Kết quả bảng 4 cho thấy:
Phương pháp gieo hạt có ảnh hưởng tới thời
gian từ gieo đến nảy mầm giữa các công thức, đạt từ
6 - 8 ngày, hai công thức 1 và 2 gieo trên nền đất và
gieo bầu trong vườn ươm có thời gian nảy mầm như
nhau là 6 ngày, còn CT3 gieo thẳng trên đồng ruộng
hạt nảy mầm lâu hơn là 8 ngày. Như vậy có thể thấy
các công thức gieo ở vườn ươm có điều kiện chăm
sóc tưới ẩm tốt hơn nên hạt có thời gian nảy mầm
nhanh hơn so với gieo thẳng ngoài đồng ruộng.
Thời gian từ gieo đến ra lá thật và gieo đến xuất
vườn không chênh lệch nhiều giữa các công thức.
Tỷ lệ nảy mầm đạt từ 74,7 - 86,3%, công thức 2
gieo hạt trong bầu đạt tỷ lệ nảy mầm cao nhất 86,3%,
tiếp đến là gieo trên nền đất đạt 80,7%, công thức 3
gieo thẳng hạt trên ruộng đạt tỷ lệ thấp nhất 74,7%.
Kết quả xử lý thống kê cho thấy giữa CT1 với CT2 và
CT1 với CT3 là không khác nhau có ý nghĩa thống
kê, CT2 với CT3 là khác nhau có ý nghĩa ở mức tin
cậy 95%.
Tỷ lệ cây sống khi xuất vườn giữa các công thức
đạt từ 73,7% - 84,7%, công thức 2 có tỷ lệ sống cao
nhất là 84,7%, thấp nhất là CT3 đạt 73,7%. Kết quả
xử lý thống kê cho thấy giữa các công thức có sự sai
khác có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 95%.
Nhìn chung, phương pháp gieo hạt có ảnh hưởng
tới tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống của cây giống hoàng
kỳ khi xuất vườn. Cây gieo trong bầu và gieo trên
nền đất có điều kiện chăm sóc tốt hơn nên cho kết
quả là tốt hơn về tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống so
với gieo thẳng, tuy nhiên gieo bầu sẽ tốn nhiều công
và kinh phí hơn. Cây gieo ươm trên nền đất khi đánh
trồng cây phải mất một thời gian để hồi xanh và tưới,
dặm cây nhiều hơn, ngoài ra cây đánh trồng rễ trần
cũng làm cho bộ rễ kém phát triển, củ sẽ nhỏ hơn,
nhưng phương pháp này dễ chăm sóc và ít tốn kém.
Phương pháp gieo thẳng hạt trên ruộng có lợi thế là
cây gieo đã mọc sẽ phát triển nhanh hơn khỏe hơn,
nhưng có khó khăn là tốn nhiều công chăm sóc, tỷ lệ
cây nảy mầm và cây sống kém hơn.
Như vậy, trong các phương pháp gieo hạt đều có
các mặt lợi và hạn chế, để đảm bảo cây sinh trưởng
và phát triển tốt có thể lựa chọn 1 trong 2 phương
pháp gieo bầu và gieo thẳng để áp dụng.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng của cây con hoàng kỳ tại Quản Bạ - Hà Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
77
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương, 1998. Cây chè. Giáo
trình dùng cho cao học và NCS. ĐH Nông Lâm Thái
Nguyên, 1998.
Đỗ Ngọc Quỹ, Đỗ Thị Kim Oanh, 2008. Kỹ thuật trồng
và chế biến chè năng suất cao - chất lượng tốt. NXB
Nông nghiệp. Hà Nội, 2008.
Nguyễn Văn Tạo, Đỗ Văn Ngọc, 1998. Kết quả 10 năm
nghiên cứu kỹ thuật canh tác chè, Tuyển tập các công
trình nghiên cứu về chè 1988 - 1997. NXB Nông
nghiệp, 1998.
Kamau D.M., 2008. Productivity and resource use in
ageing tea plantations. PhD thesis Wageningen
University, ISBN: 978-90-8504-808-4.
