Chúng tôi đã trình bày một cách cơ bản về
nguồn gốc, đặc trưng và giá trị cũng như các giải
pháp bảo tồn đối với loại hình nghệ thuật sân khấu
Dù kê của người Khmer Nam Bộ. Song, để có thể
bảo tồn, phát huy giá trị của một di sản văn hóa
độc đáo của tộc người này, cần tiếp tục có những
nghiên cứu chuyên sâu theo từng chủ đề của loại
hình này để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định các chính sách đối với việc bảo tồn, phát huy.
Đặc biệt những nhà quản lý trên lĩnh vự này cần
nắm rõ nguồn gốc, đặc trưng và giá trị của loại
hình này để làm cứ liệu khoa học cho việc đề xuất
các giải pháp một cách tối ưu, đảm bảo tính sống
còn của loại hình nghệ thuật này.
Theo đó, để bảo tồn và phát huy một cách tốt
nhất, cần có tầm nhìn chiến lược trong công tác đào
tạo nguồn nhân lực cũng như có đầu tư kinh phí một
cách thỏa đáng nhằm giảm bớt những khó khăn đối
với đội ngũ diễn viên sân khấu Dù kê. Bởi vì, với
hiện tại, xu hướng xã hội hóa các lĩnh vực không
loại trừ nghệ thuật thì trước hết nghệ thuật cần thể
hiện được vị trí, vai trò và đặc trưng của mình trong
đời sống văn hóa tinh thần trước khi có sự đồng
thuận, hỗ trợ từ phía xã hội và cộng đồng.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghệ thuật sân khấu dù kê khmer Nam Bộ-Nguồn gốc, đặc trưng và các giải pháp bảo tồn, phát triển ề, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức đầu tiên của loại hình này như Dù kê vựa lúa,
Dù kê giàn bầu, Dù kê bột, Dù kê Chà Kọl. Tất
cả đều gọi theo văn hóa dân gian. Đây là cách gọi
mang đặc trưng dân gian rõ nét. Theo đó các yếu
tố như “giàn bầu”, “bột”, “vựa lúa” hay thậm chí
là “Chà Kọl” cũng là cách gọi xuất phát từ các
phương thức diễn xướng được ra đời từ không gian
văn hóa dân gian. Vì vậy, không lạ gì khi trong đời
sống của loại hình này, nhiều người, nhất là các cụ
già hay gọi với những cái tên “nguyên thủy” của
nó. Điều đó cho thấy, sân khấu Dù kê đã đứng trên
nền tảng của văn hóa nông nghiệp lúa nước mà cư
dân Khmer Nam Bộ là một chủ thể linh động, sáng
tạo. Có thể coi tên gọi mang tính chất dân gian này
là một yếu tố có tính bản địa đặc trưng của loại
hình sân khấu Dù kê. Từ đây, họ đã tiếp thu và
sáng tạo để làm nên sân khấu Dù kê rất đặc trưng
của tộc người mình.
Về không gian, thời gian diễn xướng, xuất
phát từ tên gọi có tính dân gian trên kia cho thấy
rõ không gian, thời diễn xướng của nó. Hai yếu
tố này không thể tách rời nhau. Có thể nói, đây
chính là loại hình có xuất phát điểm từ không gian
văn hóa gắn liền với không gian đồng ruộng. Nơi
mà người Khmer Nam Bộ sau vụ mùa thu hoạch
lúa và hoa màu, họ sẽ chọn mảnh ruộng, một góc
rẫy hoa màu để tổ chức các lễ hội đậm chất dân
gian nhất, tiêu biểu là lễ Cầu an. Sau phần nghi
thức của lễ hội Cầu an là phần hội diễn của sân
khấu Dù kê. Mặc dù với dân gian đã có sự biến
đổi về độ dài trình diễn của loại hình này. Ngoài
lễ hội Cầu an, các lễ hội có tính chất địa phương
rõ nét như Chrôi Rum chek (Phước Biển), Thek
Côn (Đạp Cồng) của người Khmer Sóc Trăng
cũng là nơi sân khấu Dù kê được trình diễn nhằm
đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần hết sức quan
trọng của người Khmer Sóc Trăng nói riêng, Nam
Bộ nói chung. Do ra đời từ văn hóa dân gian gắn
liền với không gian đồng ruộng và thời gian ngơi
nghỉ của cư dân nông nghiệp lúa nước nên loại
hình này về mặt nguyên thủy đã chứa đựng giá trị
văn hóa dân gian khác là linh động, cởi mở, vui
chơi. Chính những yếu tố này là những điều kiện
để sân khấu Dù kê từ dạng thức ban đầu là “vựa
lúa” “giàn bầu”, “bột” dung nạp, tiếp thu, sáng
tạo thêm từ sân khấu Cải lương và hát Tiều của
người Kinh và Hoa để tạo nên sân khấu Dù kê đặc
trưng dung hợp rõ nét.
2.2.2. Tính dung hợp của các loại hình diễn xướng:
ca (kịch bản), múa, nhạc.
Trong văn hóa Khmer, các loại hình ca, múa,
nhạc của họ có đặc trưng rất độc đáo. Mỗi loại có
thể tìm thấy trong đó nhiều giá trị và đặc trưng
khác nhau. Riêng loại hình sân khấu Dù kê thì sự
dung hợp các giá trị của các loại hình diễn xướng
trên là một đặc trưng độc đáo. Tuy rằng, ở mỗi loại
hình ca, múa, nhạc có thể loại hình này mượn của
loại hình kia một hay vài yếu tố. Song, trong đặc
trưng dung hợp của loại hình sân khấu Dù kê, sẽ
có yếu tố giữ vai trò “điểm nhấn” – đó chính là ca
(kịch bản). Chúng tôi xếp yếu tố này đầu tiên vì
nếu không có nó, thì không phải là ca kịch Dù kê
được. Sau đó đến múa, chúng ta cũng biết rằng,
mỗi khi vào phần ca kịch và kết thúc đều phải có
múa. Nhưng đặc trưng là múa không phải đóng
vai trò quan trọng mà chỉ là yếu tố đường viền để
“tạo đà” cho các đoạn thoại và nghệ thuật biểu
hiện hành động đạt được giá trị thẩm mỹ của nó. Ý
kiến này của chúng tôi rất khác với các ý kiến cho
rằng, múa giữ vai trò chủ đạo trong loại hình này.
Ở đây, chúng tôi không phủ nhận sự linh động,
uyển chuyển, sự mềm mại và hấp dẫn mang tính
chất nữ tính của các nghệ sĩ mà chủ yếu nhấn mạnh
vai trò kịch bản như bản chất vốn có của loại hình
này. Thật ra, đây cũng là yếu tố làm nên sự khác
biệt giữa sân khấu Dù kê và sân khấu Rô băm. Nếu
sân khấu Rô băm lấy yếu tố múa làm trọng tâm
cho sự thể hiện văn hóa cung đình (rất khó học
múa của Rô băm vì rất cầu kì, hơn nữa rất tốn thời
gian, nghệ sĩ về nó lại rất ít) thì sân khấu Dù kê
chọn yếu tố kịch bản thể hiện nhân sinh quan của
họ và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu tinh thần của
đại bộ phận quần chúng nhân dân lao động Khmer.
Mặc dù, sân khấu Dù kê có những yếu tố kế thừa
từ sân khấu Rô băm, kể cả trong múa của Rô băm.
Phải chăng vì điều này mà sân khấu Rô băm hiện
chỉ tồn tại và được lưu diễn ở Sóc Trăng.
Về vai trò của âm nhạc trong loại hình này,
đây là một yếu tố không phải thực hiện chức năng
“tạo đà” mà thực hiện chức năng “làm nền” cho
lời thoại (người nghệ sĩ sẽ thể hiện hành động và
ngôn ngữ) kịch bản được thăng hoa. Vì vậy, chúng
tôi xếp vai trò của âm nhạc đứng thứ hai sau kịch
bản rồi đến múa.
