Các kết quả nghiên cứu trình bày ở trên cho
phép rút ra một số kết luận sau:
Với bê tông polystyrene kết cấu, được chế tạo
bằng cách bổ sung lượng hạt polystyrene vào bê
tông nền, khối lượng thể tích của bê tông
polystyrene có ảnh hưởng lớn đến tính công tác và
độ phân tầng. Theo đó, tính công tác giảm và độ
phân tầng tăng khi giảm khối lượng thể tích bê tông
polystyrene. Tính công tác của hỗn hợp bê tông nền
giảm 40 mm thì khối lượng thể tích của hỗn hợp bê
tông polystyrene tương ứng cũng giảm khoảng 40
mm.
8 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 460 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố đến tính công tác và độ phân tầng của hỗn hợp bê tông polystyrene kết cấu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
22 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ ĐẾN
TÍNH CÔNG TÁC VÀ ĐỘ PHÂN TẦNG CỦA HỖN HỢP BÊ TÔNG
POLYSTYRENE KẾT CẤU
TS. HOÀNG MINH ĐỨC, ThS. LÊ PHƯỢNG LY
Viện KHCN Xây dựng
Tóm tắt: Bê tông polystyrene kết cấu với khối
lượng thể tích từ 1.400 kg/m³ đến 2.000 kg/m³ có
thể được chế tạo bằng cách thêm cốt liệu nhẹ
polystyrene phồng nở vào hỗn hợp bê tông nặng
(bê tông nền). Khi đó, tính chất của bê tông nhẹ thu
được sẽ phụ thuộc vào tính chất và lượng cốt liệu
nhẹ thêm vào cũng như đặc tính của bê tông nền.
Kết quả nghiên cứu trình bày trong bài báo này cho
thấy độ phân tầng và tính công tác của hỗn hợp bê
tông polystyrene phụ thuộc vào khối lượng thể tích
của bê tông nhẹ và tính công tác của bê tông nền.
Để hạn chế phân tầng có thể giảm tính công tác của
hỗn hợp bê tông hoặc điều chỉnh độ nhớt của hồ xi
măng bằng cách sử dụng phụ gia. Giảm kích thước
hạt cốt liệu của bê tông nền cũng là một biện pháp
hữu hiệu để hạn chế độ phân tầng của bê tông
polystyrene kết cấu.
Từ khóa: bê tông nhẹ, cốt liệu polystyrene, BPK,
hạt polystyrene phồng nở.
Abstract: Lightweight structural polystyrene
concrete with unit weight from 1,400 kg/m³ to 2,000
kg/m³ can be made by adding lightweight
polystyrene aggregate to concrete mixtures (matrix).
The properties of lightweight concetes depend on
properties and volume of added lightweight
aggregate and properties of matrix. The research
results presented in this article show that the
segregation and workability of the polystyrene
concrete mixtures depend on the unit weight of the
concrete and the workability of the matrix. The
segregation can be reduced by decreasing the
workability of the matrix or modifying viscosity of the
matrix by using admixtures. It also shows that
decreasing the aggregate's size of the matrix is the
effective way to reduce the segregation of the
lightweight polystyrenre concrete mixtures.
Keywords: lightweight concrete, polystyrene
aggregate, structural polystyrene concrete, BPK.
1. Mở đầu
Bê tông nhẹ sử dụng hạt polystyrene phồng nở
(EPS) đã được nghiên cứu ứng dụng tại nhiều
nước trên thế giới từ giữa thập niên 70 của thế kỷ
XX, bao gồm bê tông polystyrene cách nhiệt - kết
cấu và bê tông polystyrene kết cấu (BPK). Bê tông
polystyrene cách nhiệt - kết cấu có khối lượng thể
tích từ khoảng 500 kg/m³ đến 900 kg/m³ dùng cho
các sản phẩm như viên xây, panel nhẹ không chịu
lực. Bê tông polystyrene kết cấu có khối lượng thể
tích từ 1.400 kg/m³ đến 2.000 kg/m³ thường ứng
dụng để chế tạo các cấu kiện chịu lực. Tại Việt
Nam, bê tông polystyrene mới được nghiên cứu sử
dụng từ những năm đầu thế kỷ XXI. Các sản phẩm
chủ yếu là viên xây nhẹ, tấm tường nhẹ không chịu
lực, lớp cách nhiệt đổ tại chỗ với khối lượng thể tích
từ 600 kg/m³ đến 800 kg/m³ [1, 2]. Gần đây, bê tông
polystyrene còn được sử dụng làm lớp lõi trong sản
xuất tấm tường nhẹ nhiều lớp với lớp ngoài là tấm
xi măng cốt sợi. Kết quả ứng dụng thực tế đã cho
thấy bê tông polystyrene được đánh giá là vật liệu
có nhiều triển vọng phát triển tại nước ta do có ưu
thế so với bê tông tổ ong ở khả năng chống thấm,
có ưu thế so với bê tông keramzit ở khả năng chủ
động nguồn nguyên liệu. Mở rộng ứng dụng bê tông
polystyrene trong xây dựng ở Việt Nam trong giai
đoạn tới có thể đạt được nhờ phát triển hệ sản
phẩm BPK với khối lượng thể tích đến 2.000 kg/m³,
cường độ chịu nén trên 20 MPa, đáp ứng yêu cầu
sử dụng trong các cấu kiện, kết cấu bê tông cốt
thép chịu lực. Đây là hướng nghiên cứu được nhóm
tác giả kế thừa và tập trung phát triển.
