4. Ảnh hưởng đến các mối quan hệ cá nhân và
hoạt động tình dục
Bảng 4 cho thấy nhóm bệnh nhân bị ảnh
hưởng nhiều đến các mối quan hệ chiếm tỷ lệ cao
nhất 37,5%, kế đến là nhóm bệnh nhân không bị
ảnh hưởng 29,9%, ít nhất là nhóm bệnh nhân bị
ảnh hưởng rất nhiều 9,7%. Khi bị tổn thương da
và cảm giác đau đớn làm bệnh nhân ngại tiếp xúc,
xa lánh mọi người. Mặt khác trong Zona cảm giác
đau đớn là cảm giác tồi tệ nhất mà bệnh nhân phải
gánh chịu, đau đớn làm rối loạn giấc ngủ gây nên
tình trạng lo âu ở bệnh nhân giảm hứng thú tình
dục trên bệnh nhân. Tuy nhiên ở bảng 4 chúng tôi
thấy một số lượng lớn bệnh nhân 59% không bị
ảnh hưởng tới đời sống tình dục. Theo chúng tôi
lý do vì độ tuổi mắc bệnh ở nghiên cứu này chủ
yếu là trên 50 tuổi (85,3%) nên nhu cầu tình dục
không còn nhiều, đặc biệt là nhóm bệnh nhân trên
60 tuổi (62,6%) gần như nhu cầu tình dục rất ít nên
số bệnh nhân không bị ảnh hưởng đến đời sống
tình dục trong nghiên cứu cao.
5. đánh giá chung về ảnh hưởng của bệnh
Zona đến CLCs người bệnh
Qua nghiên cứu 144 bệnh nhân Zona chúng
tôi thấy rằng tất cả các bệnh nhân khi đã bị bệnh
đều bị ảnh hưởng đến CLCS, điểm trung bình về
mức độ ảnh hưởng của bệnh là 15,4± 6,4 điểm.
Số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến CLCS
chiếm tỷ lệ cao nhất 49,3%, tiếp đến là số bệnh
nhân bị ảnh hưởng rất nhiều là 27,1%. Số bệnh
nhân bị ảnh hưởng ít chiếm tỷ lệ 23,6%. Như vậy
sơ bộ có thể kết luận bệnh Zona có ảnh hưởng
đến CLCS người bệnh và mức độ ảnh hưởng của
bệnh ở mức ảnh hưởng nhiều (bảng 5).
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng bệnh Zona lên chất lượng cuộc sống của bệnh nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 237
I. đẶT VẤN đỀ
Bệnh Zona (herpes zoster) là một nhiễm trùng
da cấp tính gây nên do Varicella zoster virus. Đây
là một bệnh da thường gặp trong số các bệnh da
do virus. Ở Việt Nam, bệnh Zona chiếm 41,53%
tổng số bệnh da do virus và chiếm 5,33% tổng số
các bệnh da điều trị nội trú tại Viện Da liễu Quốc
gia từ 1994 đến 1998. Zona thường ít ảnh hưởng
đến tính mạng, nhưng do tính chất đau nhiều, đặc
biệt là đau càng tăng lên và tồn tại lâu ở người
càng nhiều tuổi mặc dù đã hết tổn thương da, còn
gọi là đau sau Zona làm ảnh hưởng nhiều đến chất
lượng cuộc sống người bệnh. Từ trước đến nay,
trên thế giới có nhiều tác giả nghiên cứu về bệnh
Zona, đã khẳng định sự ảnh hưởng của bệnh đến
chất lượng cuộc sống, cũng như ảnh hưởng của
đau sau Zona đến chất lượng cuộc sống.
Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về đặc điểm lâm sàng, điều trị bệnh Zona,
cũng như vắc xin phòng bệnh nhưng cho đến nay
vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá ảnh hưởng
của bệnh Zona đến chất lượng cuộc sống người
bệnh. Do vậy chúng tôi đã tiến hành đề tài này với
mục tiêu: Đánh giá ảnh hưởng của bệnh Zona đến
chất lượng cuộc sống người bệnh.
