữ được vai trò chủ đạo
trên sân khấu Dù kê, nhất là ở các đoàn hát nghiệp
dư như đoàn Ron Ron của huyện Mỹ Tú; đoàn
Tham Đôn, Mỹ Xuyên của tỉnh Sóc Trăng. Có thể
nói mảng đề tài này là rễ cây cổ thụ bám sát trong
lòng quần chúng suốt gần thế kỉ nay.
Ngày nay, nội dung hướng về các đề tài xã hội
được đặc biệt chú ý, phản ánh những biến đổi của
cuộc sống mới. Nội dung thay đổi cũng kéo theo
sự thay đổi của những yếu tố khác như lối diễn
xuất, hóa trang và trang trí sân khấu ngày càng gần
gũi với quần chúng hơn, thu hút người xem hơn.
Các nhân vật Dù kê trong các tích xưa thuộc
hai phái: phái thiện và phái ác. Trong phái thiện,
vai nam chính luôn là một nhân vật tài giỏi, hào
hoa, thường là vua, hoàng tử hay bậc anh hùng hào
kiệt đứng ra cứu mọi người khỏi cơn hoạn nạn.
Phái ác là “Chằn”, quan ác, tướng ác, công chúa
ác. Ngoài ra, hề cũng là một vai hết sức cần thiết,
là người giải thích các chi tiết, đồng thời là người
dẫn trò, bình luận.
Các làn điệu trong Dù kê, có bốn điệu chính:
sâm - pong (dành cho cảnh biệt ly hay các tình
huống bị đánh đập); Ângkoreach (dành cho tâm
trạng buồn thảm); Mahori (giọng nữ buồn); Phát
cheay (giọng giận dữ).4
Trang trí sân khấu và hóa trang: các tích truyện
Dù kê diễn ra giữa các phông màn, đạo cụ đầy đủ.
Trang phục của diễn viên thì nhiều màu sắc. Diễn
viên không đội mũ, nam thì bịt khăn màu, dải thong
xuống vai, nữ kết hoa hay vòng kim tuyến trên mái
tóc. Không có nhân vật mang mặt nạ nhưng lại có
nhân vật vẽ mặt nạ.
3 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại
4 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại
Ngôn ngữ của sân khấu Dù kê: Dù kê là sân
khấu âm nhạc, nên ngôn ngữ chính của nó phải là
ca hát đối thoại trên nền nhạc. Hay nói cách khác,
tiếng nói của Dù kê là ca hát. Ở đây, mọi biểu hiện
nghệ thuật đều được cách điệu hóa, từ lời nói, bước
đi, dáng đứng. Và mọi hành động của sân khấu
đều diễn ra trong âm nhạc, bị âm nhạc điều khiển.
Người diễn viên, do đó không những phải biết hát,
hát hay mà còn phải nhạy cảm về âm nhạc, biết đi
đứng và hành động theo tiết tấu của âm nhạc. Dù
kê đã kế thừa không chỉ tinh hoa của mọi nguồn
nhạc dân tộc mà còn hơn thế nữa, Dù kê đã tiếp thu
cả vốn âm nhạc của dân tộc khác.
Điểm tương đồng giữa Dù kê với các loại
hình sân khấu khác trong khu vực Đông Nam Á
Thứ nhất là về nội dung phản ánh. Nghệ thuật
biểu diễn chung của các nước Đông Nam Á có
những nét giống nhau về nguồn gốc, ý niệm và nội
dung phản ánh.
Tính tôn giáo thể hiện rõ rệt trong các loại hình
nghệ thuật của hầu hết các quốc gia trong khu vực.
Yếu tố tâm linh, tôn giáo trong các vở diễn luôn
gắn liền với các ý niệm thiêng liêng trong việc thể
hiện các nhân vật. Các sân khấu biểu diễn tổng
hợp cả đạo và đời, trần gian và thần thánh, ước lệ
nhưng cũng rất chân thật.
Tính nhân văn cao cả. Nội dung ca ngợi người
lao động, tình yêu, tình bạn và mọi cách ứng xử
trong gia đình, ngoài xã hội hay lí giải về đạo lý làm
người. Nghệ thuật Dù kê cũng chia thành phái thiện,
phái ác, ở lành sẽ được nhiều điều hạnh phúc về sau.
Hay trong loại hình sân khấu Main Puteri của Ma-
lai-xi-a mang tính nhân đạo sâu sắc với mong muốn
chữa bệnh cho dân lành, cầu xin cho con người tránh
khỏi những bất hạnh do bệnh tật gây nên.