Cốt liệu EPS là sản phẩm thu được khi gia công
nhiệt hạt polystyrene nguyên liệu. Hạt EPS có dạng
hình cầu chuẩn có cấu trúc xốp bên trong và bề mặt
hạt trơn nhẵn, không hút nước. Do đó, khác với các
loại cốt liệu nhẹ khác như keramzit hay peclit, vốn là
loại cốt liệu nhẹ có đặc điểm hút nước mạnh, sự có
mặt của EPS trong bê tông không làm thay đổi
lượng nước tự do, cũng như tỷ lệ nước trên xi
măng của bê tông nền. Hạt EPS không tương tác
về mặt hoá học với bê tông nền mà chỉ làm giảm
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 23
khối lượng thể tích của hỗn hợp bê tông. Tuy nhiên,
sự có mặt của EPS với modun đàn hồi thấp cũng có
ảnh hưởng nhất định đến các tính chất vật lý, cơ lý,
biến dạng,... của bê tông nền. Có thể coi bê tông
polystyrene là hệ vật liệu composit mà ở đó hạt EPS
được phân bố đều trong vật liệu nền là bê tông
nặng thông thường. Trong đó, hạt EPS được đưa
vào nhằm biến tính vật liệu nền theo hướng làm
giảm khối lượng thể tích và qua đó cũng làm thay
đổi các tính chất khác của hỗn hợp bê tông và bê
tông. Tính chất của bê tông polystyrene có thể được
nghiên cứu trong mối quan hệ ảnh hưởng của tính
chất hạt EPS, tính chất bê tông nền và tỷ lệ giữa hai
thành phần trên.
Hỗn hợp bê tông là một hệ đa phân tán, theo
các tính chất của mình, chiếm vị trí trung gian giữa
chất lỏng dẻo và chất rắn. Tỷ lệ và tương tác giữa
các pha (rắn, lỏng, khí) và các thành phần (xi măng,
nước, cốt liệu, phụ gia) sẽ quyết định tính chất của
hỗn hợp bê tông. Các tính chất của hỗn hợp bê
tông như một thể thống nhất từ các vật liệu rời
được hình thành nhờ tương tác giữa nước và các
hạt mịn tạo nên sự dính kết giữa các thành phần.
Trong đó, hồ xi măng đóng vai trò quan trọng nhất.
Hồ xi măng, bao gồm thể tích hồ và tính chất
của hồ, có những ảnh hưởng lớn đến tính chất của
hỗn hợp bê tông. Nghiên cứu [2] đã cho thấy hệ số
điền đầy giảm làm giảm độ sụt hoặc tăng độ cứng
của hỗn hợp bê tông. Vữa xi măng trong các hỗn
hợp bê tông này chỉ đủ để hình thành một lớp vỏ
mỏng bao quanh các hạt cốt liệu chứ không đủ để
điền đầy lỗ rỗng giữa các hạt. Đó là do thể tích hồ
trong bê tông polystyrene cách nhiệt nhỏ hơn thể
tích hạt EPS, nên khi giảm thể tích hồ để giảm khối
lượng thể tích bê tông polystyrene thì cấu trúc bê
tông chuyển từ liên tục sang không liên tục. Chính
việc hình thành cấu trúc không liên tục này trong bê
tông nhẹ cách nhiệt đã làm giảm mạnh tính công
tác. Do đó, nghiên cứu này đã sử dụng silicafume,
tro bay làm phụ gia khoáng bổ sung vào thành phần
bê tông polystyrene có khối lượng thể tích thấp làm
tăng hệ số điền đầy của bê tông. Tuy nhiên, BPK
với khối lượng thể tích từ 1.400 kg/m³ đến 2.000
kg/m³ đã có cấu trúc liên tục, nên yếu tố cơ bản ảnh
hưởng đến các tính chất của BPK chính là tính chất
của hồ xi măng.