II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
144 bệnh nhân mắc bệnh Zona điều trị nội và
ngoại trú tại Khoa Da liễu Bệnh viện 103 và Khoa
Da liễu Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ
10/2012 - 6/2013.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Zona
Chủ yếu dựa vào lâm sàng
+ Mụn nước, phỏng nước, mụn mủ, dát đỏ
thành chùm trên nền da viêm đỏ khu trú dọc theo
đường đi của dây thần kinh tổn thương chi phối và
thường bị ở một bên cơ thể.
+ Đau
. Đau trước nổi mụn một vài ngày.
. Đau với các tính chất, mức độ khác nhau
(theo thang điểm Likert).
+ Triệu chứng khác
Sưng hạch phụ cận (±), sốt (±)
Chẩn đoán tế bào Tzanck (một số trường
hợp): có tế bào gai lệch hình và tế bào đa nhân
khổng lồ.
Mô bệnh học (một số trường hợp): Hình ảnh
hư biến phình của Unna.
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG BỆNH ZONA
LÊN CHẤT LƯỢNG CUỘC sỐNG CỦA BỆNH NHÂN
ngô Văn Hòa*, lê thị Hồng thanh*
*Bệnh viện 103
TÓM TẮT
Bệnh Zona (herpes zoster) là một nhiễm trùng da cấp tính gây nên do Varicella zoster virus. Đây
là một bệnh da thường gặp trong số các bệnh da do virus.
Mục tiêu: Khảo sát ảnh hưởng của bệnh Zona lên chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu. Đánh giá chất lượng cuộc
sống của bệnh nhân dựa theo bảng câu hỏi của Finley và cộng sự.
Kết quả: Tất cả các bệnh nhân bị Zona đều bị ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
Từ khóa: Zona, chất lượng cuộc sống.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX238
- Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
+ Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác
định là Zona, điều trị nội trú, ngoại trú tại Khoa Da
liễu - Bệnh viện 103 và Khoa Da liễu - Bệnh viện
Trung ương Quân đội 108.
+ Không phân biệt tuổi, giới, nghề nghiệp.
+ Không phân biệt các hình thái lâm sàng của
Zona.
+ Đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ nghiên cứu đánh giá
chất lượng cuộc sống
+ Bệnh nhân không hợp tác.
+ Bệnh nhân đang dùng thuốc chống thải ghép.
+ Bệnh nhân có các bệnh lí nặng, ảnh hưởng
đến khả năng giao tiếp, trả lời câu hỏi.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt
ngang, tiến cứu.
- Phương pháp xử lý số liệu
Theo phương pháp thống kê y học, sử dụng
phần mềm EPI 6 với độ tin cậy 95%.
So sánh 2 giá trị trung bình và 2 tỷ lệ dùng
T-student và χ2.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Ảnh hưởng của bệnh đến hoạt động hàng ngày
Bảng 1. Ảnh hưởng của bệnh đến hoạt động hàng ngày
Chỉ tiêu đánh giá
Mức độ ảnh hưởng
Không Ít Nhiều Rất nhiều
n % n % n % n %
H/ động hàng ngày (chăm
sóc nhà cửa, mua sắm...)
7 4,9 41 28,5 67 46,5 29 20,1
điểm TB 1,82 ± 0,81
Ả/h trang phục 29 20,1 40 27,8 51 35,4 24 16,7
điểm TB 1,49 ± 0,1
Nhận xét:
Số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến hoạt động hàng ngày (chăm sóc nhà cửa, mua sắm) chiếm
tỷ lệ cao nhất 46,5%. Số bệnh nhân không bị ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày chỉ chiếm tỷ lệ 4,9%.