Như chúng tôi đã nêu, tính dung hòa các yếu
tố trên kia cho thấy một kịch bản sân khấu Dù kê
được xem là thành công khi cả ba yếu tố này cùng
được người nghệ sĩ thể hiện một cách sống động
và chân thật về chủ đề hay đề tài mà tác giả kịch
bản muốn thể hiện. Chính tính dung hòa đó, đã làm
cho kịch bản sân khấu Dù kê không bị xơ cứng và
khó thực hiện như biểu diễn sân khấu Rô băm (tất
nhiên mỗi loại có cái khó riêng).
2.2.3. Giá trị phản chiếu sự dung hợp văn hóa tộc
người từ góc độ kịch bản
Dựa trên các loại kịch bản ta có thể thấy rõ đặc
điểm này. Ngoài 3 loại kịch bản là: kịch bản dựa
vào các truyện thơ cổ; kịch bản dựa vào truyện
cổ tích; kịch bản được rút ra từ Phật thoại; còn có
kịch bản thể hiện sự giao thoa văn hóa tộc người rõ
nét: kịch bản là những tuồng tích của người Kinh,
người Hoa trên địa bàn cùng cư trú của các tộc
người này. Đây vừa là đặc điểm về mặt yếu tố kỹ
thuật bên trong của loại hình này đồng thời cũng
cho thấy sự dung hợp của văn hóa tộc người.
Trong chức năng diễn xướng, giá trị hưởng thụ
không chỉ dành riêng cho người Khmer mà còn
có cả người Kinh, Hoa cùng thưởng thức, chia sẻ.
Có vùng, những lời hát được sử dụng dưới hình
thức song ngữ Việt – Khmer. Đặc điểm giá trị phản
chiếu về sự dung hợp văn hóa tộc người này là
một quy luật tất yếu cho sự tồn tại của loại hình
này. Cùng sống trong môi trường văn hóa có nhiều
điểm dị biệt so với văn hóa cội nguồn của mình
ở Campuchia, người Khmer Nam Bộ đã nhanh
chóng tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ văn hóa của
người Kinh, Hoa và dĩ nhiên cũng có sự tác động
trở lại. Theo đó, loại hình sân khấu Cải lương của
người Kinh cũng có những nét tương đồng với sân
khấu Dù kê của người Khmer. Đó là sự tương đồng
về không gian, thời gian diễn xướng, đối tượng
thưởng thức. Các phương thức tồn tại của Dù kê
như Dù kê vựa lúa, Dù kê bột đã chỉ ra sự tương
đồng với loại hình Ca ra bộ, hay Đờn ca Tài tử
của người Kinh vốn đã phổ biến từ khi người Kinh
cùng với người Khmer định cư ở vùng đất này.
Những đêm hát Bội (tuồng cổ) trong lễ hội cúng
đình của người Kinh chắc hẳn đã đem đến những
kịch bản, những giá trị sân khấu để loại hình Dù
kê dung nạp các giá trị phù hợp với văn hóa tộc
người, chí ít là về mặt kịch bản sân khấu.
Hơn nữa, chúng ta thấy, kịch bản của sân khấu
Dù kê vốn dựa rất nhiều vào truyện cổ của họ,
nơi có thể thấy rất nhiều motif tương đồng so với
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014156 Soá 13, thaùng 3/2014 157
Dù kê bột thì ra đời từ những năm cuối thế kỉ
XIX, đầu thế kỉ XX. Như vậy, về mặt nguồn gốc,
hiện nay chưa có sự phân định rõ ràng về mặt xuất
xứ của loại hình, câu hỏi đặt ra là Dù kê của người
Khmer Nam Bộ ra đời cụ thể là năm nào và ở đâu?
Đến thời điểm hiện tại chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể về nghệ
thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Sự xác quyết
về nguồn gốc của loại hình này vẫn còn bỏ ngỏ vì
nhiều lẽ. Trong các công trình nêu trên, không có
một công trình nào đưa ra được văn bản chính thức
ghi lại nguồn gốc, xuất xứ của nó. Hơn nữa, trong
các công trình đó, các tác giả chủ yếu dựa vào ký
ức cá nhân chứ không dựa vào sự phát triển tuần tự
của loại hình này. Thậm chí, với sự phát triển tuần
tự của nó cũng không đủ cơ sở để khẳng định ra
đời ở địa bàn hay thời điểm chính thức nào!
Xuất phát điểm như vậy, theo chúng tôi, cần
thống nhất rằng về nguồn gốc của sân khấu Dù
kê Khmer Nam Bộ nên chăng cần xem xét nó là
sản phẩm chung của người Khmer Nam Bộ nói
chung và gọi tên chính thống là Dù kê. Vì thực ra
trong tuần tự phát triển của loại hình này (qua các
phương thức tồn tại của nó như Dù kê vựa lúa, Dù
kê giàn bầu, Dù kê bột) cũng không nói lên được
nhiều điều về xuất xứ. Những đặc trưng có tính
ngoại sinh cần xem xét cẩn thận để thấy rằng yếu
tố nội sinh chính là sự quyết định sống còn của loại
hình sân khấu này.
2.2. Một số đặc trưng của nghệ thuật sân khấu
Dù kê
2.2.1. Tính chất dân gian hay đặc trưng bản địa
Về tên gọi, như chúng ta đã biết, các phương
thức đầu tiên của loại hình này như Dù kê vựa lúa,
Dù kê giàn bầu, Dù kê bột, Dù kê Chà Kọl. Tất
cả đều gọi theo văn hóa dân gian. Đây là cách gọi
mang đặc trưng dân gian rõ nét. Theo đó các yếu
tố như “giàn bầu”, “bột”, “vựa lúa” hay thậm chí
là “Chà Kọl” cũng là cách gọi xuất phát từ các
phương thức diễn xướng được ra đời từ không gian
văn hóa dân gian. Vì vậy, không lạ gì khi trong đời
sống của loại hình này, nhiều người, nhất là các cụ
già hay gọi với những cái tên “nguyên thủy” của
nó. Điều đó cho thấy, sân khấu Dù kê đã đứng trên
nền tảng của văn hóa nông nghiệp lúa nước mà cư
dân Khmer Nam Bộ là một chủ thể linh động, sáng
tạo. Có thể coi tên gọi mang tính chất dân gian này
là một yếu tố có tính bản địa đặc trưng của loại
hình sân khấu Dù kê. Từ đây, họ đã tiếp thu và
sáng tạo để làm nên sân khấu Dù kê rất đặc trưng
của tộc người mình.
Về không gian, thời gian diễn xướng, xuất
phát từ tên gọi có tính dân gian trên kia cho thấy
rõ không gian, thời diễn xướng của nó. Hai yếu
tố này không thể tách rời nhau. Có thể nói, đây
chính là loại hình có xuất phát điểm từ không gian
văn hóa gắn liền với không gian đồng ruộng. Nơi
mà người Khmer Nam Bộ sau vụ mùa thu hoạch
lúa và hoa màu, họ sẽ chọn mảnh ruộng, một góc
rẫy hoa màu để tổ chức các lễ hội đậm chất dân
gian nhất, tiêu biểu là lễ Cầu an. Sau phần nghi
thức của lễ hội Cầu an là phần hội diễn của sân
khấu Dù kê. Mặc dù với dân gian đã có sự biến
đổi về độ dài trình diễn của loại hình này. Ngoài
lễ hội Cầu an, các lễ hội có tính chất địa phương
rõ nét như Chrôi Rum chek (Phước Biển), Thek
Côn (Đạp Cồng) của người Khmer Sóc Trăng
cũng là nơi sân khấu Dù kê được trình diễn nhằm
đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần hết sức quan
trọng của người Khmer Sóc Trăng nói riêng, Nam
Bộ nói chung. Do ra đời từ văn hóa dân gian gắn
liền với không gian đồng ruộng và thời gian ngơi
nghỉ của cư dân nông nghiệp lúa nước nên loại
hình này về mặt nguyên thủy đã chứa đựng giá trị
văn hóa dân gian khác là linh động, cởi mở, vui
chơi. Chính những yếu tố này là những điều kiện
để sân khấu Dù kê từ dạng thức ban đầu là “vựa
lúa” “giàn bầu”, “bột” dung nạp, tiếp thu, sáng
tạo thêm từ sân khấu Cải lương và hát Tiều của
người Kinh và Hoa để tạo nên sân khấu Dù kê đặc
trưng dung hợp rõ nét.