Tính chất của hồ chịu ảnh hưởng lớn bởi tỷ lệ
chất kết dính trên nước. Việc sử dụng thêm phụ gia
khoáng với độ mịn cao làm tăng lượng dùng nước
của hỗn hợp bê tông khiến cho cường độ của bê
tông polystyrene giảm. Chính vì vậy, phụ gia siêu
dẻo cần được sử dụng trong thành phần bê tông
nền để cải thiện tính công tác của bê tông
polystyrene mà giữ nguyên lượng dùng nước. Điều
này cũng làm thay đổi tính lưu biến của hỗn hợp bê
tông, tăng khả năng phân tầng khi có chấn động.
Chính vì vậy, nghiên cứu [2] không sử dụng đầm
rung khi thí nghiệm độ phân tầng của hỗn hợp bê
tông polystyrene.
Mặt khác, vì thực tế hỗn hợp bê tông không
đồng nhất và kích thước của cốt liệu trong bê tông
nền không cố định nên cần tính đến ảnh hưởng của
độ phân tầng tới tính chất của bê tông. Khác với bê
tông nặng thông thường, khi bị phân tầng, hạt EPS
có xu hướng dịch chuyển lên trên, còn bê tông nền
dịch chuyển xuống dưới. Điều này có thể thấy rõ khi
xem xét chuyển động tương đối của các cấu tử
trong hỗn hợp BPK theo phương trình Stocke: v = 2. rଶ. (ρ୬ề୬ − ρୗ). g9. (1)
Trong đó:
v - vận tốc chuyển dịch của hạt cốt liệu (m/s);
r - bán kính của hạt cốt liệu (m);
ρ୬ề୬ - khối lượng thể tích bê tông nền (kg/m³);
ρୗ - khối lượng thể tích hạt EPS (kg/m³);
g - gia tốc trọng trường (m/s²);
- độ nhớt động lực của hồ hoặc vữa xi măng
(Ns/m²).
Trên cơ sở phân tích phương trình (1) có thể
thấy rằng ba yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến vận tốc
dịch chuyển của hạt EPS trong hỗn hợp bê tông
nền đó là kích thước hạt EPS, khối lượng thể tích
hạt EPS và độ nhớt hỗn hợp bê tông nền. Hỗn hợp
bê tông polystyrene với sự chênh lệch lớn về khối
lượng thể tích giữa các vật liệu thành phần bao gồm
pha nền (với khối lượng thể tích khoảng từ 2.000
kg/m³ đến 2.400 kg/m³) và hạt EPS (với khối lượng
thể tích từ 15 kg/m³ đến 30 kg/m³) nên khả năng
phân tầng của hỗn hợp bê tông polystyrene cao
hơn nhiều so với bê tông thường. Với một loại hạt
EPS cụ thể, tức là đường kính hạt EPS và khối
lượng thể tích hạt EPS không đổi, thì độ phân tầng
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
24 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
giảm khi tăng độ nhớt của hỗn hợp bê tông nền.
Một trong các biện pháp tăng độ nhớt của hồ trong
bê tông là sử dụng các phụ gia điều chỉnh độ nhớt.
Phụ gia điều chỉnh độ nhớt là các hợp chất hữu
cơ có khả năng làm giảm lượng nước tự do trong
dung dịch và vì vậy làm tăng độ nhớt của bê tông.
Trong hỗn hợp hồ xi măng, các chuỗi phân tử này
đan xen vào nhau đảm bảo sự ổn định của hỗn
hợp. Khi vận tốc biến dạng trượt tăng lên, các chuỗi
phân tử có khả năng duỗi ra theo hướng chảy, làm
giảm độ nhớt của hồ xi măng [3]. Hiện tượng này
đảm bảo sự ổn định của hỗn hợp bê tông ở trạng
thái tĩnh và đảm bảo độ linh động cần thiết của hỗn
hợp bê tông khi thi công. Các nghiên cứu đã cho
thấy ảnh hưởng trực tiếp của độ nhớt đến tính công
tác của hỗn hợp bê tông và cũng chỉ ra ảnh hưởng
nhất định của thành phần bê tông đến mối quan hệ
trên.
Nghiên cứu tại Viện Chuyên ngành Bê tông -
Viện KHCN Xây dựng, trình bày trong khuôn khổ bài
báo này, đã làm rõ ảnh hưởng của một số yếu tố
như hàm lượng phụ gia siêu dẻo, phụ gia điều chỉnh
độ nhớt, kích thước hạt lớn nhất của cốt liệu đến
tính công tác và độ phân tầng của hỗn hợp bê tông.
Kết quả nghiên cứu cho phép lựa chọn thành phần
hỗn hợp bê tông đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật định
trước.