Tính dân gian. Bên cạnh các sân khấu trang
trọng, phục vụ cho cung đình thì một bộ phận sân
khấu còn phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân
dân, phục vụ nhu cầu giải trí, sinh hoạt văn hóa lễ
hội cho đồng bào, là chất keo kết dính cộng đồng
cư dân.
Chất dân gian sâu đậm và rộng rãi nhất trong
các trò diễn và các nghi lễ của những ngày hội
làng, hội chùa và lễ tết. Chất dân gian thể hiện ở
sức hấp dẫn người xem, thu hút họ tham gia vào
các trò chơi, tiết mục sân khấu. Xét cho đến cùng
thì chất dân gian chính là nguồn cung cấp vô tận
cho nghệ thuật truyền thống thêm phong phú.
Thứ hai là về phương pháp nghệ thuật. Bên
cạnh những nét giống nhau về nguồn gốc, tính
chất, nội dung phản ánh, nghệ thuật biểu diễn Đông
Nam Á còn có nhiều nét tương đồng về phương
pháp nghệ thuật. Đó là phương pháp diễn xướng
tổng thể, tính cách điệu, ước lệ. Đó là sân khấu sử
thi, sân khấu kể chuyện. Tất cả đều là những đặc
trưng của nghệ thuật biểu diễn vùng lúa nước này.
Điểm sáng tạo độc đáo của nghệ thuật Dù kê
Nam Bộ
Bên cạnh những điểm tương đồng, gần gũi thì
các loại hình nghệ thuật truyền thống của các nước
trong khu vực vẫn mang trong mình những sắc thái
riêng, đặc sắc của mỗi nước. Sự khác biệt giữa văn
hóa các quốc gia với nhau như nghệ thuật sân khấu
In-đô-nê-xi-a gắn liền với các điều kiện địa lý của
hàng ngàn hòn đảo, nên nghệ thuật đa dạng, nhiều
sắc thái hay Ma-lai-xi-a cùng song song tồn tại ba
loại hình sân khấu do có chung ba dân tộc Ấn, Hoa,
Mã Lai.
Đặc biệt, nghệ thuật Dù kê Nam Bộ với Yikê
của Campuchia cũng có những ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau.
Yikê ban đầu là loại hình nghệ thuật chỉ trình
diễn những cảnh châm biếm, du nhập từ nước
ngoài vào, dần dần trở thành một loại hình sân
khấu đa dạng gồm hát, múa dựa trên phong cách
dân gian, đôi khi có cả diễn xuất thơ; không có
đối thoại rõ ràng; từ chỗ thiên về hài, Yikê đã có
những vở mang tính chất bi kịch rõ ràng. Trước đây
Yikê được biểu diễn trong hoàng cung nhưng về
sau càng được phổ biến rộng rãi trên khắp cả nước.
Người Khmer ở Nam Bộ lại có loại hình nghệ
thuật Dù kê, tuy có chịu ảnh hưởng của loại hình
nghệ thuật Yikê của Campuchia nhưng lại có những
sáng tạo, những điểm khác biệt rõ rệt.
Về cách thức trình diễn sân khấu, vào thời
kì đầu ở Campuchia thường hát cương, các nhân
vật đều mang mặt nạ, mỗi khi nói hay hát thì phải
giương mặt nạ lên. Người Khmer Nam Bộ vẽ mặt
nạ, làm cho các nhân vật linh động, thoái mái trong
khi trình diễn.
Về nội dung, với đời sống cộng cư, Dù kê cũng
chịu sự ảnh hưởng và giao thoa với loại hình nghệ
thuật Cải lương của người Kinh, hát hồ Quảng của
người Hoa ở vùng đất này. Cũng như Cải lương
hay hát Bội, nội dung của kịch hát Dù kê cũng xoay
quanh những mối quan hệ gia đình, xã hội, tình yêu
đôi lứa. Người Khmer vốn rất tín ngưỡng đạo Phật
nên trong mỗi vở Dù kê đều mang đậm những triết
lý của nhà Phật, mang tính giáo dục cao. Trong đó,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt vẫn là triết lý “Ác lai ác báo”,
“Ở hiền gặp lành”. Nội dung các vở Dù kê đều đề
cao đạo lý làm người, hướng thiện, ca ngợi điều
tốt đẹp, thiện lương; lên án cái ác, cái xấu. Ngoài
thể hiện lại các tuồng tích xưa, các đoàn nghệ thuật
Khmer còn dựng các vở Dù kê mang tính xã hội
đương đại như: “Mẹ kế, con chồng”, “Nàng Túp
Son Hoa” (Bạc Liêu), “Nghĩa tình trong giông tố”,
“Giữ đền cô Hia”, “Bông hồng Trà Vinh”, “Mối
tình Bôpha - Rạngxây” (Trà Vinh)...