2.2.2. Tính dung hợp của các loại hình diễn xướng:
ca (kịch bản), múa, nhạc.
Trong văn hóa Khmer, các loại hình ca, múa,
nhạc của họ có đặc trưng rất độc đáo. Mỗi loại có
thể tìm thấy trong đó nhiều giá trị và đặc trưng
khác nhau. Riêng loại hình sân khấu Dù kê thì sự
dung hợp các giá trị của các loại hình diễn xướng
trên là một đặc trưng độc đáo. Tuy rằng, ở mỗi loại
hình ca, múa, nhạc có thể loại hình này mượn của
loại hình kia một hay vài yếu tố. Song, trong đặc
trưng dung hợp của loại hình sân khấu Dù kê, sẽ
có yếu tố giữ vai trò “điểm nhấn” – đó chính là ca
(kịch bản). Chúng tôi xếp yếu tố này đầu tiên vì
nếu không có nó, thì không phải là ca kịch Dù kê
được. Sau đó đến múa, chúng ta cũng biết rằng,
mỗi khi vào phần ca kịch và kết thúc đều phải có
múa. Nhưng đặc trưng là múa không phải đóng
vai trò quan trọng mà chỉ là yếu tố đường viền để
“tạo đà” cho các đoạn thoại và nghệ thuật biểu
hiện hành động đạt được giá trị thẩm mỹ của nó. Ý
kiến này của chúng tôi rất khác với các ý kiến cho
rằng, múa giữ vai trò chủ đạo trong loại hình này.
Ở đây, chúng tôi không phủ nhận sự linh động,
uyển chuyển, sự mềm mại và hấp dẫn mang tính
chất nữ tính của các nghệ sĩ mà chủ yếu nhấn mạnh
vai trò kịch bản như bản chất vốn có của loại hình
này. Thật ra, đây cũng là yếu tố làm nên sự khác
biệt giữa sân khấu Dù kê và sân khấu Rô băm. Nếu
sân khấu Rô băm lấy yếu tố múa làm trọng tâm
cho sự thể hiện văn hóa cung đình (rất khó học
múa của Rô băm vì rất cầu kì, hơn nữa rất tốn thời
gian, nghệ sĩ về nó lại rất ít) thì sân khấu Dù kê
chọn yếu tố kịch bản thể hiện nhân sinh quan của
họ và nhanh chóng đáp ứng nhu cầu tinh thần của
đại bộ phận quần chúng nhân dân lao động Khmer.
Mặc dù, sân khấu Dù kê có những yếu tố kế thừa
từ sân khấu Rô băm, kể cả trong múa của Rô băm.
Phải chăng vì điều này mà sân khấu Rô băm hiện
chỉ tồn tại và được lưu diễn ở Sóc Trăng.
Về vai trò của âm nhạc trong loại hình này,
đây là một yếu tố không phải thực hiện chức năng
“tạo đà” mà thực hiện chức năng “làm nền” cho
lời thoại (người nghệ sĩ sẽ thể hiện hành động và
ngôn ngữ) kịch bản được thăng hoa. Vì vậy, chúng
tôi xếp vai trò của âm nhạc đứng thứ hai sau kịch
bản rồi đến múa.
Như chúng tôi đã nêu, tính dung hòa các yếu
tố trên kia cho thấy một kịch bản sân khấu Dù kê
được xem là thành công khi cả ba yếu tố này cùng
được người nghệ sĩ thể hiện một cách sống động
và chân thật về chủ đề hay đề tài mà tác giả kịch
bản muốn thể hiện. Chính tính dung hòa đó, đã làm
cho kịch bản sân khấu Dù kê không bị xơ cứng và
khó thực hiện như biểu diễn sân khấu Rô băm (tất
nhiên mỗi loại có cái khó riêng).
2.2.3. Giá trị phản chiếu sự dung hợp văn hóa tộc
người từ góc độ kịch bản
Dựa trên các loại kịch bản ta có thể thấy rõ đặc
điểm này. Ngoài 3 loại kịch bản là: kịch bản dựa
vào các truyện thơ cổ; kịch bản dựa vào truyện
cổ tích; kịch bản được rút ra từ Phật thoại; còn có
kịch bản thể hiện sự giao thoa văn hóa tộc người rõ
nét: kịch bản là những tuồng tích của người Kinh,
người Hoa trên địa bàn cùng cư trú của các tộc
người này. Đây vừa là đặc điểm về mặt yếu tố kỹ
thuật bên trong của loại hình này đồng thời cũng
cho thấy sự dung hợp của văn hóa tộc người.
Trong chức năng diễn xướng, giá trị hưởng thụ
không chỉ dành riêng cho người Khmer mà còn
có cả người Kinh, Hoa cùng thưởng thức, chia sẻ.
Có vùng, những lời hát được sử dụng dưới hình
thức song ngữ Việt – Khmer. Đặc điểm giá trị phản
chiếu về sự dung hợp văn hóa tộc người này là
một quy luật tất yếu cho sự tồn tại của loại hình
này. Cùng sống trong môi trường văn hóa có nhiều
điểm dị biệt so với văn hóa cội nguồn của mình
ở Campuchia, người Khmer Nam Bộ đã nhanh
chóng tiếp thu và chịu ảnh hưởng từ văn hóa của
người Kinh, Hoa và dĩ nhiên cũng có sự tác động
trở lại. Theo đó, loại hình sân khấu Cải lương của
người Kinh cũng có những nét tương đồng với sân
khấu Dù kê của người Khmer. Đó là sự tương đồng
về không gian, thời gian diễn xướng, đối tượng
thưởng thức. Các phương thức tồn tại của Dù kê
như Dù kê vựa lúa, Dù kê bột đã chỉ ra sự tương
đồng với loại hình Ca ra bộ, hay Đờn ca Tài tử
của người Kinh vốn đã phổ biến từ khi người Kinh
cùng với người Khmer định cư ở vùng đất này.
Những đêm hát Bội (tuồng cổ) trong lễ hội cúng
đình của người Kinh chắc hẳn đã đem đến những
kịch bản, những giá trị sân khấu để loại hình Dù
kê dung nạp các giá trị phù hợp với văn hóa tộc
người, chí ít là về mặt kịch bản sân khấu.
Hơn nữa, chúng ta thấy, kịch bản của sân khấu
Dù kê vốn dựa rất nhiều vào truyện cổ của họ,
nơi có thể thấy rất nhiều motif tương đồng so với
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014158 Soá 13, thaùng 3/2014 159
truyện cổ tích của người Kinh, nhất là các đề tài về
nhân sinh, thế sự và sự hiện hữu của các nhân vật
người mồ côi, người em út, nhân vật thần kì. Chính
từ đây đã chỉ ra rằng, sự dung hợp kịch bản trong
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ cũng là một quy
luật tất yếu. Ngoài ra, chúng ta còn thấy, trong loại
hình hát tuồng mà người Kinh hay thưởng thức
trong lễ hội cúng đình cũng có kịch bản vốn lấy
kịch bản từ các kịch bản văn học của người Hoa.
Vì vậy, không lạ gì loại kịch bản thứ tư như chúng
tôi đã trình bày chính là biểu hiện rõ nét nhất của
sự dung hợp văn hóa tộc người: Khmer, Kinh, Hoa
trong loại hình sân khấu này.