2. Vật liệu và phương pháp thí nghiệm
2.1 Vật liệu
Nghiên cứu đã sử dụng cốt liệu EPS thương
phẩm có sẵn trên thị trường. Các tính chất của EPS
được trình bày tại bảng 1.
Bảng 1. Các tính chất của hạt EPS
STT Chỉ tiêu Đơn vị Giá trị
1 Kích thước hạt lớn nhất mm 2,5
2 Kích thước hạt nhỏ nhất mm 1,5
3 Khối lượng thể tích của hạt kg/m³ 19,7
4 Khối lượng thể tích xốp kg/m³ 11,1
Xi măng sử dụng là PCB40 Bút Sơn, có cường
độ tuổi 28 ngày là 44,3 MPa, khối lượng riêng là
3,05 g/cmᶟ, độ mịn là 3.410 cm²/g. Silicafume D920
có khối lượng riêng là 2,2 g/cmᶟ chỉ số hoạt tính
theo cường độ là 1,0. Để tăng tính công tác, đã sử
dụng phụ gia siêu dẻo gốc polycarboxylate SP có
khả năng giảm nước 25-30%, tỷ trọng 1,05 ± 0,02
g/ml. Để điều chỉnh độ nhớt của hỗn hợp bê tông đã
sử dụng phụ gia dạng bột trên cơ sở hydroxy propyl
metyl xenlulo, ký hiệu MC, có độ pH 4-8, độ nhớt
35.000 - 47.000 mPa.s (dung dịch 2% ở 20°C).
Cốt liệu lớn sử dụng trong nghiên cứu là đá
dăm gốc cacbonate, gồm hai loại D1 và D2, có kích
thước hạt lớn nhất tương ứng là 10 mm và 20 mm.
Cốt liệu nhỏ gồm có 3 loại ký hiệu là C1, C2, C3 có
kích thước hạt lớn nhất tương ứng là 0,63 mm, 1,25
mm, 5 mm. Các tính chất của cốt liệu được trình
bày trong bảng 2.
Bảng 2. Tính chất của cốt liệu
STT Chỉ tiêu kỹ thuật Đơn vị C1 C2 C3 D1 D2
1 Khối lượng riêng g/cm³ 2,66 2,65 2,65 2,85 2,85
2 Khối lượng thể tích bão hoà nước g/cm³ 2,64 2,64 2,64 2,84 2,84
3 Khối lượng thể tích khô g/cm³ 2,62 2,63 2,63 2,8 2,8
4 Độ hút nước % 0,4 0,2 0,2 0,5 0,5
5 Khối lượng thể tích xốp kg/m³ 1.449 1.445 1.445 1394 1408
6 Độ hổng % 0,45 0,45 0,45 0,50 0,50
7 Hàm lượng bùn, bụi, sét % 0,7 0,5 0,5 - -
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 25
STT Chỉ tiêu kỹ thuật Đơn vị C1 C2 C3 D1 D2
8
Thành phần hạt (sót riêng)
20 mm
10 mm
5 mm
2,5 mm
1,25 mm
0,63 mm
0,315 mm
0,14 mm
đáy sàng (<0,14)
%
-
-
0
0
0
0
45,7
48,9
5,4
-
-
0
0
0
47,1
28,6
19,9
4,4
-
-
0
8,5
16,8
21,8
27,7
20,8
4,4
-
0
100
0
-
-
-
-
-
0
100
0
-
-
-
-
-
-
2.2 Phương pháp thí nghiệm
Tính chất của vật liệu sử dụng và hỗn hợp bê
tông được xác định theo các phương pháp tiêu
chuẩn quy định trong tiêu chuẩn quốc gia.
Riêng với hạt EPS, do có khối lượng thể tích
nhỏ hơn nhiều so với khối lượng thể tích của cốt
liệu thông thường, nên nghiên cứu này đã xác định
khối lượng thể tích hạt EPS bằng tính toán, thông
qua việc xác định khối lượng thể tích xốp và độ rỗng
của cốt liệu, theo phương pháp đã áp dụng trong
nghiên cứu [2]. Độ hổng giữa các hạt được xác định
bằng tỷ lệ thể tích nước thêm vào ống đong với các
hạt EPS được đổ sẵn và giữ ở mức cố định.
Độ phân tầng của hỗn hợp BPK được xác định
bằng tỷ lệ phần trăm chênh lệch khối lượng thể tích
hỗn hợp BPK của phần trên và phần dưới so với
khối lượng thể tích của cả khối hỗn hợp bê tông của
bình đong hình trụ thể tích 5 lit, không sử dụng đầm
rung [2].