Jie Li. M.Sc. Agron, 2005. The effect of plant mineral
nutrition on yield and quality of green tea (Camellia
sinensis L.) under field conditions. Ph.D. thesis,
Christian-Albrechts-University Kiel, Germany.
Seyed Babak Salvatian, Farshad Soheili-fard, Koorosh
Majd Salimi, 2014. Effect of mechanical plucking
height on tea green leaf yield and its quality. Int J Adv
Biol Biom Res., 2 (5): 1582-1592.
Willson K.C. & M.N. Clifford, 1992. Tea: cultivation to
consumption. Chapman & Hall, London, 1992, p. 55-56.
World green tea Association, 2019. Cultivation of
Japanese Green Tea, accessed on May 20th 2019.
Availaible from:
cup/pdf/14.pdf.
Effect of cultivation technical measures on growth
of tea lines CNS-1.41 and CNS-8.31 in Phu Tho
Trinh Thi Kim My, Nguyen Van Thiep, Le Van Duc
Abstract
Two new tea lines CNS-1.41 and CNS-8.31 were reported to grow and develop well. At one-year-old, the heights
of CNS-1.41 and CNS-8.31 reached 112.6 and 120.4 cm; stump diameter reached 1.44 and 1.32 cm, respectively,
meeting the first time of pruning and forming. The application of N : P : K (112 kg N + 56 kg P2O5 + 84 kg K2O)/ha
recorded the highest yield of 14.42 (CNS-1.41) and 11.64 (CNS-8.31) tons/ha. Pruning for the first time was
carried out when the height of main stem reached 15 - 20 cm, and height of side branches was 35 cm from ground,
giving higher yield than pruning at the height of 25 cm. Plucking height level of 10 cm could have yield of 12.3
(CNS-1.41) and 9.25 (CNS-8.31) tons/ha that was higher than other levels. Regarding the quality of black tea:
total tannin content of CNS-1.41, CNS-8.31, and LDP1 was similar (14.08-14.35%), but total dissolved matter
(36.27 - 37.55%) and total sugar content (1.53 - 1.45%) of CNS-1.41 and CNS-8.31, respectively were higher than
LDP1 (34.55% of total soluble, 1.16% of total sugar content). Sensory score of CNS-831 reached 18.6 (good sensory),
CNS-141 and LDP1 were not significantly different from each other and their sensory was quite good.
Keywords: Tea clone, CNS-14.1, CNS-8.31, fertilizer, pruning, plucking
Ngày nhận bài: 2/6/2019
Ngày phản biện: 10/6/2019
Người phản biện: PGS. TS. Lê Tất Khương
Ngày duyệt đăng: 14/6/2019
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT
ĐẾN TỶ LỆ NẢY MẦM VÀ SINH TRƯỞNG CỦA CÂY CON HOÀNG KỲ
TẠI QUẢN BẠ - HÀ GIANG
Phan Thị Lâm1, Trần Danh Việt1, Trần Thị Kim Dung1,
Hoàng Thúy Nga1, Nguyễn Bá Hưng1, Trần Hữu Khánh Tân1,
Nguyễn Văn Dũng1, Tạ Quốc Vượng1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định một số kỹ thuật nhân giống cây hoàng kỳ tại Quản Bạ - Hà Giang.
Kết quả nghiên cứu đã xác định được thời vụ thích hợp gieo hạt vào 15/11 cho tỷ lệ nảy mầm cao đạt 86,3%, tỷ lệ
cây sống đạt 84,7%. Phương thức xử lý hạt ngâm trong nước ấm 45oC với thời gian ngâm 60 phút cho hạt nảy mầm
nhanh (khoảng 5 ngày), đạt tỷ lệ nảy mầm cao (86,7%) và tỷ lệ cây sống cao (84,7%). Phương pháp gieo bầu đảm
bảo tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống cao cho cây sinh trưởng tốt nhất, chiều cao cây khi xuất vườn sau 60 ngày gieo
đạt 17,6 cm, số lá 8,2 lá.
Từ khóa: Cây hoàng kỳ, thời vụ, tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ cây sống
1 Trung tâm Nghiên cứu trồng và chế biến cây thuốc Hà Nội - Viện Dược liệu
78
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây hoàng kỳ (Astragalus membranaceus (Fisch.)