Một điểm nữa đáng lưu ý là, trong sự phát triển
tuần tự của loại hình này, người ta đã chú ý đến vai
trò của các cá nhân mà xuất phát của họ là người
Khmer lai Triều Châu (Hoa). Theo tác giả bài viết
“Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc
Trăng” thì Lý Kọn (hay Xã Kọn), người Khmer lai
Triều Châu ở xã An Ninh, Mỹ Tú là người sáng lập
nên sân khấu Dù kê ở Sóc Trăng vào năm 19205.
Cùng thống nhất với quan điểm này, Địa chí Sóc
Trăng (2012), phần nhân vật Chí ghi nhận công
lao to lớn của Xã Kọn đối với nghệ thuật sân khấu
Dù kê Nam Bộ nói chung và Dù kê Sóc Trăng nói
riêng như sau: “Có thể khẳng định rằng, Xã Kọl
là người có công đặt nền móng sân khấu Yukê đầu
tiên ở Sóc Trăng. Yukê trở thành một nét độc đáo
trong kho tàng văn hóa truyền thống của người
Khmer Nam Bộ”6. Điều này, một lần nữa khẳng
định, sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ ra đời đầu
tiên ở Sóc Trăng là rất có cơ sở. Cùng với quan
điểm này, tác giả của công trình nghiên cứu “Tìm
hiểu sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng” sau khi đã phân biệt cách hiểu Dù
kê với Rom lăm, Lo khôn Lăm, Dì kê, À pê đã đưa
ra kết luận về vai trò của cá nhân và nguồn gốc Dù
kê đầu tiên ở Sóc Trăng7.
5 Tiền Văn Triệu. 2011. Hai loại hình sân khấu của người
Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số12/2011. tr40.
6 Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng. 2012. Địa chí Sóc Trăng.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. tr 1077.
7 Xin xem thêm Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Hội
Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
Ngoài những vấn đề nêu trên từ kịch bản,
chúng ta có thể tìm thấy biểu hiện của văn hóa Bà
la môn giáo (vì bản thân sân khấu Dù kê có tiếp thu
các giá trị và kể cả kịch bản sân khấu Rô băm – nơi
mà văn hóa Bà La môn giáo được lấy làm trọng
tâm cho việc thể hiện văn hóa Khmer dù đã được
bản địa hóa rất nhiều) và văn hóa Phật giáo Nam
tông qua sự thể hiện của từng kịch bản. Nhất là
giá trị và vai trò của Phật giáo Nam tông trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Khmer được thể
hiện một cách đậm nét qua chủ đề thiện – ác mà
các kịch bản sân khấu Dù kê xây dựng và thể hiện.
Từ những vấn đề trên đây, chúng tôi xây dựng
các giải pháp bảo tồn cho loại hình sân khấu Dù kê
của người Khmer Nam Bộ.
2.3. Một số quan điểm về bảo tồn và phát huy
giá trị của sân khấu Dù kê
Sân khấu Dù kê là di sản văn hóa phi vật thể,
loại hình diễn xướng nghệ thuật độc đáo và đặc
thù, tiêu biểu của cộng đồng người Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Được nhiều thế hệ nghệ nhân
bỏ nhiều công sức sáng tạo và phát triển, sân khấu
Dù kê còn được xem là tài sản văn hóa của bà con
Khmer Nam Bộ và thật tự hào vì có thời điểm loại
hình nghệ thuật này ảnh hưởng sâu rộng đến sinh
hoạt văn hóa tinh thần của người dân Campuchia8.
Thế nhưng, hiện tại, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhất là đời sống của một bộ phận diễn viên
gặp khó khăn, nên loại hình sân khấu này ngày
càng thu hẹp trong đời sống cộng đồng, Do đó,
cần phải có các biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát
huy giá trị nghệ thuật sân khấu Dù kê của đồng bào
8 Theo Sơn Lương cho biết: từ năm 1929, gánh hát Dù kê
của ông Chhà Kọn bắt đầu mở rộng hoạt động ở CamPuChia
và gây tiếng vang khá lớn. Dần dần, Dù kê Khmer Nam Bộ
đã nhanh chóng chinh phục được đông đảo khán giả và trở
thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa thiết yếu của người dân
nước này. Đặc biệt, đoàn hát của ông Chhà Kọn từng được
mời vào Hoàng cung biểu diễn cho nhà vua CamPuChia xem.
Cảm kích trước tấm lòng yêu nghề và sự hi sinh lớn lao, nhà
vua đã tặng cho gánh hát này một huân chương của hoàng gia
cùng với số tiền 2.600 Riel lúc bấy giờ. Đồng thời vua còn
tặng cho ông bầu Chhà Kọn một chiếc xe ô tô màu đen để làm
phương tiện đi lại của gánh hát. Nguồn: Sơn Lương (2012).
Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
tr. 109-114.
Khmer Nam Bộ. Quan điểm của chúng tôi về vấn
đề này như sau:
Thứ nhất, ở phương diện quan điểm bảo tồn
sân khấu Dù kê, chúng tôi mong muốn đề xuất cả
hai hình thức bảo tồn “động” và bảo tồn “tĩnh”,
trong đó chú trọng việc bảo tồn “động”. Theo Ngô
Đức Thịnh, với di sản văn hóa phi vật thể, hình
thức bảo tồn “tĩnh” tức là việc tiến hành điều tra,
sưu tầm, thu thập và bảo vệ chúng bằng hình thức
sách vở, hình ảnh, băng hình, băng tiếng, được
lưu giữ ở các kho lưu trữ, viện bảo tàng. Còn hình
thức bảo tồn “động” chính là bảo tồn các hiện
tượng văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời
sống cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường
không chỉ sản sinh ra hiện tượng văn hóa phi vật
thể mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu và phát
huy nó trong đời sống xã hội9. Như vậy, hình thức
bảo tồn “tĩnh” sân khấu Dù kê của người Khmer
Nam Bộ là việc tổ chức quay phim lại những vở
Dù kê có nội dung mang tính truyền thống, những
bài hát của các nghệ nhân cao tuổi. Đồng thời, cần
phải sưu tầm các hiện vật đàn, trống, đồ diễn, kịch
bản, chân dung các nghệ nhân để giữ gìn ở các
bảo tàng một số địa phương. Làm được điều này
thì chắc chắn đây sẽ là những tư liệu quí giá cho
thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình hình
thành và phát triển loại hình nghệ thuật sân khấu
này. Thế nhưng, vấn đề bảo tồn “động” nghệ thuật
sân khấu Dù kê thì cần được quan tâm hơn. Làm
sao để hình thức nghệ thuật này tiếp tục phát triển
trong đời sống của bà con Khmer ở đây? Đáp án
cho câu hỏi này chắc chắn phải liên quan đến việc
tìm hiểu nhận thức, suy nghĩ của cộng đồng về loại
hình nghệ thuật này, các giá trị của nó đối với bà
con Khmer hiện nay, tình cảm của người dân với
sân khấu Dù kê ra sao. Từ đó, các cơ quan quản lí,
bảo tồn sẽ có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục để
nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc bảo tồn,
phát huy giá trị của sân khấu Dù kê.
Thứ hai, nghệ thuật sân khấu Dù kê của bà
con Khmer Nam Bộ đã có gần 100 năm hình thành
và phát triển với bao thăng trầm. Để được tồn tại
9 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam. NXB.Khoa học xã hội. Hà Nội. tr 98-99.
đến ngày nay chính là do tinh thần sáng tạo miệt
mài, không ngừng trau dồi rèn luyện, lòng yêu
mến nghệ thuật, tính kiên trì nhẫn nại của nhiều
thế hệ nghệ nhân. Trong sách Tìm hiểu nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh
Sóc Trăng của Sơn Lương đã nhắc đến vai trò rất
lớn của nghệ nhân nổi tiếng Chhà Kọn. Với tấm
lòng thiết tha với nghệ thuật này, ông đã bỏ công
sức, tiền của lập gánh hát, hướng dẫn tập luyện cho
diễn viên nhằm nâng cao chất lượng nghệ thuật để
phục vụ công chúng. Nhiều lần đứng trước tình
thế khó khăn, thậm chí là giải tán đoàn hát, nhưng
ông Chhà Kọn, bằng nhiều cách, đã làm sống lại
nghệ thuật sân khấu Dù kê cho đến ngày cuối đời.