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1 Tính công tác của BPK
Để nghiên cứu ảnh hưởng của bê tông nền và
EPS đến tính chất của BPK đã sử dụng các cấp
phối bê tông nền với tính chất và vật liệu khác nhau.
BPK được chế tạo bằng cách thêm một lượng cốt
liệu EPS nhất định vào bê tông nền. Lượng dùng
vật liệu BPK được tính toán trên cơ sở khối lượng
thể tích hỗn hợp bê tông và tính chất vật liệu đầu
vào. Các cấp phối bê tông nền và tính chất của
chúng được trình bày tại bảng 3.
Bảng 3. Cấp phối bê tông nền sử dụng trong nghiên cứu
Ký hiệu
Loại cốt liệu Lượng dùng vật liệu
KLTT,
kg/m³
Độ
sụt,
mm
Cốt liệu
nhỏ
Cốt liệu
lớn
X,
kg/m³
N,
lit/m³
Cát,
kg/m³
Đá,
kg/m³
SF,
kg/m³
SP,
% X
MC, %
X
N1 C1 - 793 309 970 - 79,3 1,00 0,15 2.160 220
N2 C2 - 768 299 938 - 76,8 1,00 0,15 2.090 210
N3 C2 - 754 293 921 - 75,4 0,74 0,15 2.050 180
N4 C3 D1 595 231 727 660 59,5 1,00 0,15 2.280 205
N5 C3 D1 587 228 718 652 58,7 0,76 0,15 2.250 180
N6 C3 D1 574 223 702 638 57,4 0,61 0,15 2.200 140
N7 C3 D1 587 228 717 652 58,7 1,00 0,20 2.250 180
N8 C3 D1 587 228 717 652 58,7 1,00 0,10 2.250 205
N9 C3 D2 597 232 730 663 59,7 1,00 0,15 2.290 205
N10 C3 D2 593 231 724 658 59,3 0,61 0,15 2.270 180
N11 C3 D2 587 228 718 652 58,8 0,55 0,15 2.250 140
N12 C1 - 779 303 953 - 77,9 0,74 0,15 2.120 180
N13 C1 - 776 302 949 - 77,6 0,60 0,15 2.110 140
Ghi chú: N đã bao gồm lượng nước có trong phụ gia siêu dẻo
Trước tiên, để nghiên cứu ảnh hưởng của khối
lượng thể tích đến tính công tác của hỗn hợp BPK,
đã sử dụng các cấp phối bê tông nền N1, N2, N4,
N9. Các cấp phối nền này sử dụng 4 loại cốt liệu có
kích thước hạt khác nhau, có cùng lượng dùng phụ
gia MC là 0,15% và có cùng tính công tác. BPK
được chế tạo bằng cách thêm EPS để hỗn hợp
BPK đạt giá trị khối lượng thể tích trong khoảng
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
26 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
định trước là 2.000 kg/m³, 1.800 kg/m³, 1.600 kg/m³,
1.400 kg/m³. Các kết quả xác định tính công tác của
hỗn hợp BPK được trình bày trên hình 1 trong mối
tương quan với khối lượng thể tích của hỗn hợp
BPK.
Hình 1. Ảnh hưởng của khối lượng thể tích đến tính
công tác của hỗn hợp BPK
Kết quả thí nghiệm (hình 1) cho thấy tính công
tác và khối lượng thể tích của bê tông polystyrene
phụ thuộc chủ yếu vào lượng dùng hạt EPS. Khi
tăng lượng dùng hạt EPS, khối lượng thể tích bê
tông polystyrene giảm, đồng thời, tính công tác
giảm. Mức giảm tính công tác của hỗn hợp BPK
tăng khi tăng kích thước hạt lớn nhất của bê tông
nền. Với cùng mức khối lượng thể tích là 1.400
kg/m³, tính công tác của hỗn hợp bê tông có cấp
phối nền N1 vẫn ở mức 120 mm trong khi các hỗn
hợp bê tông sử dụng cấp phối nền N4 và N9 chỉ đạt
từ 20 đến 60 mm. Như vậy, với cùng khối lượng thể
tích của BPK và cùng tính công tác của hỗn hợp bê
tông nền thì tăng kích thước hạt lớn nhất của bê
tông nền, làm giảm tính công tác của hỗn hợp BPK.
Để làm rõ ảnh hưởng của tính công tác và kích
thước hạt lớn nhất của bê tông nền đến tính công
tác của hỗn hợp BPK, thí nghiệm đã được thực hiện
với các hỗn hợp BPK có khối lượng thể tích 1.600
kg/m³ dựa trên cấp phối bê tông nền N1, N2, N4, N9
tại bảng 3. Tính công tác của bê tông nền được
điều chỉnh thông qua việc thay đổi tỷ lệ sử dụng phụ
gia siêu dẻo trên xi măng.