Bunge) có nguồn gốc ở Trung Quốc, nhưng trong
thời gian gần đây hoàng kỳ đã được phát triển ở Bắc
Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản và một số khu vực
ở các nước châu Âu như Đức, Ba Lan và Thổ Nhĩ Kỳ
(Viện Dược liệu, 2006; Wang M., 2009).
Hình 1. Cây hoàng kỳ
Hoàng kỳ ưa sáng và ưa ẩm, nhưng không chịu
được úng, cây phát triển tốt ở vùng có khí hậu ẩm,
nhiệt độ trung bình 15oC, là cây thân thảo sống lâu
năm, cao 0,6 - 1 m, rễ dài hình trụ, thân cành mảnh,
nhẵn, lá mọc so le kép lông chim lẻ, hoa màu vàng,
quả đậu dẹt, hạt hình thận, màu đen. Mùa hoa quả
từ tháng 4 - 6 (Võ Văn Chi, 2004; Đỗ Tất Lợi, 2004).
Hoàng kỳ được biết đến với một số công dụng
chính như: Tăng cường chức năng miễn dịch của
cơ thể, thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ thể,
lợi tiểu, tăng lực bóp của tim, hạ huyết áp, kháng
khuẩn, cải thiện trạng thái dinh dưỡng của cơ thể...
Trong Đông y, hoàng kỳ được coi là một vị thuốc
quý, có mặt trong các bài thuốc dân gian chữa các
bệnh như: trị phong thấp, trị vàng da do nghiện
rượu, trị phế ung, trị ung thư,... Không chỉ trong
Đông y mà ngay cả trong Tây y người ta cũng
nghiên cứu về hoàng kỳ, đã có một số loại thuốc và
biệt dược được sản xuất từ cây hoàng kỳ (Bộ Y tế,
2012; Đỗ Tất Lợi, 2004).
Ở Việt Nam, trước đây hạt giống Hoàng kỳ được
nhập về từ Liên Xô và nghiên cứu tại Trại cây thuốc
Sapa, sau đó đến năm 1978 được chuyển vào Đà Lạt
nhưng chưa có kết quả (Viện Dược liệu, 2006). Những
năm gần đây cũng có một vài nghiên cứu trồng hoàng
kỳ tại Việt Nam song cũng chưa thành công.
Như vậy có thể thấy việc phát triển dược liệu
hoàng kỳ ở Việt Nam phụ thuộc khá lớn vào nguồn
giống của nước ngoài nên gặp những khó khăn nhất
định. Thứ nhất không chủ động được về số lượng
giống khi muốn phát triển với diện tích lớn, đồng
thời nguồn giống không được kiểm tra chất lượng
trước khi nhập. Bởi vậy, để xác định chất lượng giống
nhập cũng như nghiên cứu cách thức nhân giống,
sản xuất cây giống hoàng kỳ, nội dung “Nghiên cứu
ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật đến tỷ
lệ nảy mầm, sinh trưởng của cây con hoàng kỳ tại
Quản Bạ - Hà Giang” được tiến hành thực hiện.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Hạt giống hoàng kỳ nhập nội từ Trung Quốc.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm 1: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời
vụ gieo hạt đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng của
cây hoàng kỳ.
Bố trí gieo 6 thời vụ: TV1: Gieo hạt vào 15/10;
TV2: gieo hạt vào 15/11; TV3: gieo hạt vào 15/12;
TV4: gieo hạt vào 15/01; TV5: gieo hạt vào 15/02;
TV6: gieo hạt vào 15/3.
- Thí nghiệm 2: Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt
độ ngâm hạt trong nước đến tỷ lệ nảy mầm và sinh
trưởng của cây hoàng kỳ
Thí nghiệm gồm 3 công thức: CT1: Ngâm hạt với
nước lạnh 25oC trong 60 phút (Đ/C); CT2: Ngâm hạt
với nước ấm 45oC (2 sôi + 3 lạnh) trong 60 phút;
CT3: Ngâm hạt với nước ấm 54oC (3 sôi + 2 lạnh)
trong 60 phút.