2. Ảnh hưởng đến hoạt động xã hội và thể dục thể thao
Bảng 2. Ảnh hưởng đến hoạt động xã hội và TDTT
Chỉ tiêu đánh giá
Mức độ ảnh hưởng
Không Ít Nhiều Rất nhiều
n % n % n % N %
Ảnh hưởng tới H/động xã
hội hay giải trí
24 16,7 34 23,6 66 45,8 20 13,9
điểm TB 1,57 ± 0,93
Ảnh hưởng tới H/động thể
dục, thể thao
23 16.0 34 23,6 55 38,2 32 22,2
điểm TB 1,67 ± 1
Nhận xét:
- Số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến hoạt động xã hội hay giải trí chiếm tỷ lệ cao nhất 45,8%. Số
bị ảnh hưởng rất nhiều chỉ chiếm 13,9%.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 239
- Số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều tới hoạt động thể dục, thể thao chiếm tỷ lệ 38,2%, tiếp đến là số
bị ảnh hưởng ít 23,6%. Nhóm không bị ảnh hưởng chỉ chiếm tỷ lệ 16%.
3. Ảnh hưởng đến công việc và học tập
Bảng 3. Ảnh hưởng đến công việc và học tập
Chỉ tiêu đánh giá
Mức độ ảnh hưởng
Không Ít Nhiều Rất nhiều
n % n % n % n %
Ảnh hưởng đến công việc
và học tập
22 15,3 35 24,3 42 29,2 45 31,3
điểm TB 1,76 ± 1,05
Nhận xét:
Số bệnh nhân bị ảnh hưởng rất nhiều đến công việc và học tập chiếm tỷ lệ cao nhất 31,3%, tiếp đến
là số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều chiếm 29,2%. Số bệnh nhân không bị ảnh hưởng tới công việc và
học tập chỉ là 15,3%.
4. Ảnh hưởng của bệnh đến các mối quan hệ cá nhân và đời sống tình dục
Bảng 4. Ảnh hưởng của bệnh đến các mối quan hệ cá nhân
Chỉ tiêu đánh giá
Mức độ ảnh hưởng
Không Ít Nhiều Rất nhiều
n % n % n % n %
Ả/h tới các MQH 43 29,9 33 22,9 54 37,5 14 9,7
điểm TB 1,27 ±1
Ả/h tới đời sống TD 84 58,7 18 12,6 24 16,8 17 11,9
điểm TB 0,81 ± 1,1
Nhận xét:
- Nhóm bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến các mối quan hệ chiếm tỷ lệ cao 37,5%, nhóm bị ảnh
hưởng rất nhiều chiếm tỷ lệ thấp nhất 9,7%.
- Đối với đời sống tình dục nhóm bệnh nhân không bị ảnh hưởng chiếm tỷ lệ 59%; nhóm bị ảnh
hưởng ít chiếm tỷ lệ 12,5%, nhóm ảnh hưởng nhiều là 16,7% và nhóm bị ảnh hưởng rất nhiều là 11,8%.
5. đánh giá chung về ảnh hưởng của bệnh Zona đến chất lượng cuộc sống người bệnh
Bảng 5. Đánh giá chung về ảnh hưởng của bệnh Zona đến CLCS người bệnh
Chỉ tiêu đánh giá
Mức độ ảnh hưởng
điểm TB
Không Ít Nhiều Rất nhiều
n 0 34 71 39
15,4 ± 6,4
% 0 23,6 49,3 27,1
Nhận xét:
Có 49,3% số bệnh nhân nghiên cứu bị ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống; 27,1% bệnh
nhân bị ảnh hưởng rất nhiều; 23,6% bệnh nhân bị ảnh hưởng ít. Không có bệnh nhân nào bị bệnh mà
không bị ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX240
IV. BàN LUẬN
1. Ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của bệnh Zona
đến các hoạt động hàng ngày dựa vào các hoạt
động như chăm sóc nhà cửa, mua sắm, chăm sóc
người thân, vườn tược...
