KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Màng phủ PassLite có tác dụng rất tốt trong
việc ngăn các loại sâu gây hại trên cải canh như sâu
xanh, sâu tơ đặc biệt với cả bọ nhảy. Ở các công thức
sử dụng màng phủ rau sinh trưởng phát triển bình
thường cho năng suất cao (Năng suất thương phẩm
đạt (16,2 - 16,7 tấn/ha) phủ trực tiếp và 17,7 - 18,7
tấn/ha phủ dạng vòm) trong khi đối chứng không
phủ sâu phá hại nghiêm trọng hầu như rau không
được thu hoạch.
- Sử dụng màng phủ giúp hạn chế mức độ thiệt
hại do mưa nhiều gây nên giúp cây sinh trưởng phát
triển tốt, hạn chế hiện tượng dập nát và thối gốc do
mưa. Năng suất thực thu và năng suất thương phẩm
ở công thức sử dụng màng phủ cao hơn hẳn so với
đối chứng (14,5 - 16,7 tấn/ha) trong khi đối chứng
chỉ đạt 9,3 tấn/ha.
- Sử dụng màng phủ rút ngắn thời gian sinh
trưởng với các loại rau ăn lá ngắn ngày (cải canh, xà
lách) khoảng 5 ngày so với bình thường giúp tăng
hiệu quả kinh tế và thời gian quay vòng đất.
- Sử dụng màng phủ, phân bón và thuốc BVTV
chỉ bón 1 lần trước khi trồng nên sản phẩm có thời
gian cách ly cao nhất, hoàn toàn đảm bảo không có
tồn dư về dư lượng thuốc BVTV và NO3– do bón
phân và phun thuốc BVTV trong canh tác rau.
- Sử dụng màng phủ giúp canh tác đơn giản, tiết
kiệm nhiều công lao động tăng hiệu quả kinh tế của
sản xuất rau.
4.2. Đề nghị
Áp dụng hình thức phủ trực tiếp và phun thuốc
1 lần (50% thuốc BVTV trước khi gieo trồng được
khuyến cáo sử dụng trong sản xuất các loại rau ăn lá
ngắn ngày như xà lách, cải canh.
Tiêp tục nghiên cứu trên một số rau ăn lá khác và
hoàn thiện quy trình để áp dụng trong sản xuất
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của vải không dệt (passlite) đến năng suất, chất lượng rau xà lách và cải canh tại Gia Lâm - Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VẢI KHÔNG DỆT (PASSLITE) ĐẾN NĂNG SUẤT,
CHẤT LƯỢNG RAU XÀ LÁCH VÀ CẢI CANH TẠI GIA LÂM - HÀ NỘI
Dương Kim Thoa1, Nguyễn Xuân Điệp1, Ryo Kobayakawa2
TÓM TẮT
Nghiên cứu ảnh hưởng của vải không dệt (PassLite) đến năng suất và chất lượng của rau xà lách, cải canh được
tiến hành tại Viện Nghiên cứu Rau Quả từ năm 2018 đến 2019. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng màng phủ có tác
dụng rất tốt trong việc ngăn các loại sâu gây hại trên cải canh như sâu xanh, sâu tơ đặc biệt với cả bọ nhảy. Năng
suất thương phẩm ở công thức sử dụng màng phủ rất cao 16 - 18 tấn/ha, trong khi đối chứng không phủ sâu phá
hại nghiêm trọng hầu như không cho thu hoạch. Sử dụng màng phủ giúp hạn chế mức độ thiệt hại do mưa nhiều
gây nên trong mùa mưa, năng suất thương phẩm ở công thức sử dụng màng phủ cao hơn hẳn so với đối chứng
(14,5 - 16,7 tấn/ha), trong khi đối chứng chỉ đạt 9,3 tấn/ha. Sử dụng màng phủ rút ngắn thời gian sinh trưởng với các
loại rau ăn lá ngắn ngày (cải canh, xà lách) khoảng 5 ngày so với bình thường, giúp tăng hiệu quả kinh tế. Sử dụng
màng phủ, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) chỉ bón 1 lần trước khi trồng nên sản phẩm đạt thời gian cách
ly cao nhất, hoàn toàn đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Sử dụng màng phủ giúp canh tác đơn giản,
tiết kiệm nhiều công lao động, tăng hiệu quả kinh tế và là hướng đi mới của sản xuất rau chất lượng cao tại Việt Nam.