- Thí nghiệm 3: Nghiên cứu ảnh hưởng của thời
gian xử lý hạt giống đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng
của cây hoàng kỳ
Thí nghiệm gồm 3 công thức: CT1: Xử lý hạt bằng
nước ấm 45oC (2 sôi + 3 lạnh) trong 30 phút; CT2:
xử lý hạt bằng nước ấm 45oC (2 sôi + 3 lạnh) trong
60 phút (Đ/c); CT3: xử lý hạt bằng nước ấm 45oC
(2 sôi + 3 lạnh) trong 90 phút.
- Thí nghiệm 4: Nghiên cứu ảnh hưởng của các
phương pháp gieo hạt đến tỷ lệ nảy mầm và sinh
trưởng của cây hoàng kỳ
Thí nghiệm gồm 3 công thức: CT1: Gieo hạt trên
nền đất (Đ/c); CT2: gieo hạt trong bầu; CT3: gieo hạt
thẳng trên ruộng.
79
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Các thí nghiệm được bố trí kiểu khối ngẫu nhiên
đầy đủ CDB: Completely Randomized Block.
- Đánh giá tỷ lệ nảy mầm: Gieo hạt trên đĩa petri,
mỗi thời vụ 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại gieo
100 hạt/đĩa petri.
- Đối với thí nghiệm 4 đánh giá tỷ lệ nảy mầm của
hạt gieo trong các công thức nền đất, gieo bầu, gieo
thẳng. Mỗi công thức gieo 100 hạt, 3 lần nhắc lại.
- Đánh giá sinh trưởng: Gieo hạt trong bầu, mỗi
công thức 3 lần nhắc lại, mỗi lần nhắc lại gieo 100
bầu. Bầu đặt trong vườn ươm có mái che, gieo xong
phủ một lớp trấu mỏng, rồi tưới ẩm (Quy cách bầu:
kích thước 8 cm ˟ 12 cm, giá thể bầu là đất + phân
hữu cơ + trấu hun tỷ lệ 2 : 1 : 1).
- Hạt trước khi gieo được xử lý bằng nước ấm
45oC (2 sôi + 3 lạnh) trong 60 phút (20 phút thay
nước ấm 1 lần).
- Thí nghiệm được tiến hành ở thời vụ tháng 11
(trừ thí nghiệm thời vụ).
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Các chỉ tiêu về tỷ lệ nảy mầm và thời gian
sinh trưởng:
+ Tỷ lệ nảy mầm (%): Số hạt nảy mầm/tổng số
hạt thử ˟ 100.
+ Thời gian từ gieo đến khi hạt nảy mầm (ngày):
Được tính khi có 50% số hạt nảy mầm.
+ Thời gian từ gieo đến khi ra lá thật (ngày): Tính
từ lúc gieo cho đến khi cây con ra lá thật.
+ Thời gian từ gieo đến xuất vườn (ngày): Tính từ
lúc gieo cho đến khi cây con đủ điều kiện xuất vườn.
- Các chỉ tiêu về sinh trưởng khi xuất vườn:
+ Chiều cao cây khi xuất vườn (cm): Đo từ vị trí
sát mặt đất đến vuốt lá cao nhất.
+ Số lá khi xuất vườn: Đếm số lá trên cây khi
xuất vườn.
+ Tỷ lệ cây sống khi xuất vườn (%) = số cây còn
sống/tổng số hạt nảy mầm ˟ 100.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Kết quả nghiên cứu được xử lý theo phần mềm
Excelvà IRRISTAT.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 10 năm
2017 đến tháng 6 năm 2018 tại xã Quyết Tiến, huyện
Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của thời vụ đến các chỉ
tiêu sinh trưởng, tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống của
cây giống hoàng kỳ
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Ở các thời vụ theo dõi có thời gian nảy mầm từ
6 - 9 ngày, thời vụ gieo vào 15/10 và 15/11 hạt nảy
mầm sớm hơn các thời vụ khác từ 1 - 3 ngày. Thời
gian cây xuất vườn từ 55 - 60 ngày, trong đó đa số các
thời vụ chỉ từ 57 - 60 ngày là xuất vườn, chỉ có thời
vụ gieo 15/3 nhanh nhất là 55 ngày, do thời điểm này
thời tiết ấm lên, cây sinh trưởng nhanh hơn.