5. Kết luận
Tóm lại, văn hóa của người Khmer Nam Bộ đã
được hình thành từ lâu đời, là kết quả của sự kết
tinh, kế thừa của những nền văn hóa khác nhau nên
vừa đa dạng vừa phong phú. Người Khmer khéo
léo tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác để tạo ra
những diện mạo mới, mang sắc thái độc đáo riêng.
Người Khmer Nam Bộ sinh sống đông đảo nhất là
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, việc phát triển
văn hóa ở đây cũng góp phần không nhỏ vào sự
phát triển chung của nền văn hóa Nam Bộ. Trong
đó, Dù kê là loại hình nghệ thuật cần được bảo tồn
và phát triển.
Tài liệu tham khảo
Đặng Vũ Thị Thảo. 1988. Sân khấu của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tìm hiểu vốn
văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ - Hậu Giang
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Lưu Văn Nam. 1999. Người Khmer Nam Bộ. Nam Bộ xưa và nay. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Phan Thọ. 2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. NXB Chính trị quốc gia.
Sang Sết. 2004. Văn nghệ Khmer Trà Vinh với vai trò bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa các dân tộc. Số 7.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014188 Soá 13, thaùng 3/2014 189
4. Dù kê với sự giao thoa với các loại hình sân
khấu khu vực Đông Nam Á
Nghệ thuật Dù kê bắt nguồn ngay trên mảnh
đất Đồng bằng sông Cửu Long, nó được hình
thành khoảng năm 1921. Loại hình này xuất hiện
đầu tiên là ở Trà Vinh, “thủy tổ” của Dù kê là đoàn
Kru Kưu.3
Nội dung nghệ thuật Dù kê
Ngoài các tuồng tích từ các bản hùng ca Ấn
Độ Ramayana, Dù kê còn đưa lên sân khấu các
truyện tích của người Kinh như: Tấm Cám, Thạch
Sanh chém Chằn hay các tuồng Tàu như: Phàn Lê
Huê, Tiết Đinh San, Tam Tạng thỉnh kinh. Cho đến
nay, mảng đề tài này vẫn giữ được vai trò chủ đạo
trên sân khấu Dù kê, nhất là ở các đoàn hát nghiệp
dư như đoàn Ron Ron của huyện Mỹ Tú; đoàn
Tham Đôn, Mỹ Xuyên của tỉnh Sóc Trăng. Có thể
nói mảng đề tài này là rễ cây cổ thụ bám sát trong
lòng quần chúng suốt gần thế kỉ nay.
Ngày nay, nội dung hướng về các đề tài xã hội
được đặc biệt chú ý, phản ánh những biến đổi của
cuộc sống mới. Nội dung thay đổi cũng kéo theo
sự thay đổi của những yếu tố khác như lối diễn
xuất, hóa trang và trang trí sân khấu ngày càng gần
gũi với quần chúng hơn, thu hút người xem hơn.
Các nhân vật Dù kê trong các tích xưa thuộc
hai phái: phái thiện và phái ác. Trong phái thiện,
vai nam chính luôn là một nhân vật tài giỏi, hào
hoa, thường là vua, hoàng tử hay bậc anh hùng hào
kiệt đứng ra cứu mọi người khỏi cơn hoạn nạn.
Phái ác là “Chằn”, quan ác, tướng ác, công chúa
ác. Ngoài ra, hề cũng là một vai hết sức cần thiết,
là người giải thích các chi tiết, đồng thời là người
dẫn trò, bình luận.
Các làn điệu trong Dù kê, có bốn điệu chính:
sâm - pong (dành cho cảnh biệt ly hay các tình
huống bị đánh đập); Ângkoreach (dành cho tâm
trạng buồn thảm); Mahori (giọng nữ buồn); Phát
cheay (giọng giận dữ).4
Trang trí sân khấu và hóa trang: các tích truyện
Dù kê diễn ra giữa các phông màn, đạo cụ đầy đủ.