Kết quả nghiên cứu ở bảng 1 cho thấy số
bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến hoạt động
hàng ngày chiếm tỷ lệ cao nhất 46,5%, tiếp đến
là số bệnh nhân bị ảnh hưởng ít 28,54%; số bệnh
nhân bị ảnh hưởng rất nhiều chiếm tỷ lệ thấp hơn
20,1%. Số bệnh nhân không bị ảnh hưởng đến
các hoạt động hàng ngày là 4,9%. Ảnh hưởng chủ
yến là do bệnh nhân bị đau đớn làm bệnh nhân
mệt mỏi chán nản không muốn làm bất cứ việc gì.
Việc lựa chọn trang phục trong bệnh Zona cũng
là một vấn đề quan trọng, nếu tổn thương ở vùng liên
sườn, ngực, bụng làm bệnh nhân đau đớn nhiều. Khi
mặc các loại quần áo chật kích thích vào tổn thương
làm bệnh nhân đau nhiều hơn. Trong nghiên cứu của
chúng tôi nhóm bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến
CLCS về trang phục chiếm tỷ lệ nhiều nhất 35,4%,
tiếp đến là số bệnh nhân bị ảnh hưởng ít 28,7%.
Nhóm bệnh nhân bị ảnh hưởng rất nhiều đến vấn đề
trang phục chiếm tỷ lệ thấp nhất 16,7%.
2. Ảnh hưởng đến hoạt động xã hội và thời
gian giải trí
Kết quả bảng 2 cho thấy nhóm bệnh nhân bị
ảnh hưởng nhiều đến hoạt động xã hội hay giải trí
chiếm tỷ lệ cao nhất 45,8%, tiếp đến là nhóm bị
ảnh hưởng ít 23,6%, nhóm không bị ảnh hưởng
chiếm tỷ lệ 16,7% và nhóm bị ảnh hưởng rất nhiều
chiếm tỷ lệ ít nhất 13,9%.
Về ảnh hưởng tới hoạt động thể dục thể thao
nhóm bị ảnh hưởng nhiều cũng chiếm tỷ lệ cao nhất
38,2%, kế đến là nhóm bị ảnh hưởng ít 23,6%; nhóm
không bị ảnh hưởng chiếm tỷ lệ thấp nhất 16%.
3. Ảnh hưởng đến công việc và học tập
Bảng 3 cho thấy nhóm bệnh nhân bị ảnh
hưởng rất nhiều đến công việc và học tập chiếm
tỷ lệ cao nhất 31,3%, sau đó là nhóm bệnh nhân
bị ảnh hưởng nhiều 29,2%. Nhóm không bị ảnh
hưởng chiếm tỷ lệ thấp nhất 15,3%. Khi bị Zona
đây là một bệnh nhiễm trùng cấp tính có tổn
thương da làm bệnh nhân đau đớn, mệt mỏi nhiều
trường hợp không thể tập trung để làm việc thậm
trí phải nghỉ học nghỉ làm để đến các cơ sở y tế
chữa bệnh. Việc này làm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến hiệu quả làm việc, học tập của bệnh nhân.
4. Ảnh hưởng đến các mối quan hệ cá nhân và
hoạt động tình dục
Bảng 4 cho thấy nhóm bệnh nhân bị ảnh
hưởng nhiều đến các mối quan hệ chiếm tỷ lệ cao
nhất 37,5%, kế đến là nhóm bệnh nhân không bị
ảnh hưởng 29,9%, ít nhất là nhóm bệnh nhân bị
ảnh hưởng rất nhiều 9,7%. Khi bị tổn thương da
và cảm giác đau đớn làm bệnh nhân ngại tiếp xúc,
xa lánh mọi người. Mặt khác trong Zona cảm giác
đau đớn là cảm giác tồi tệ nhất mà bệnh nhân phải
gánh chịu, đau đớn làm rối loạn giấc ngủ gây nên
tình trạng lo âu ở bệnh nhân giảm hứng thú tình
dục trên bệnh nhân. Tuy nhiên ở bảng 4 chúng tôi
thấy một số lượng lớn bệnh nhân 59% không bị
ảnh hưởng tới đời sống tình dục. Theo chúng tôi
lý do vì độ tuổi mắc bệnh ở nghiên cứu này chủ
yếu là trên 50 tuổi (85,3%) nên nhu cầu tình dục
không còn nhiều, đặc biệt là nhóm bệnh nhân trên
60 tuổi (62,6%) gần như nhu cầu tình dục rất ít nên
số bệnh nhân không bị ảnh hưởng đến đời sống
tình dục trong nghiên cứu cao.