Bảng 1. Ảnh hưởng của thời vụ đến các chỉ tiêu sinh trưởng,
tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống của cây giống hoàng kỳ
Thời vụ
Thời gian từ gieo đến ... (ngày) Tỷ lệ
nảy mầm
(%)
Tỷ lệ cây sống
khi xuất vườn
(%)
Chiều cao cây
khi xuất vườn
(cm)
Số lá khi
xuất vườn
(cm)Nảy mầm Ra lá thật Xuất vườn
15/10 6 12 60 68,7 66,7 15,7 7,3
15/11 6 12 58 86,3 84,7 17,7 8,6
15/12 7 13 59 84,6 80,3 16,3 7,3
15/01 8 15 58 70,3 65,3 13,3 6,3
15/02 9 13 57 71,3 67,7 13,7 6,7
15/03 7 14 55 70,0 68,7 12,8 6,3
LSD0,05 0,9 1,0 1,1 4,7 6,4 2,5 0,9
CV (%) 7,5 4,3 4,0 4,3 6,8 7,8 7,1
80
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống khi xuất vườn có
hai khoảng khác nhau rõ rệt, đạt cao ở thời vụ 15/11
và 15/12. Thời vụ 15/11 có tỷ lệ nảy mầm là 86,3% và
tỷ lệ cây sống khi xuất vườn đạt 84,7% là cao nhất,
tiếp đến là thời vụ 15/12 tỷ lệ nảy mầm đạt 84,6%, tỷ
lệ cây sống khi xuất vườn là 80,3%. Các thời vụ khác
tỷ lệ nảy mầm chỉ đạt từ 68,7% đến 71,3% và tỷ lệ
cây sống khi xuất vườn từ 65,3% đến 68,7%. Chiều
cao cây và số lá ở thời vụ 15/11 cũng đạt cao nhất,
chiều cao đạt 17,7cm, số lá 8,6 lá. Kết quả xử lý thống
kê cho thấy giữa hai thời vụ 15/11 và 15/12 không
sai khác có ý nghĩa, nhưng sai khác với các thời vụ
khác có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%. Giữa các thời vụ
15/10, 15/01, 15/02, 15/03 không sai khác có ý nghĩa
ở mức tin cậy 95%.
Như vậy, thời vụ thích hợp là gieo từ 15/11 đến
15/12, cây đạt tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống khi xuất
vườn cao.Thời vụ gieo tháng 01 nhiệt độ không khí
lạnh hơn nên hạt nảy mầm chậm, cây sinh trưởng
kém, các thời vụ gieo tháng 2, tháng 3 cũng cho tỷ
lệ nảy mầm và sinh trưởng kém hơn thời vụ gieo từ
15/11 đến 15/12.
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ ngâm hạt
trong nước đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng của
cây giống hoàng kỳ
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của nhiệt độ ngâm hạt
trong nước đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng
của cây giống hoàng kỳ
Công
thức
Thời gian từ gieo
đến ... (ngày)
Tỷ lệ
nảy
mầm
(%)
Tỷ lệ
cây xuất
vườn
(%)
Nảy
mầm
Ra lá
thật
Xuất
vườn
CT1 7 14 62 75,7 73,6
CT2 5 12 58 86,7 84,7
CT3 6 14 60 82,5 80,3
LSD0,05 0,7 1,5 1,4 7,5 7,4
CV (%) 5,4 5,0 4,0 5,1 5,2
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
Nhiệt độ ngâm hạt ảnh hưởng một chút tới thời
gian từ gieo đến bắt đầu nảy mầm, ra lá thật và đến
khi xuất vườn. Thời gian từ gieo đến bắt đầu nảy
mầm từ 5 đến 7 ngày, ra lá thật từ 12 đến 14 ngày,
đến khi xuất vườn dao động từ 58 đến 62 ngày, công
thức 2 (xử lý ngâm hạt với nước ấm 45oC) có thời
gian nảy mầm, ra lá thật và xuất vườn nhanh hơn
hai công thức ngâm nước lạnh và nước ấm 54oC.