Do vậy, việc tôn vinh các thế hệ nghệ nhân là cần
thiết, là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Các nhà nghiên cứu cùng các cơ quan có liên quan
nên tiếp tục sưu tầm, tìm hiểu tiểu sử của các nghệ
nhân tiền bối và giới thiệu cho thế hệ diễn viên
hiện tại, tìm cách lưu giữ, trưng bày hình ảnh và
hiện vật liên quan đến họ. Đồng thời, cần có kế
hoạch phong danh hiệu cho một số nghệ nhân lão
thành tiêu biểu của sân khấu Dù kê. Văn hóa phi
vật thể là văn hóa tiềm ẩn trong tâm thức và trí
nhớ của một số người, mà lâu nay chúng ta mệnh
danh họ là những nghệ nhân hay là những “báu vật
sống”. Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với việc “bảo tồn”
các “báu vật sống” đó. Đó chính là việc nhà nước,
cộng đồng thừa nhận những tài năng dân gian đó,
tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo những điều kiện
tốt nhất trong hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu,
sống khỏe mạnh, phát huy khả năng của mình
trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống trong điều kiện xã hội hiện đại
hóa và công nghiệp hóa ngày nay10.
Thứ ba, trong việc bảo tồn và phát huy giá trị
của sân khấu Dù kê thì cần phải xem đây chính là
sản nghiệp văn hóa của đội ngũ diễn viên, nghệ
nhân nói riêng và cộng đồng người Khmer Nam
Bộ nói chung. Trong công trình Bảo tồn, làm giàu
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt
10 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam. NXB.Khoa học xã hội. Hà Nội. tr 99.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014158 Soá 13, thaùng 3/2014 159
truyện cổ tích của người Kinh, nhất là các đề tài về
nhân sinh, thế sự và sự hiện hữu của các nhân vật
người mồ côi, người em út, nhân vật thần kì. Chính
từ đây đã chỉ ra rằng, sự dung hợp kịch bản trong
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ cũng là một quy
luật tất yếu. Ngoài ra, chúng ta còn thấy, trong loại
hình hát tuồng mà người Kinh hay thưởng thức
trong lễ hội cúng đình cũng có kịch bản vốn lấy
kịch bản từ các kịch bản văn học của người Hoa.
Vì vậy, không lạ gì loại kịch bản thứ tư như chúng
tôi đã trình bày chính là biểu hiện rõ nét nhất của
sự dung hợp văn hóa tộc người: Khmer, Kinh, Hoa
trong loại hình sân khấu này.
Một điểm nữa đáng lưu ý là, trong sự phát triển
tuần tự của loại hình này, người ta đã chú ý đến vai
trò của các cá nhân mà xuất phát của họ là người
Khmer lai Triều Châu (Hoa). Theo tác giả bài viết
“Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc
Trăng” thì Lý Kọn (hay Xã Kọn), người Khmer lai
Triều Châu ở xã An Ninh, Mỹ Tú là người sáng lập
nên sân khấu Dù kê ở Sóc Trăng vào năm 19205.
Cùng thống nhất với quan điểm này, Địa chí Sóc
Trăng (2012), phần nhân vật Chí ghi nhận công
lao to lớn của Xã Kọn đối với nghệ thuật sân khấu
Dù kê Nam Bộ nói chung và Dù kê Sóc Trăng nói
riêng như sau: “Có thể khẳng định rằng, Xã Kọl
là người có công đặt nền móng sân khấu Yukê đầu
tiên ở Sóc Trăng. Yukê trở thành một nét độc đáo
trong kho tàng văn hóa truyền thống của người
Khmer Nam Bộ”6. Điều này, một lần nữa khẳng
định, sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ ra đời đầu
tiên ở Sóc Trăng là rất có cơ sở. Cùng với quan
điểm này, tác giả của công trình nghiên cứu “Tìm
hiểu sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng” sau khi đã phân biệt cách hiểu Dù
kê với Rom lăm, Lo khôn Lăm, Dì kê, À pê đã đưa
ra kết luận về vai trò của cá nhân và nguồn gốc Dù
kê đầu tiên ở Sóc Trăng7.
5 Tiền Văn Triệu. 2011. Hai loại hình sân khấu của người
Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số12/2011. tr40.
6 Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng. 2012. Địa chí Sóc Trăng.
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. tr 1077.
7 Xin xem thêm Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân
khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng, Hội
Văn học Nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
Ngoài những vấn đề nêu trên từ kịch bản,
chúng ta có thể tìm thấy biểu hiện của văn hóa Bà
la môn giáo (vì bản thân sân khấu Dù kê có tiếp thu
các giá trị và kể cả kịch bản sân khấu Rô băm – nơi
mà văn hóa Bà La môn giáo được lấy làm trọng
tâm cho việc thể hiện văn hóa Khmer dù đã được
bản địa hóa rất nhiều) và văn hóa Phật giáo Nam
tông qua sự thể hiện của từng kịch bản. Nhất là
giá trị và vai trò của Phật giáo Nam tông trong đời
sống văn hóa tinh thần của người Khmer được thể
hiện một cách đậm nét qua chủ đề thiện – ác mà
các kịch bản sân khấu Dù kê xây dựng và thể hiện.
Từ những vấn đề trên đây, chúng tôi xây dựng
các giải pháp bảo tồn cho loại hình sân khấu Dù kê
của người Khmer Nam Bộ.
2.3. Một số quan điểm về bảo tồn và phát huy
giá trị của sân khấu Dù kê
Sân khấu Dù kê là di sản văn hóa phi vật thể,
loại hình diễn xướng nghệ thuật độc đáo và đặc
thù, tiêu biểu của cộng đồng người Khmer ở Đồng
bằng sông Cửu Long. Được nhiều thế hệ nghệ nhân
bỏ nhiều công sức sáng tạo và phát triển, sân khấu
Dù kê còn được xem là tài sản văn hóa của bà con
Khmer Nam Bộ và thật tự hào vì có thời điểm loại
hình nghệ thuật này ảnh hưởng sâu rộng đến sinh
hoạt văn hóa tinh thần của người dân Campuchia8.
Thế nhưng, hiện tại, do nhiều nguyên nhân khác
nhau, nhất là đời sống của một bộ phận diễn viên
gặp khó khăn, nên loại hình sân khấu này ngày
càng thu hẹp trong đời sống cộng đồng, Do đó,
cần phải có các biện pháp hữu hiệu bảo tồn và phát
huy giá trị nghệ thuật sân khấu Dù kê của đồng bào
8 Theo Sơn Lương cho biết: từ năm 1929, gánh hát Dù kê
của ông Chhà Kọn bắt đầu mở rộng hoạt động ở CamPuChia
và gây tiếng vang khá lớn. Dần dần, Dù kê Khmer Nam Bộ
đã nhanh chóng chinh phục được đông đảo khán giả và trở
thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa thiết yếu của người dân
nước này. Đặc biệt, đoàn hát của ông Chhà Kọn từng được
mời vào Hoàng cung biểu diễn cho nhà vua CamPuChia xem.
Cảm kích trước tấm lòng yêu nghề và sự hi sinh lớn lao, nhà
vua đã tặng cho gánh hát này một huân chương của hoàng gia
cùng với số tiền 2.600 Riel lúc bấy giờ. Đồng thời vua còn
tặng cho ông bầu Chhà Kọn một chiếc xe ô tô màu đen để làm
phương tiện đi lại của gánh hát. Nguồn: Sơn Lương (2012).
Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa
bàn tỉnh Sóc Trăng. Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
tr. 109-114.
Khmer Nam Bộ. Quan điểm của chúng tôi về vấn
đề này như sau:
Thứ nhất, ở phương diện quan điểm bảo tồn
sân khấu Dù kê, chúng tôi mong muốn đề xuất cả
hai hình thức bảo tồn “động” và bảo tồn “tĩnh”,
trong đó chú trọng việc bảo tồn “động”. Theo Ngô
Đức Thịnh, với di sản văn hóa phi vật thể, hình
thức bảo tồn “tĩnh” tức là việc tiến hành điều tra,
sưu tầm, thu thập và bảo vệ chúng bằng hình thức
sách vở, hình ảnh, băng hình, băng tiếng, được
lưu giữ ở các kho lưu trữ, viện bảo tàng. Còn hình
thức bảo tồn “động” chính là bảo tồn các hiện
tượng văn hóa phi vật thể ngay chính trong đời
sống cộng đồng. Cộng đồng chính là môi trường
không chỉ sản sinh ra hiện tượng văn hóa phi vật
thể mà còn là nơi tốt nhất bảo tồn, làm giàu và phát
huy nó trong đời sống xã hội9. Như vậy, hình thức
bảo tồn “tĩnh” sân khấu Dù kê của người Khmer
Nam Bộ là việc tổ chức quay phim lại những vở
Dù kê có nội dung mang tính truyền thống, những
bài hát của các nghệ nhân cao tuổi. Đồng thời, cần
phải sưu tầm các hiện vật đàn, trống, đồ diễn, kịch
bản, chân dung các nghệ nhân để giữ gìn ở các
bảo tàng một số địa phương. Làm được điều này
thì chắc chắn đây sẽ là những tư liệu quí giá cho
thế hệ sau tìm hiểu, nghiên cứu về quá trình hình
thành và phát triển loại hình nghệ thuật sân khấu
này. Thế nhưng, vấn đề bảo tồn “động” nghệ thuật
sân khấu Dù kê thì cần được quan tâm hơn. Làm
sao để hình thức nghệ thuật này tiếp tục phát triển
trong đời sống của bà con Khmer ở đây? Đáp án
cho câu hỏi này chắc chắn phải liên quan đến việc
tìm hiểu nhận thức, suy nghĩ của cộng đồng về loại
hình nghệ thuật này, các giá trị của nó đối với bà
con Khmer hiện nay, tình cảm của người dân với
sân khấu Dù kê ra sao. Từ đó, các cơ quan quản lí,
bảo tồn sẽ có kế hoạch tuyên truyền, giáo dục để
nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc bảo tồn,
phát huy giá trị của sân khấu Dù kê.
Thứ hai, nghệ thuật sân khấu Dù kê của bà
con Khmer Nam Bộ đã có gần 100 năm hình thành
và phát triển với bao thăng trầm. Để được tồn tại
9 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam. NXB.Khoa học xã hội. Hà Nội. tr 98-99.
đến ngày nay chính là do tinh thần sáng tạo miệt
mài, không ngừng trau dồi rèn luyện, lòng yêu
mến nghệ thuật, tính kiên trì nhẫn nại của nhiều
thế hệ nghệ nhân. Trong sách Tìm hiểu nghệ thuật
sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh
Sóc Trăng của Sơn Lương đã nhắc đến vai trò rất
lớn của nghệ nhân nổi tiếng Chhà Kọn. Với tấm
lòng thiết tha với nghệ thuật này, ông đã bỏ công
sức, tiền của lập gánh hát, hướng dẫn tập luyện cho
diễn viên nhằm nâng cao chất lượng nghệ thuật để
phục vụ công chúng. Nhiều lần đứng trước tình
thế khó khăn, thậm chí là giải tán đoàn hát, nhưng
ông Chhà Kọn, bằng nhiều cách, đã làm sống lại
nghệ thuật sân khấu Dù kê cho đến ngày cuối đời.
Do vậy, việc tôn vinh các thế hệ nghệ nhân là cần
thiết, là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Các nhà nghiên cứu cùng các cơ quan có liên quan
nên tiếp tục sưu tầm, tìm hiểu tiểu sử của các nghệ
nhân tiền bối và giới thiệu cho thế hệ diễn viên
hiện tại, tìm cách lưu giữ, trưng bày hình ảnh và
hiện vật liên quan đến họ. Đồng thời, cần có kế
hoạch phong danh hiệu cho một số nghệ nhân lão
thành tiêu biểu của sân khấu Dù kê. Văn hóa phi
vật thể là văn hóa tiềm ẩn trong tâm thức và trí
nhớ của một số người, mà lâu nay chúng ta mệnh
danh họ là những nghệ nhân hay là những “báu vật
sống”. Do vậy, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với việc “bảo tồn”
các “báu vật sống” đó. Đó chính là việc nhà nước,
cộng đồng thừa nhận những tài năng dân gian đó,
tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo những điều kiện
tốt nhất trong hoàn cảnh có thể, để họ sống lâu,
sống khỏe mạnh, phát huy khả năng của mình
trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống trong điều kiện xã hội hiện đại
hóa và công nghiệp hóa ngày nay10.
Thứ ba, trong việc bảo tồn và phát huy giá trị
của sân khấu Dù kê thì cần phải xem đây chính là
sản nghiệp văn hóa của đội ngũ diễn viên, nghệ
nhân nói riêng và cộng đồng người Khmer Nam
Bộ nói chung. Trong công trình Bảo tồn, làm giàu
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt
10 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam. NXB.Khoa học xã hội. Hà Nội. tr 99.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014160 Soá 13, thaùng 3/2014 161
Nam trong đổi mới và hội nhập của Ngô Đức Thịnh
chủ biên, sản nghiệp văn hóa là những di sản văn
hóa có giá trị cao và nhiều mặt (giá trị lịch sử, giá
trị văn hóa, nghệ thuật,) đáp ứng được những
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, khám phá của nhân
dân, có thể đưa ra khai thác và mang lại những giá
trị kinh tế cao vừa đóng góp vào nền kinh tế quốc
dân vừa tạo ra nguồn lực có thể đầu tư trở lại nhằm
bảo tồn và phát huy bản thân di sản văn hóa ấy11.
Thế nhưng bản thân Dù kê không thể trở thành sản
nghiệp văn hóa nếu không có các hoạt động đầu
tư, quảng bá, thu hút khách tham quan. Chúng tôi
nghĩ rằng, nên gắn liền Dù kê với hoạt động du
lịch ở một số địa phương (Trà Vinh, Sóc Trăng,
Kiên Giang, Bạc Liêu, An Giang) thông qua việc
tổ chức biểu diễn cho khách du lịch trong và ngoài
nước. Các đoàn hát Dù kê, đội ngũ diễn viên và
phục vụ biểu diễn nhất thiết phải được hưởng lợi,
tăng nguồn thu nhập từ đây để an tâm biểu diễn,
sống chết với nghề vì hiện nay cuộc sống của một
bộ phận diễn viên gặp rất nhiều khó khăn12. Điều
này góp phần rất lớn cho Dù kê phát triển trong bối
cảnh hiện nay, tạo điều kiện từng bước xã hội hóa
loại hình sân khấu này. Ngoài ra, nhà nước cũng
cần có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ hợp lí cho các
đoàn hát, diễn viên.