Từ khóa: Vải không dệt, PassLite, rau xà lách, rau cải canh
1 Viện Nghiên cứu Rau Quả; 2 UNITIKA Nhật Bản
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhật Bản được xem là một trong những nước
có yêu cầu về chất lượng nông sản nói riêng và chất
lượng các loại sản phẩm khác nói chung cao nhất thế
giới, đây cũng chính là lý do thúc đẩy người Nhật
luôn tìm tòi, nghiên cứu, phát minh ra những công
nghệ giúp nâng cao chất lượng nông sản.
“PassLite” được làm từ vải không dệt Spunbond
và sợi tổng hợp Polyester, đã và đang được dùng phổ
biến trong sản xuất rau tại Nhật Bản. PassLite được
sử dụng với mục đích giữ ấm cho cây ở mùa đông
đặc biệt nó có tác dụng chống sự xâm nhập của các
loại côn trùng, sâu hại, tăng năng suất, chất lượng
cây trồng. Pass Lite có tính thoáng khí và giữ ẩm tốt,
rất nhẹ, sử dụng đơn giản. Đây là một vật liệu mang
tính đột phá giúp tiết kiệm rất nhiều công lao động
trong quá trình chăm sóc điều quan trọng là không
sử dụng phân bón, thuốc BVTV sau khi trồng đảm
bảo thời gian cách ly tối đa, tạo ra sản phẩm an toàn
cho người tiêu dùng đồng thời bảo vệ môi trường.
PassLite đã được sử dụng rất nhiều trong sản xuất
các loại rau ăn lá tại Nhật Bản. Hiện nay loại vật
liệu này đang được công ty UNITIKA của Nhật tiến
hành phân phối tại Việt Nam.
Với mục tiêu tìm những giải pháp công nghệ phù
hợp phát triển sản xuất rau an toàn tại Việt Nam,
nghiên cứu ảnh hưởng của vải không dệt (Pass Lite)
đến năng suất, chất lượng rau ăn lá ngắn ngày (xà
lách và cải canh) được tiến hành và bước đầu cho
kết quả tốt.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống xà lách xoăn, giống cải mơ: Do công ty
Lucky Seed phân phối.
- Vải không dệt (PassLite Item No. S0153 WGE).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
- Thí nghiệm được bố trí theo khối ngẫu nhiên
hoàn toàn 3 lần nhắc lại, diện tích ô thí nghiệm
15 m2. Công thức thí nghiệm:
+ Công thức 1 (Đối chứng): Canh tác thông
thường, không che phủ, sử dụng 100% thuốc BVTV
tương đương phun thuốc 2 lần trong 1 vụ: 7 ngày và
15 ngày sau gieo/trồng.
+ Công thức 2: Phủ trực tiếp, không sử dụng
thuốc BVTV.
+ Công thức 3: Phủ trực tiếp, sử dụng 50% thuốc
BVTV (Phun thuốc 1 lần trước khi gieo/trồng).
+ Công thức 4: Phủ dạng vòm che thấp, không sử
dụng thuốc BVTV.
+ Công thức 5: Phủ dạng vòm che thấp, sử dụng
50% thuốc BVTV (Phun thuốc 1 lần trước khi trồng).
- Lượng phân bón: Theo quy trình của Viện
Nghiên cứu Rau Quả (Trần Khắc Thi và ctv., 2008).
Phân chuồng ủ mục: 10 tấn; NPK: 16 - 16 - 8:
300 kg; vôi bột 500 kg. Bón toàn bộ khi làm đất trước
khi trồng.
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
- Mật độ, khoảng cách trồng: Cây cải Mơ: gieo
trực tiếp theo hàng, khoảng cách 5 - 10 cm ˟ 20 cm;
Cây xà lách: khoảng cách trồng: hàng cách hàng
30 cm, cây cách cây 20 cm.
- Các loại thuốc BVTV sử dụng: Thuốc trừ sâu:
DuPontTM Prevathon® 5SC pha 30 ml thuốc cho
16 lít nước. Thuốc trừ bệnh: Rampart pha 1 gam
thuốc với 1 lít nước.
+ Phun lần 1: Phun trước khi trồng sau khi làm
đất bón phân.
+ Phun lần 2: Sau khi trồng 10 ngày (lượng thuốc
và nồng độ như lần 1).