5. đánh giá chung về ảnh hưởng của bệnh
Zona đến CLCs người bệnh
Qua nghiên cứu 144 bệnh nhân Zona chúng
tôi thấy rằng tất cả các bệnh nhân khi đã bị bệnh
đều bị ảnh hưởng đến CLCS, điểm trung bình về
mức độ ảnh hưởng của bệnh là 15,4± 6,4 điểm.
Số bệnh nhân bị ảnh hưởng nhiều đến CLCS
chiếm tỷ lệ cao nhất 49,3%, tiếp đến là số bệnh
nhân bị ảnh hưởng rất nhiều là 27,1%. Số bệnh
nhân bị ảnh hưởng ít chiếm tỷ lệ 23,6%. Như vậy
sơ bộ có thể kết luận bệnh Zona có ảnh hưởng
đến CLCS người bệnh và mức độ ảnh hưởng của
bệnh ở mức ảnh hưởng nhiều (bảng 5).
V. KẾT LUẬN
- Tất cả các bệnh nhân bị Zona đều bị ảnh
hưởng đến CLCS.
- Số bệnh nhân bị ảnh hưởng đến CLCS ở
mức nhiều chiếm tỷ lệ cao nhất 49,3%. Nhóm ảnh
hưởng rất nhiều là 27,1%, nhóm ít bị ảnh hưởng
chỉ chiếm 23,6%.
nghiên cứu khoa học
Tạp chí
Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 241
1. Bùi Khánh Duy - Chủ biên (2008),
“Zona”,Giáo trình bệnh da và hoa liễu, NXB Quân
đội nhân dân, tr. 193 - 195.
2. Đỗ Văn Khoát (1998),Nghiên cứu tình hình
bệnh zona tại Viện Da liễu Việt Nam từ 1994-
1998. Luận văn thạc sỹ y học.
3. Nguyễn Thị Đào (1999),Vấn đề đau sau
Zona, Nội san Da liễu số 2, tr. 20 - 35.
4. Kati Lukas & Alexander Edte & Isabelle
Bertrand. “The impact of herpes zoster and
post-herpetic neuralgia on quality of life: patient-
reported outcomes in six European countries” J
Public Health 2 December 2011.
5. Katz J., Cooper E.M., Walther R.R., et.
al. (2004), “Acute Pain in Herpes Zoster and Its
Impact on Health- Related Quality of life”, CID,
Vol.39, No.3, p.342- 348.(tài liệu số 2)
6. Mélanie Drolet PhD., Marc Brisson PhD,
Kenneth E. et. al. (2010)“The impact of herpes
zoster and postherpetic neuralgia on health-
related quality of life: a prospective study”.CMAJ.
November 9, 2010. 182(16).
7. Robert W Johnson., Didier Bouhassira., et.
al. “The impact of herpes zoster and post-herpetic
neuralgia on quality-of-life” Johnson et al. BMC
Medicine 2010.
TàI LIỆU THAM KHẢO:
ABsTRACT
sTUDY OF eFFeCTs OF HeRPes ZOsTeR ON QUALITY OF PATIeNT’s LIFe
Herpes zoster is an acute skin infection caused by Varicella zoster virus . This is a common skin
disease of viral skin diseases.
Objective: Surver the efffects of Herpes zoster on the quality of life of patients.
Method: Prospective, cross-sectional study. Assessing the quality of life of patients based on
Finley questionnaire.
Result: The quality of life is effected by zona disease in all patients.
Key words: Herpes zoster, Quality of life.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_anh_huong_benh_zona_len_chat_luong_cuoc_song_cua.pdf