Kết quả xử lý thống kê cho thấy công thức 2 so với
hai công thức kia có sự sai khác có ý nghĩa thống kê
ở độ tin cậy 95%, tuy nhiên mức chênh lệch không
đáng kể.
Tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống khi xuất vườn
giữa các công thức đều đạt cao, tỷ lệ nảy mầm từ
75,7% - 86,7%, tỷ lệ cây sống khi xuất vườn đạt từ
73,6% - 84,7%, chênh lệch giữa công thức có tỷ lệ nảy
mầm cao nhất CT2 (86,7%) và công thức có tỷ lệ nảy
mầm thấp nhất CT 1 (75,7 %) là 11%. Chênh lệch
giữa công thức có tỷ lệ sống cao nhất CT2 (84,7%)
và công thức có tỷ lệ sống thấp nhất CT1 (73,6%) là
11,1%. Kết quả xử lý thống kê cho thấy giữa CT1 với
CT3 và CT2 với CT3 không sai khác, nhưng giữa
CT1 và CT2 có sự sai khác có ý nghĩa thống kê ở
mức tin cậy 95%.
Nhìn chung, nhiệt độ ngâm xử lý hạt trong nước
có ảnh hưởng tới thời gian nảy mầm và tỷ lệ nảy
mầm, tỷ lệ sống của cây giống hoàng kỳ khi xuất
vườn. Xử lý ngâm hạt với nước ấm 45oC (2 sôi + 3
lạnh) hoặc 54oC (3 sôi + 2 lạnh) trong 60 phút đều
cho kết quả là tốt về tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống
khi xuất vườn.
3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian xử lý
hạt đến tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ sống và thời gian sinh
trưởng của cây giống hoàng kỳ
Trên cơ sở xác định nhiệt độ ngâm hạt tối ưu, tiếp
tục nghiên cứu ảnh hưởng thời gian xử lý hạt đến tỷ
lệ nảy mầm, tỷ lệ sống và thời gian sinh trưởng của
cây giống hoàng kỳ. Kết quả nghiên cứu được trình
bày trong bảng 3.
Bảng 3. Ảnh hưởng của thời gian xử lý hạt
đến tỷ lệ nảy mầm, tỷ lệ sống và thời gian
sinh trưởng của cây giống hoàng kỳ
Công
thức
Thời gian từ gieo
đến ... (ngày)
Tỷ lệ
nảy
mầm
(%)
Tỷ lệ
cây xuất
vườn
(%)
Nảy
mầm
Ra lá
thật
Xuất
vườn
CT1 6 13 61 74,7 69,4
CT2 5 11 59 85,7 82,7
CT3 6 13 61 83,6 79,5
LSD0,05 0,7 1,5 0,9 3,6 5,5
CV (%) 6,0 5,4 5,0 5,2 3,9
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3 cho thấy:
Thời gian xử lý hạt ảnh hưởng rất ít tới thời gian
từ gieo đến nảy mầm, ra lá thật và đến khi xuất vườn,
chênh lệch giữa các công thức chỉ 1 đến 2 ngày.
81
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
Tỷ lệ nảy mầm giữa các công thức dao động từ
74,7% - 85,7%, chênh lệch giữa công thức có tỷ lệ
nảy mầm cao nhất CT2 (85,7%) và công thức có tỷ
lệ nảy mầm thấp nhất CT1 (74,7 %) là 11,0%. Qua
phân tích thống kê, CT2 và CT3 không khác nhau
có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%, CT1 so sánh với CT2
và CT3 có sự sai khác có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%.
Tỷ lệ cây sống khi xuất vườn tỷ lệ thuận với tỷ lệ
nảy mầm, công thức 2 đạt cao nhất là 82,7%, thấp
nhất là CT1 đạt 69,4%, CT3 đạt 79,5%. Kết quả phân
tích thống kê cho thấy công thức 1 so sánh với CT2
và CT3 có sự sai khác có ý nghĩa ở mức tin cậy 95%,
CT2 và CT3 không khác nhau có ý nghĩa ở mức tin
cậy 95%.