Kết quả thể hiện trên hình 2 cho thấy, với cấp
phối nền sử dụng cốt liệu lớn D1 và D2, tính công
tác của hỗn hợp bê tông giảm nhanh chóng khi khối
lượng thể tích bê tông giảm. Cụ thể, với cấp phối
nền sử dụng cốt liệu D2 có tính công tác là 180 mm
thì tính công tác của hỗn hợp BPK là 10 mm tại
D1600, trong khi đó, giá trị tương ứng khi cấp phối
nền sử dụng cốt liệu D1 là 50 mm, cốt liệu C1 là
140 mm. Như vậy, kích thước hạt trong bê tông nền
càng nhỏ thì mức độ giảm tính công tác càng ít.
Hình 2. Ảnh hưởng của tính công tác bê tông nền đến
tính công tác của BPK
Đó là do, khi bổ sung thêm hạt EPS và hỗn hợp
bê tông nền đã làm giảm lượng hồ trong hỗn hợp
BPK. Hồ chất kết dính bao bọc xung quanh hạt cốt
liệu, lấp đầy các lỗ rỗng giữa các hạt cốt liệu, đồng
thời có vai trò làm lớp đệm tạo độ dẻo cho hỗn hợp
bê tông. Khi sử dụng cốt liệu EPS để làm giảm khối
lượng thể tích của bê tông thì thể tích hồ xi măng
trong BPK nhỏ hơn trong bê tông nền. Càng giảm
khối lượng thể tích BPK, thể tích hồ xi măng càng
giảm, làm giảm tính công tác của hỗn hợp.
Để xem xét ảnh hưởng của tính công tác bê
tông nền đến tính công tác của BPK, nghiên cứu đã
dùng các cấp phối nền N9, N10, N11 (bảng 3) sử
dụng cốt liệu C3 và D2 kích thước hạt lớn nhất là
20mm, cấp phối nền N1, N12, N13 (bảng 3) sử
dụng cốt liệu C1 có kích thước hạt lớn nhất là 0,63
mm. Hỗn hợp BPK, sau khi bổ sung lượng hạt EPS
định trước, được xác định tính công tác và khối
lượng thể tích. Dựa trên các số liệu này, nghiên cứu
đã xác định phương trình hồi quy thể hiện tương
quan giữa tính công tác của hỗn hợp BPK và tính
công tác của bê tông nền. Đồ thị hình 3, hình 4
được xây dựng với khối lượng thể tích BPK ở các
mức 2.000 kg/m³ (D2000), 1.800 kg/m³ (D1800),
1.600 kg/m³ (D1600), 1.400 kg/m³ (D1400).
.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 27
Hình 3. Ảnh hưởng của tính công tác hỗn hợp bê tông
nền sử dụng cốt liệu D2
Hình 4. Ảnh hưởng của tính công tác hỗn hợp bê tông nền
sử dụng cốt liệu C1
Hình 3, hình 4 cho thấy quan hệ tuyến tính giữa
tính công tác của hỗn hợp BPK và tính công tác của
hỗn hợp bê tông nền. Khi tính công tác bê tông nền
giảm 40 mm thì tính công tác của hỗn hợp BPK
cũng giảm khoảng 40 mm. Điều này thể hiện tính
công tác của hỗn hợp BPK không chỉ phụ thuộc
lượng dùng cốt liệu nhẹ mà còn phụ thuộc tính chất
ban đầu của bê tông nền. Các cấp phối đã sử dụng
trong phần nghiên cứu này có lượng dùng nước,
bao gồm lượng nước có trong phụ gia siêu dẻo,
không đổi. Do đó, với cùng mức khối lượng thể tích
thì có thể coi thành phần cốt liệu của BPK là như
nhau, lớp đệm tạo bởi hồ chất kết dính như nhau.
Tính công tác khác nhau giữa các cấp phối BPK có
cùng khối lượng thể tích hoàn toàn chịu ảnh hưởng
bởi độ linh động của hồ chất kết dính trong pha nền.
Kết quả cũng cho thấy sự khác biệt lớn về mức
độ suy giảm tính công tác của hỗn hợp bê tông BPK
khi sử dụng bê tông nền có kích thước hạt lớn nhất
khác nhau. Với hỗn hợp bê tông sử dụng cốt liệu
C1 có kích thước hạt lớn nhất là 0,63 mm, tính công
tác của hỗn hợp BPK giảm khoảng 20 đến 30 mm
khi khối lượng thể tích BPK giảm 200 kg/m³. Trong
khi đó, hỗn hợp bê tông sử dụng cốt liệu D2 có xu
hướng giảm tính công tác nhanh hơn, tính công tác
của hỗn hợp BPK giảm khoảng 40 mm khi khối
lượng thể tích giảm 200 kg/m³ (hình 1). Như vậy,
với cùng tính công tác của hỗn hợp bê tông nền, với
cùng khối lượng thể tích của BPK, khi tăng kích
thước hạt cốt liệu trong bê tông nền thì tính công
tác của BPK giảm và mức độ giảm tính công tác
tăng.