Trang phục của diễn viên thì nhiều màu sắc. Diễn
viên không đội mũ, nam thì bịt khăn màu, dải thong
xuống vai, nữ kết hoa hay vòng kim tuyến trên mái
tóc. Không có nhân vật mang mặt nạ nhưng lại có
nhân vật vẽ mặt nạ.
3 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại
4 Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại
Ngôn ngữ của sân khấu Dù kê: Dù kê là sân
khấu âm nhạc, nên ngôn ngữ chính của nó phải là
ca hát đối thoại trên nền nhạc. Hay nói cách khác,
tiếng nói của Dù kê là ca hát. Ở đây, mọi biểu hiện
nghệ thuật đều được cách điệu hóa, từ lời nói, bước
đi, dáng đứng. Và mọi hành động của sân khấu
đều diễn ra trong âm nhạc, bị âm nhạc điều khiển.
Người diễn viên, do đó không những phải biết hát,
hát hay mà còn phải nhạy cảm về âm nhạc, biết đi
đứng và hành động theo tiết tấu của âm nhạc. Dù
kê đã kế thừa không chỉ tinh hoa của mọi nguồn
nhạc dân tộc mà còn hơn thế nữa, Dù kê đã tiếp thu
cả vốn âm nhạc của dân tộc khác.
Điểm tương đồng giữa Dù kê với các loại
hình sân khấu khác trong khu vực Đông Nam Á
Thứ nhất là về nội dung phản ánh. Nghệ thuật
biểu diễn chung của các nước Đông Nam Á có
những nét giống nhau về nguồn gốc, ý niệm và nội
dung phản ánh.
Tính tôn giáo thể hiện rõ rệt trong các loại hình
nghệ thuật của hầu hết các quốc gia trong khu vực.
Yếu tố tâm linh, tôn giáo trong các vở diễn luôn
gắn liền với các ý niệm thiêng liêng trong việc thể
hiện các nhân vật. Các sân khấu biểu diễn tổng
hợp cả đạo và đời, trần gian và thần thánh, ước lệ
nhưng cũng rất chân thật.
Tính nhân văn cao cả. Nội dung ca ngợi người
lao động, tình yêu, tình bạn và mọi cách ứng xử
trong gia đình, ngoài xã hội hay lí giải về đạo lý làm
người. Nghệ thuật Dù kê cũng chia thành phái thiện,
phái ác, ở lành sẽ được nhiều điều hạnh phúc về sau.
Hay trong loại hình sân khấu Main Puteri của Ma-
lai-xi-a mang tính nhân đạo sâu sắc với mong muốn
chữa bệnh cho dân lành, cầu xin cho con người tránh
khỏi những bất hạnh do bệnh tật gây nên.
Tính dân gian. Bên cạnh các sân khấu trang
trọng, phục vụ cho cung đình thì một bộ phận sân
khấu còn phục vụ cho quảng đại quần chúng nhân
dân, phục vụ nhu cầu giải trí, sinh hoạt văn hóa lễ
hội cho đồng bào, là chất keo kết dính cộng đồng
cư dân.
Chất dân gian sâu đậm và rộng rãi nhất trong
các trò diễn và các nghi lễ của những ngày hội
làng, hội chùa và lễ tết. Chất dân gian thể hiện ở
sức hấp dẫn người xem, thu hút họ tham gia vào
các trò chơi, tiết mục sân khấu. Xét cho đến cùng
thì chất dân gian chính là nguồn cung cấp vô tận
cho nghệ thuật truyền thống thêm phong phú.
Thứ hai là về phương pháp nghệ thuật. Bên
cạnh những nét giống nhau về nguồn gốc, tính
chất, nội dung phản ánh, nghệ thuật biểu diễn Đông
Nam Á còn có nhiều nét tương đồng về phương
pháp nghệ thuật. Đó là phương pháp diễn xướng
tổng thể, tính cách điệu, ước lệ. Đó là sân khấu sử
thi, sân khấu kể chuyện. Tất cả đều là những đặc
trưng của nghệ thuật biểu diễn vùng lúa nước này.
Điểm sáng tạo độc đáo của nghệ thuật Dù kê
Nam Bộ
Bên cạnh những điểm tương đồng, gần gũi thì
các loại hình nghệ thuật truyền thống của các nước
trong khu vực vẫn mang trong mình những sắc thái
riêng, đặc sắc của mỗi nước. Sự khác biệt giữa văn
hóa các quốc gia với nhau như nghệ thuật sân khấu
In-đô-nê-xi-a gắn liền với các điều kiện địa lý của
hàng ngàn hòn đảo, nên nghệ thuật đa dạng, nhiều
sắc thái hay Ma-lai-xi-a cùng song song tồn tại ba
loại hình sân khấu do có chung ba dân tộc Ấn, Hoa,
Mã Lai.