Thứ tư, nhu cầu thưởng thức Dù kê của công
chúng hiện nay là rất lớn. Bài báo Sức sống của
nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ cho biết hai
khó khăn lớn của Dù kê hiện nay là thiếu nguồn
nhân lực trẻ và kịch bản. Riêng về kịch bản thì
đội ngũ sáng tác cho sân khấu Dù kê không nhiều
và vì là loại hình tổng hợp nên người viết cũng
phải là người có đủ trình độ và am hiểu nghệ thuật
biểu diễn cần thiết. Thế nhưng, hiện công tác đào
tạo nhân lực cho nghệ thuật Khmer chủ yếu dựa
11 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam, Hà Nội, NXB.Khoa học xã hội. tr 281
12 Ông Sóc Kha cho biết thực trạng đời sống của diễn viên
Dù kê như sau: Một vấn đề nữa: Do khó khăn về đời sống,
kinh tế. Hiện nay đa số các nghệ nhân Dù kê từ bầu gánh hát
đến diễn viên, nhạc công, phục vụ tất cả đều là nông dân,
thậm chí có người không có một tất đất sản xuất chuyên đi
làm thuê, làm mướn, lao động phổ thông, khi đến mùa khô
là thời điểm thuận lợi cho việc lưu diễn họ mới tập hợp nhau
lại tập dợt tuồng và đi diễn. Có thể nói hoạt động của Đoàn
Dù kê này hoàn toàn do có tinh thần yêu nghề, việc bán vé
doanh thu chỉ mang tính chất bồi dưỡng tiền son phấn mà
thôi, xem <
vào việc truyền nghề tại các đoàn nên chậm và
không theo sát được tốc độ phát triển của nhịp
sống đương đại13. Điều này cho thấy vai trò quan
trọng của giáo dục trong việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc hiện nay. Một ý kiến
cho rằng nên ưu tiên chỉ đạo các trường đào tạo
chuyên ngành nghệ thuật hình thành khoa nghệ
thuật sân khấu, trong đó có môn nghệ thuật sân
khấu Dù kê. Khi đủ khả năng, điều kiện cho phép
nên thành lập trường đào tạo nghệ thuật dân tộc
Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long14. Gần đây,
Trường Đại học Trà Vinh đã mở ngành học Biểu
diễn Nhạc cụ Truyền thống với hai chuyên ngành
Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ
và Nghệ thuật Sân khấu Cải lương bậc đại học
thuộc Bộ môn Nghệ thuật - Khoa Ngôn ngữ, Văn
hóa, Nghệ thuật Khmer Nam Bộ quản lí. Thiết
nghĩ, đây là sự khởi đầu khá quan trọng cho việc
đào tạo chính qui, bài bản, chuyên nghiệp cho sân
khấu Dù kê trong tương lai. Trường Đại học Trà
Vinh là nơi thực hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc
gia đào tạo nhân lực về Ngôn ngữ - Văn hóa -
Nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Vì vậy, các cấp quản
lí nên tạo điều kiện cho Nhà trường đầu tư hơn nữa
ngành học Nghệ thuật biểu diễn nhạc cụ truyền
thống Khmer Nam Bộ bằng nhiều hình thức như
cấp kinh phí nghiên cứu khoa học, biên soạn giáo
trình, tổ chức các hội thảo khoa học chuyên sâu
và làm sao tập hợp đội ngũ các chuyên gia đến
tham gia giảng dạy, nghiên cứu để góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo. Mặt khác, cũng nên có kế
hoạch đào tạo kiến thức văn hóa cho đội ngũ diễn
viên hiện nay.
Thứ năm, bên cạnh vai trò của giáo dục, nghiên
cứu là một nhân tố góp phần rất lớn vào việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa, trong đó có Dù kê.
Hiện tại, các công trình nghiên cứu về Dù kê chưa
được nhiều, chưa tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau. Cho nên, các cơ quan quản lí, khoa học và
đào tạo cần đầu tư nhiều cho việc nghiên cứu nghệ
13Nguồn:
san-khau-Du-Ke-Nam-Bo/228302.vov.
14 Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Hội Văn học
nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng. tr 230.
thuật sân khấu Dù kê thông qua các đề tài khoa
học để làm sáng tỏ giá trị và nguồn gốc của nó hơn
nữa. Chúng tôi cho rằng, đây là một tiền đề quan
trọng cho việc đề xuất xem xét Dù kê là di sản văn
hóa ở các cấp trong thời gian tới. Được xuất bản
năm 2012, công trình Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
của Sơn Lương là một nghiên cứu rất đáng hoan
nghênh mà hiện một số tỉnh chưa làm được.
3. Kết luận
Chúng tôi đã trình bày một cách cơ bản về
nguồn gốc, đặc trưng và giá trị cũng như các giải
pháp bảo tồn đối với loại hình nghệ thuật sân khấu
Dù kê của người Khmer Nam Bộ. Song, để có thể
bảo tồn, phát huy giá trị của một di sản văn hóa
độc đáo của tộc người này, cần tiếp tục có những
nghiên cứu chuyên sâu theo từng chủ đề của loại
hình này để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định các chính sách đối với việc bảo tồn, phát huy.
Đặc biệt những nhà quản lý trên lĩnh vự này cần
nắm rõ nguồn gốc, đặc trưng và giá trị của loại
hình này để làm cứ liệu khoa học cho việc đề xuất
các giải pháp một cách tối ưu, đảm bảo tính sống
còn của loại hình nghệ thuật này.
Theo đó, để bảo tồn và phát huy một cách tốt
nhất, cần có tầm nhìn chiến lược trong công tác đào
tạo nguồn nhân lực cũng như có đầu tư kinh phí một
cách thỏa đáng nhằm giảm bớt những khó khăn đối
với đội ngũ diễn viên sân khấu Dù kê. Bởi vì, với
hiện tại, xu hướng xã hội hóa các lĩnh vực không
loại trừ nghệ thuật thì trước hết nghệ thuật cần thể
hiện được vị trí, vai trò và đặc trưng của mình trong
đời sống văn hóa tinh thần trước khi có sự đồng
thuận, hỗ trợ từ phía xã hội và cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị Yến Tuyết. 1987.
Người Khơ - Me tỉnh Cửu Long. Sở Văn hóa – Thông tin Cửu Long xuất bản.
Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Hà Nội, NXB. Khoa học
Xã hội.
Ngô Đức Thịnh (chủ biên). 2012. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
Tiền Văn Triệu. 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật. số 12/2011.
Trần Thị Thúy Hằng. 2013. Đặc trưng sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Tập san khoa học Xã hội và
Nhân văn. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. số 59, tháng 6/2013.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng. 2012. Địa chí Sóc Trăng. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Tạp chí Khoa học Chuyên đề “Nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ - Di sản văn hóa dân tộc”
Soá 13, thaùng 3/2014160 Soá 13, thaùng 3/2014 161
Nam trong đổi mới và hội nhập của Ngô Đức Thịnh
chủ biên, sản nghiệp văn hóa là những di sản văn
hóa có giá trị cao và nhiều mặt (giá trị lịch sử, giá
trị văn hóa, nghệ thuật,) đáp ứng được những
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, khám phá của nhân
dân, có thể đưa ra khai thác và mang lại những giá
trị kinh tế cao vừa đóng góp vào nền kinh tế quốc
dân vừa tạo ra nguồn lực có thể đầu tư trở lại nhằm
bảo tồn và phát huy bản thân di sản văn hóa ấy11.
Thế nhưng bản thân Dù kê không thể trở thành sản
nghiệp văn hóa nếu không có các hoạt động đầu
tư, quảng bá, thu hút khách tham quan. Chúng tôi
nghĩ rằng, nên gắn liền Dù kê với hoạt động du
lịch ở một số địa phương (Trà Vinh, Sóc Trăng,
Kiên Giang, Bạc Liêu, An Giang) thông qua việc
tổ chức biểu diễn cho khách du lịch trong và ngoài
nước. Các đoàn hát Dù kê, đội ngũ diễn viên và
phục vụ biểu diễn nhất thiết phải được hưởng lợi,
tăng nguồn thu nhập từ đây để an tâm biểu diễn,
sống chết với nghề vì hiện nay cuộc sống của một
bộ phận diễn viên gặp rất nhiều khó khăn12. Điều
này góp phần rất lớn cho Dù kê phát triển trong bối
cảnh hiện nay, tạo điều kiện từng bước xã hội hóa
loại hình sân khấu này. Ngoài ra, nhà nước cũng
cần có chính sách hỗ trợ, đãi ngộ hợp lí cho các
đoàn hát, diễn viên.