3.2 Độ phân tầng của BPK
Trong thực tế, hỗn hợp bê tông là một hệ không
đồng nhất bao gồm các thành phần có khối lượng
thể tích khác nhau. Hiện tượng phân tầng khiến cho
cốt liệu có khối lượng thể tích lớn có xu hướng dịch
chuyển xuống dưới và hồ chất kết dính có xu
hướng dịch chuyển lên trên. Vì vậy, hiện tượng
phân tầng trong bê tông cần được hạn chế để đảm
bảo đồng nhất các tính chất của hỗn hợp bê tông và
bê tông.
Hiện nay, tiêu chuẩn quốc gia chưa có quy định
về độ phân tầng đối với bê tông nhẹ kết cấu. Đối với
bê tông trộn sẵn, TCVN 9340:2012 quy định mức độ
phân tầng của hỗn hợp bê tông được đánh giá
thông qua độ tách nước và độ tách vữa. Theo đó,
độ tách vữa không vượt quá 3% với hỗn hợp bê
tông có tính công tác ở cấp D1, D2; không vượt quá
4% với hỗn hợp bê tông có tính công tác ở cấp D3,
D4. Tiêu chuẩn GOST Р 51263-2012 quy định đối
với hỗn hợp BPK cách nhiệt thì độ phân tầng không
quá 25 %.
Nghiên cứu độ phân tầng của hỗn hợp BPK có
khối lượng thể tích ở các mức 1.400 kg/m³, 1.600
kg/m³, 2.000 kg/m³ được thực hiện trên các cấp
phối nền N9 sử dụng cốt liệu lớn D2 trình bày tại
bảng 3, không sử dụng phụ gia điều chỉnh độ nhớt.
Kết quả cho thấy, với tính công tác của cấp phối
nền là 220 mm, độ phân tầng của hỗn hợp BPK
khối lượng thể tích D2000 là 17%, tại D1600 là 27
%, tại D1400 là 34 %. Như vậy, với cấp phối nền
không sử dụng phụ gia điều chỉnh độ nhớt thì độ
phân tầng khá cao và có xu hướng tăng khi khối
lượng thể tích BPK giảm. Độ phân tầng của hỗn
hợp BPK vượt mức 25% khi khối lượng thể tích hỗn
hợp BPK nhỏ hơn 1.600 kg/m³. Phân tầng làm hỗn
hợp không đồng nhất nên cần có các biện pháp để
đảm bảo giảm độ phân tầng của hỗn hợp BPK.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
28 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018
Hình 5. Ảnh hưởng của lượng dùng MC đến độ phân
tầng của hỗn hợp BPK
Để xem xét ảnh hưởng của việc sử dụng phụ
gia điều chỉnh độ nhớt đến độ phân tầng của hỗn
hợp BPK, nghiên cứu đã sử dụng cấp phối nền N9
(bảng 3) với lượng dùng phụ gia MC ở các mức
0,05%, 0,1%, 0,15%, 0,2%. Hình 5 cho thấy việc sử
dụng phụ gia MC có ảnh hưởng lớn đến độ phân
tầng của hỗn hợp BPK và ảnh hưởng này càng thể
hiện rõ với các hỗn hợp có khối lượng thể tích thấp.
Khi tăng lượng dùng phụ gia MC thì chênh lệch độ
phân tầng của BPK ở các khối lượng thể tích khác
nhau giảm xuống. Với lượng dùng phụ gia MC là
0,15%, khối lượng thể tích của BPK đảm bảo không
vượt quá 25%.
Nguyên nhân là do phụ gia MC là một hợp chất
hữu cơ có khả năng làm giảm lượng nước tự do
trong hỗn hợp khiến độ nhớt của hồ chất kết dính
tăng. Khi tăng lượng sử dụng MC thì độ nhớt của
hồ chất kết dính tăng, hạn chế sự dịch chuyển của
các thành phần trong hỗn hợp BPK.
Hình 6. Ảnh hưởng của tính công tác hỗn hợp bê tông
nền đến độ phân tầng của hỗn hợp BPK
Để nghiên cứu ảnh hưởng của tính công tác bê
tông nền đến tính công tác của hỗn hợp BPK,
nghiên cứu đã sử dụng các cấp phối nền N1 và N9
(bảng 3). Lượng dùng phụ gia MC cố định là 0,15%,
lượng dùng phụ gia siêu dẻo được điều chỉnh sao
cho cấp phối nền đạt được tính công tác 80 mm,
140 mm, 180 mm, 220 mm. Kết quả thể hiện trên
hình 6 cho thấy độ phân tầng của hỗn hợp BPK
tăng khi tăng tính công tác của hỗn hợp bê tông
nền.