Nhìn chung, thời gian ngâm xử lý hạt trong
nước có ảnh hưởng tới tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ giống
cây giống hoàng kỳ khi xuất vườn. Ngâm hạt với
nước ấm 45oC (2 sôi + 3 lạnh) trong 60 - 90 phút
cho kết quả là tốt về tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống
khi xuất vườn.
3.4. Nghiên cứu ảnh hưởng của các phương pháp
gieo hạt đến tỷ lệ nảy mầm và sinh trưởng của cây
giống hoàng kỳ
Kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 4.
Bảng 4. Ảnh hưởng của các phương pháp gieo hạt đến các chỉ tiêu sinh trưởng,
tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống của cây giống hoàng kỳ
Công thức
Thời gian từ gieo đến ... (ngày) Tỷ lệ
nảy mầm
(%)
Tỷ lệ cây
xuất vườn
(%)
Chiều cao
cây khi xuất
vườn (cm)
Số lá khi
xuất vườn
(cm)Nảy mầm Ra lá thật Xuất vườn
CT1 6 12 60 80,7 79,3 13,3 6,3
CT2 6 10 59 86,3 84,7 17,7 8,3
CT3 8 12 - 74,7 73,7 15,8 7,3
LSD0,05 0,9 1,3 6,8 4,8 2,0 1,3
CV (%) 6,1 4,9 4,7 3,4 5,6 7,9
Ghi chú: Phương pháp gieo thẳng không tính thời gian từ gieo đến khi xuất vườn nhưng các chỉ tiêu khác tính cùng
thời gian tương đương với các phương pháp gieo khác.
Kết quả bảng 4 cho thấy:
Phương pháp gieo hạt có ảnh hưởng tới thời
gian từ gieo đến nảy mầm giữa các công thức, đạt từ
6 - 8 ngày, hai công thức 1 và 2 gieo trên nền đất và
gieo bầu trong vườn ươm có thời gian nảy mầm như
nhau là 6 ngày, còn CT3 gieo thẳng trên đồng ruộng
hạt nảy mầm lâu hơn là 8 ngày. Như vậy có thể thấy
các công thức gieo ở vườn ươm có điều kiện chăm
sóc tưới ẩm tốt hơn nên hạt có thời gian nảy mầm
nhanh hơn so với gieo thẳng ngoài đồng ruộng.
Thời gian từ gieo đến ra lá thật và gieo đến xuất
vườn không chênh lệch nhiều giữa các công thức.
Tỷ lệ nảy mầm đạt từ 74,7 - 86,3%, công thức 2
gieo hạt trong bầu đạt tỷ lệ nảy mầm cao nhất 86,3%,
tiếp đến là gieo trên nền đất đạt 80,7%, công thức 3
gieo thẳng hạt trên ruộng đạt tỷ lệ thấp nhất 74,7%.
Kết quả xử lý thống kê cho thấy giữa CT1 với CT2 và
CT1 với CT3 là không khác nhau có ý nghĩa thống
kê, CT2 với CT3 là khác nhau có ý nghĩa ở mức tin
cậy 95%.
Tỷ lệ cây sống khi xuất vườn giữa các công thức
đạt từ 73,7% - 84,7%, công thức 2 có tỷ lệ sống cao
nhất là 84,7%, thấp nhất là CT3 đạt 73,7%. Kết quả
xử lý thống kê cho thấy giữa các công thức có sự sai
khác có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 95%.
Nhìn chung, phương pháp gieo hạt có ảnh hưởng
tới tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ sống của cây giống hoàng
kỳ khi xuất vườn. Cây gieo trong bầu và gieo trên
nền đất có điều kiện chăm sóc tốt hơn nên cho kết
quả là tốt hơn về tỷ lệ nảy mầm và tỷ lệ cây sống so
với gieo thẳng, tuy nhiên gieo bầu sẽ tốn nhiều công
và kinh phí hơn. Cây gieo ươm trên nền đất khi đánh
trồng cây phải mất một thời gian để hồi xanh và tưới,
dặm cây nhiều hơn, ngoài ra cây đánh trồng rễ trần
cũng làm cho bộ rễ kém phát triển, củ sẽ nhỏ hơn,
nhưng phương pháp này dễ chăm sóc và ít tốn kém.