Đặc biệt, nghệ thuật Dù kê Nam Bộ với Yikê
của Campuchia cũng có những ảnh hưởng qua lại
lẫn nhau.
Yikê ban đầu là loại hình nghệ thuật chỉ trình
diễn những cảnh châm biếm, du nhập từ nước
ngoài vào, dần dần trở thành một loại hình sân
khấu đa dạng gồm hát, múa dựa trên phong cách
dân gian, đôi khi có cả diễn xuất thơ; không có
đối thoại rõ ràng; từ chỗ thiên về hài, Yikê đã có
những vở mang tính chất bi kịch rõ ràng. Trước đây
Yikê được biểu diễn trong hoàng cung nhưng về
sau càng được phổ biến rộng rãi trên khắp cả nước.
Người Khmer ở Nam Bộ lại có loại hình nghệ
thuật Dù kê, tuy có chịu ảnh hưởng của loại hình
nghệ thuật Yikê của Campuchia nhưng lại có những
sáng tạo, những điểm khác biệt rõ rệt.
Về cách thức trình diễn sân khấu, vào thời
kì đầu ở Campuchia thường hát cương, các nhân
vật đều mang mặt nạ, mỗi khi nói hay hát thì phải
giương mặt nạ lên. Người Khmer Nam Bộ vẽ mặt
nạ, làm cho các nhân vật linh động, thoái mái trong
khi trình diễn.
Về nội dung, với đời sống cộng cư, Dù kê cũng
chịu sự ảnh hưởng và giao thoa với loại hình nghệ
thuật Cải lương của người Kinh, hát hồ Quảng của
người Hoa ở vùng đất này. Cũng như Cải lương
hay hát Bội, nội dung của kịch hát Dù kê cũng xoay
quanh những mối quan hệ gia đình, xã hội, tình yêu
đôi lứa. Người Khmer vốn rất tín ngưỡng đạo Phật
nên trong mỗi vở Dù kê đều mang đậm những triết
lý của nhà Phật, mang tính giáo dục cao. Trong đó,
sợi chỉ đỏ xuyên suốt vẫn là triết lý “Ác lai ác báo”,
“Ở hiền gặp lành”. Nội dung các vở Dù kê đều đề
cao đạo lý làm người, hướng thiện, ca ngợi điều
tốt đẹp, thiện lương; lên án cái ác, cái xấu. Ngoài
thể hiện lại các tuồng tích xưa, các đoàn nghệ thuật
Khmer còn dựng các vở Dù kê mang tính xã hội
đương đại như: “Mẹ kế, con chồng”, “Nàng Túp
Son Hoa” (Bạc Liêu), “Nghĩa tình trong giông tố”,
“Giữ đền cô Hia”, “Bông hồng Trà Vinh”, “Mối
tình Bôpha - Rạngxây” (Trà Vinh)...
5. Kết luận
Tóm lại, văn hóa của người Khmer Nam Bộ đã
được hình thành từ lâu đời, là kết quả của sự kết
tinh, kế thừa của những nền văn hóa khác nhau nên
vừa đa dạng vừa phong phú. Người Khmer khéo
léo tiếp thu tinh hoa của các dân tộc khác để tạo ra
những diện mạo mới, mang sắc thái độc đáo riêng.
Người Khmer Nam Bộ sinh sống đông đảo nhất là
ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, việc phát triển
văn hóa ở đây cũng góp phần không nhỏ vào sự
phát triển chung của nền văn hóa Nam Bộ. Trong
đó, Dù kê là loại hình nghệ thuật cần được bảo tồn
và phát triển.
Tài liệu tham khảo
Đặng Vũ Thị Thảo. 1988. Sân khấu của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tìm hiểu vốn
văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ - Hậu Giang
Hoàng Túc. 2011. Diễn ca Khmer Nam Bộ. NXB Thời đại.
Lưu Văn Nam. 1999. Người Khmer Nam Bộ. Nam Bộ xưa và nay. Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Phan Thọ. 2009. Nghệ thuật truyền thống Đông Nam Á. NXB Chính trị quốc gia.
Sang Sết. 2004. Văn nghệ Khmer Trà Vinh với vai trò bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn hóa các dân tộc. Số 7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghe_thuat_du_ke_va_su_giao_thoa_voi_cac_loai_hinh_san_khau.pdf