Thứ tư, nhu cầu thưởng thức Dù kê của công
chúng hiện nay là rất lớn. Bài báo Sức sống của
nghệ thuật sân khấu Dù kê Nam Bộ cho biết hai
khó khăn lớn của Dù kê hiện nay là thiếu nguồn
nhân lực trẻ và kịch bản. Riêng về kịch bản thì
đội ngũ sáng tác cho sân khấu Dù kê không nhiều
và vì là loại hình tổng hợp nên người viết cũng
phải là người có đủ trình độ và am hiểu nghệ thuật
biểu diễn cần thiết. Thế nhưng, hiện công tác đào
tạo nhân lực cho nghệ thuật Khmer chủ yếu dựa
11 Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn
hóa Việt Nam, Hà Nội, NXB.Khoa học xã hội. tr 281
12 Ông Sóc Kha cho biết thực trạng đời sống của diễn viên
Dù kê như sau: Một vấn đề nữa: Do khó khăn về đời sống,
kinh tế. Hiện nay đa số các nghệ nhân Dù kê từ bầu gánh hát
đến diễn viên, nhạc công, phục vụ tất cả đều là nông dân,
thậm chí có người không có một tất đất sản xuất chuyên đi
làm thuê, làm mướn, lao động phổ thông, khi đến mùa khô
là thời điểm thuận lợi cho việc lưu diễn họ mới tập hợp nhau
lại tập dợt tuồng và đi diễn. Có thể nói hoạt động của Đoàn
Dù kê này hoàn toàn do có tinh thần yêu nghề, việc bán vé
doanh thu chỉ mang tính chất bồi dưỡng tiền son phấn mà
thôi, xem <
vào việc truyền nghề tại các đoàn nên chậm và
không theo sát được tốc độ phát triển của nhịp
sống đương đại13. Điều này cho thấy vai trò quan
trọng của giáo dục trong việc bảo tồn và phát huy
giá trị di sản văn hóa dân tộc hiện nay. Một ý kiến
cho rằng nên ưu tiên chỉ đạo các trường đào tạo
chuyên ngành nghệ thuật hình thành khoa nghệ
thuật sân khấu, trong đó có môn nghệ thuật sân
khấu Dù kê. Khi đủ khả năng, điều kiện cho phép
nên thành lập trường đào tạo nghệ thuật dân tộc
Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long14. Gần đây,
Trường Đại học Trà Vinh đã mở ngành học Biểu
diễn Nhạc cụ Truyền thống với hai chuyên ngành
Biểu diễn Nhạc cụ Truyền thống Khmer Nam Bộ
và Nghệ thuật Sân khấu Cải lương bậc đại học
thuộc Bộ môn Nghệ thuật - Khoa Ngôn ngữ, Văn
hóa, Nghệ thuật Khmer Nam Bộ quản lí. Thiết
nghĩ, đây là sự khởi đầu khá quan trọng cho việc
đào tạo chính qui, bài bản, chuyên nghiệp cho sân
khấu Dù kê trong tương lai. Trường Đại học Trà
Vinh là nơi thực hiện nhiệm vụ trọng điểm quốc
gia đào tạo nhân lực về Ngôn ngữ - Văn hóa -
Nghệ thuật Khmer Nam Bộ. Vì vậy, các cấp quản
lí nên tạo điều kiện cho Nhà trường đầu tư hơn nữa
ngành học Nghệ thuật biểu diễn nhạc cụ truyền
thống Khmer Nam Bộ bằng nhiều hình thức như
cấp kinh phí nghiên cứu khoa học, biên soạn giáo
trình, tổ chức các hội thảo khoa học chuyên sâu
và làm sao tập hợp đội ngũ các chuyên gia đến
tham gia giảng dạy, nghiên cứu để góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo. Mặt khác, cũng nên có kế
hoạch đào tạo kiến thức văn hóa cho đội ngũ diễn
viên hiện nay.
Thứ năm, bên cạnh vai trò của giáo dục, nghiên
cứu là một nhân tố góp phần rất lớn vào việc bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa, trong đó có Dù kê.
Hiện tại, các công trình nghiên cứu về Dù kê chưa
được nhiều, chưa tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau. Cho nên, các cơ quan quản lí, khoa học và
đào tạo cần đầu tư nhiều cho việc nghiên cứu nghệ
13Nguồn:
san-khau-Du-Ke-Nam-Bo/228302.vov.
14 Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê
Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng. Hội Văn học
nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng. tr 230.
thuật sân khấu Dù kê thông qua các đề tài khoa
học để làm sáng tỏ giá trị và nguồn gốc của nó hơn
nữa. Chúng tôi cho rằng, đây là một tiền đề quan
trọng cho việc đề xuất xem xét Dù kê là di sản văn
hóa ở các cấp trong thời gian tới. Được xuất bản
năm 2012, công trình Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu
Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng
của Sơn Lương là một nghiên cứu rất đáng hoan
nghênh mà hiện một số tỉnh chưa làm được.
3. Kết luận
Chúng tôi đã trình bày một cách cơ bản về
nguồn gốc, đặc trưng và giá trị cũng như các giải
pháp bảo tồn đối với loại hình nghệ thuật sân khấu
Dù kê của người Khmer Nam Bộ. Song, để có thể
bảo tồn, phát huy giá trị của một di sản văn hóa
độc đáo của tộc người này, cần tiếp tục có những
nghiên cứu chuyên sâu theo từng chủ đề của loại
hình này để làm cơ sở khoa học cho việc hoạch
định các chính sách đối với việc bảo tồn, phát huy.
Đặc biệt những nhà quản lý trên lĩnh vự này cần
nắm rõ nguồn gốc, đặc trưng và giá trị của loại
hình này để làm cứ liệu khoa học cho việc đề xuất
các giải pháp một cách tối ưu, đảm bảo tính sống
còn của loại hình nghệ thuật này.
Theo đó, để bảo tồn và phát huy một cách tốt
nhất, cần có tầm nhìn chiến lược trong công tác đào
tạo nguồn nhân lực cũng như có đầu tư kinh phí một
cách thỏa đáng nhằm giảm bớt những khó khăn đối
với đội ngũ diễn viên sân khấu Dù kê. Bởi vì, với
hiện tại, xu hướng xã hội hóa các lĩnh vực không
loại trừ nghệ thuật thì trước hết nghệ thuật cần thể
hiện được vị trí, vai trò và đặc trưng của mình trong
đời sống văn hóa tinh thần trước khi có sự đồng
thuận, hỗ trợ từ phía xã hội và cộng đồng.
Tài liệu tham khảo
Huỳnh Ngọc Trảng, Văn Xuân Chí, Hoàng Túc, Đặng Vũ Thị Thảo, Phan Thị Yến Tuyết. 1987.
Người Khơ - Me tỉnh Cửu Long. Sở Văn hóa – Thông tin Cửu Long xuất bản.
Ngô Đức Thịnh. 2009. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Hà Nội, NXB. Khoa học
Xã hội.
Ngô Đức Thịnh (chủ biên). 2012. Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam trong đổi mới và hội nhập. NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội.
Nhiều tác giả. 1988. Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ. NXB Tổng hợp Hậu Giang.
Sơn Lương. 2012. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Sóc Trăng.
Tiền Văn Triệu. 2011. Hai loại hình sân khấu của người Khmer Sóc Trăng. Tạp chí Văn hóa Nghệ
thuật. số 12/2011.
Trần Thị Thúy Hằng. 2013. Đặc trưng sân khấu Dù kê Khmer Nam Bộ. Tập san khoa học Xã hội và
Nhân văn. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. số 59, tháng 6/2013.
Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng. 2012. Địa chí Sóc Trăng. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghe_thuat_san_khau_du_ke_khmer_nam_bo_nguon_goc_dac_trung_v.pdf