Phương pháp gieo thẳng hạt trên ruộng có lợi thế là
cây gieo đã mọc sẽ phát triển nhanh hơn khỏe hơn,
nhưng có khó khăn là tốn nhiều công chăm sóc, tỷ lệ
cây nảy mầm và cây sống kém hơn.
Như vậy, trong các phương pháp gieo hạt đều có
các mặt lợi và hạn chế, để đảm bảo cây sinh trưởng
và phát triển tốt có thể lựa chọn 1 trong 2 phương
pháp gieo bầu và gieo thẳng để áp dụng.
82
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 6(103)/2019
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Thời vụ thích hợp gieo hạt vào 15/11 cho tỷ lệ
nảy mầm cao đạt 86,3%, tỷ lệ cây sống khi xuất
vườn đạt 84,7%.
Xử lý hạt ngâm trong nước ấm tốt nhất là 45oC
với thời gian ngâm 60 phút cho hạt nảy mầm nhanh
(khoảng 5 ngày), đạt tỷ lệ nảy mầm cao (85,7%) và tỷ
lệ cây sống cao (82,7%).
Phương thức gieo hạt hoàng kỳ trong bầu cho tỷ
lệ nảy mầm và tỷ lệ sống khi xuất vườn là cao nhất.
Tỷ lệ nảy mầm đạt 86,3%, tỷ lệ sống khi xuất vườn
đạt 84,7%. Phương pháp gieo thẳng đạt tỷ lệ nảy
mầm 74,7% và tỷ lệ cây sống là 73,7%.
4.2. Đề nghị
Kết quả trên là những nghiên cứu ban đầu về
nhân giống cây hoàng kỳ, cần có những đánh giá tiếp
theo về sinh trưởng, năng suất khi trồng để có cơ sở
cho việc phát triển cây hoàng kỳ.
LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu được tài trợ bởi Chương
trình Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển bền
vững vùng Tây Bắc, ĐHQGHN, mã số đề tài KHCN-
TB.17C/13-18.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Y tế, 2012. Giáo trình Đông dược đại học. Học viện Y
dược cổ truyền Việt Nam, tr. 178-187.
Võ Văn Chi, 2004. Từ điển cây thuốc Việt Nam, tập 2,
NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
Đỗ Tất Lợi, 2004. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam.
NXB Khoa học và Kỹ thuật.
Viện Dược liệu, 2006. Cây thuốc và động vật làm thuốc
ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Tập
II, tr. 936-938.
Wang M., 2009. Cultivation practices for Astragalus
membranaceus in the Southeastern United States.
University Auburn.
Effect of propagation techniques on germination and growth
of Astragalus membranaceus in Quan Ba, Ha Giang
Phan Thi Lam, Tran Danh Viet, Tran Thi Kim Dung,
Hoang Thuy Nga, Nguyen Ba Hung, Tran Huu Khanh Tan,
Nguyen Van Dung, Ta Quoc Vuong
Abstract
This study was conducted to identify the propagation techniques of Astragalus membranaceus in Quan Ba - Ha Giang.
The results showed that the optimum seeding season was November 15th with the germination rate of 86.3%, and
survival rate of 84.7%. Seeds treated with warm water at 45oC for 60 minutes resulted in the earliest germination
(approximately 5 days), high germination rate (86.7%) and high survival rate (84.7%). The treatment using plastic
pot/bag showed the high germination rate and survival rate for the best growth of plants with the plant height of
17.6 cm and the number of leaves reached 8.2 at planting time after 60 days of sowing.
Keywords: Astragalus membranaceus, seeding season, germination rate, survival rate
Hình 2. Cây giống hoàng kỳ gieo bầu
đạt tiêu chuẩn xuất vườn
Hình 3. Cây hoàng kỳ gieo thẳng
ngoài đồng ruộng
Ngày nhận bài: 20/5/2019
Ngày phản biện: 29/5/2019
Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 14/6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_anh_huong_cua_mot_so_bien_phap_ky_thuat_den_ty_le.pdf