Điều này là do phụ gia siêu dẻo SP có gốc
polycacboxylate, có kích thước phân tử lớn, khi hoà
tan trong nước đã thúc đẩy sự phân tán của xi
măng trong hồ chất kết dính, giải phóng lượng nước
tự do, làm tăng độ linh động của hồ. Khi tăng lượng
sử dụng phụ gia siêu dẻo (với tổng lượng dùng
nước và phụ gia không đổi), mặc dù tỷ lệ giữa các
pha trong BPK là không đổi nhưng tính chất của hồ
chất kết dính đã thay đổi theo hướng giảm độ nhớt
của hồ.
Kết quả trên cũng cho thấy độ phân tầng của
hỗn hợp bê tông phụ thuộc kích thước cốt liệu trong
bê tông nền. Hỗn hợp bê tông nền có đường kính
cốt liệu càng nhỏ thì khả năng phân tầng của hỗn
hợp càng cao. Kết quả này cũng tương đồng với kết
quả nghiên cứu về ảnh hưởng tính công tác của
hỗn hợp bê tông nền đến tính công tác của hỗn hợp
BPK.
Như vậy, để giảm độ phân tầng của hỗn hợp
BPK thì cần giảm tính công tác của cấp phối nền
hoặc sử dụng phụ gia điều chỉnh độ nhớt.
4. Kết luận
Các kết quả nghiên cứu trình bày ở trên cho
phép rút ra một số kết luận sau:
Với bê tông polystyrene kết cấu, được chế tạo
bằng cách bổ sung lượng hạt polystyrene vào bê
tông nền, khối lượng thể tích của bê tông
polystyrene có ảnh hưởng lớn đến tính công tác và
độ phân tầng. Theo đó, tính công tác giảm và độ
phân tầng tăng khi giảm khối lượng thể tích bê tông
polystyrene. Tính công tác của hỗn hợp bê tông nền
giảm 40 mm thì khối lượng thể tích của hỗn hợp bê
tông polystyrene tương ứng cũng giảm khoảng 40
mm.
VẬT LIỆU XÂY DỰNG - MÔI TRƯỜNG
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 1,2/2018 29
Mức thay đổi tính công tác của hỗn hợp bê tông
polystyrene phụ thuộc kích thước hạt lớn nhất trong
bê tông nền. Theo đó, kích thước hạt lớn nhất của
bê tông nền càng nhỏ thì mức giảm tính công tác
càng thấp khi giảm khối lượng thể tích bê tông
polystyrene.
Ở cùng khối lượng thể tích, độ phân tầng tăng
khi tính công tác của hỗn hợp bê tông nền tăng.
Việc sử dụng phụ gia điều chỉnh độ nhớt là cần thiết
nhằm giảm độ phân tầng của hỗn hợp bê tông
polystyrene có khối lượng thể tích thấp. Các kết quả
nghiên cứu cho thấy mức sử dụng hợp lý của phụ
gia điều chỉnh độ nhớt là 0,15% so với lượng dùng
xi măng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Đoàn, Lê Văn Quang, “Nghiên cứu các
giải pháp vật liệu, chế tạo và thi công tường panel
thay thế xây gạch trong công trình”, Báo cáo tổng kết
đề tài NCKH Mã số RD 115 – 13, Viện Vật liệu Xây
dựng, Hà Nội.
2. Hoàng Minh Đức (2017), Nghiên cứu chế tạo bê tông
nhẹ cách nhiệt kết cấu sử dụng hạt polystyrol phồng
nở, Tạp chí KHCN Xây dựng số 4.
3. K.H. Khayat (1998), Viscosity-enhancing admixtures
for cement-based materials - An overview, Cement
and Concrete Composites, 20, 171 – 188.
4. Ganesh Babu K, Saradhi Babu D, Behaviour of
lightweight expanded polystyrene concrete containing
silica fume. Cement and Concrete Research; Volume
33, Issue 5,, Pages 755-762.
5. Chen B, Liu J, Mechanical properties of polymer-
modified concretes containing expanded polystyrene
beads, Construction and Building Materials; Volume
21, Issue 1, Pages 7-11.
Ngày nhận bài:04/5/2018.
Ngày nhận bài sửa lần cuối:22/6/2018.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_anh_huong_cua_mot_so_yeu_to_den_tinh_cong_tac_va.pdf