Ghi chú: Các công thức sử dụng 50% thuốc chỉ
phun lần 1.
2.2.2. Các chỉ tiêu theo dõi
- Tình hình sinh trưởng phát triển của cây: Chiều
cao cây, số lá/cây, chiều dài lá, chiều rộng lá.
- Mức độ nhiễm sâu hại trên rau (sâu xanh, sâu
tơ, bọ nhảy).
- Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất:
KLTB cây (g/cây), năng suất thực thu (tấn/ha), năng
suất thương phẩm (tấn/ha).
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý trên chương trình Excel 2007,
IRRISTAT 5.0.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu:
+ Cây xà lách: Vụ 1: trồng 9/12/2017, thu hoạch
22/1/2018; Vụ 2: trồng 26/3/2018, thu hoạch
26/4/2018.
+ Cây cải canh: Vụ 1: gieo 27/3/2018, thu
hoạch 26/4/2018; Vụ 2: gieo 25/7/2018, thu hoạch
20/8/2018; Vụ 3: gieo 6/9/2018, thu hoạch 1/10/2018.
- Địa điểm nghiên cứu: Viện Nghiên cứu Rau Quả
- Trâu Quỳ, Gia Lâm, Hà Nội.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Nghiên cứu ảnh hưởng của vải không dệt
(PassLite) đến năng suất và chất lượng rau xà lách
3.1.1. Ảnh hưởng của vải không dệt (PassLite) đến
sinh trưởng của xà lách
Trong điều kiện miền Bắc Việt Nam, vụ Thu
Đông là thời vụ rất thuận lợi cho các loại rau phát
triển, trong đó có cây xà lách. Kết quả theo dõi cho
thấy tất cả các công thức nghiên cứu xà lách đều sinh
trưởng phát triển tốt; có sự sai khác về chỉ tiêu chiều
cao cây và chiều dài lá giữa các công thức sử dùng
màng phủ PassLite, so với không phủ. Do được giữ
ấm nên cây ở các công thức che phủ sinh trưởng
phát triển nhanh hơn và cao hơn, thời gian được thu
hoạch sớm hơn khoảng 5 - 7 ngày. Tuy nhiên, không
có sự sai khác các chỉ tiêu số lá, và chiều rộng lá ở
các công thức.
Trong vụ Xuân 2018 có sự sai khác có ý nghĩa về
số lá, chiều cao cây, cây sinh trưởng phát triển nhanh
hơn cả về số lá và chiều cao ở các công thức sử dụng
màng phủ Pass Lite do vậy thời gian thu hoạch ở các
công thức này sớm hơn so với không dùng khoảng
5 ngày.
Tất cả các công thức đều được thu hoạch cùng
ngày để mang phân tích chất lượng, tuy nhiên qua
theo dõi nhận thấy ở những công thức che phủ có
thể thu hoach sớm hơn đối chứng khoảng 5 ngày.
Bảng 1. Đặc điểm sinh trưởng phát triển của xà lách ở các thời vụ nghiên cứu
Công thức
Thu Đông 2017 Xuân Hè 2018
Cao cây
(cm) Số lá
Rộng lá
(cm)
Dài lá
(cm)
TGST
(ngày)
Cao cây
(cm) Số lá
Rộng lá
(cm)
Dài lá
(cm)
TGST
(ngày)
1. Đối chứng, không
phủ, phun 100% thuốc 23,62 13,73 16,97 22,56 43 24,39 19,07 16,52 23,15 30
2. Phủ trực tiếp,
không phun thuốc 26,59 15,47 15,79 22,93 43 28,08 20,40 15,42 23,42 30
3. Phủ trực tiếp,
phun thuốc 50% 26,23 16,07 15,39 25,30 43 28,22 20,53 15,54 25,63 30
4. Phủ dạng vòm,
không phun thuốc 26,92 13,67 16,21 23,35 43 26,40 20,53 16,38 24,15 30
5. Phủ dạng vòm,
phun 50% 27,75 16,27 17,25 24,41 43 26,93 20,80 16,41 25,57 30
CV (%) 6,5 5,8 7,3 7,6 6,3 5,5
LSD0,05 2,26 2,98 1,64 1,98 0,98 0,65
51
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
3.1.2. Ảnh hưởng của vải không dệt (Pass Lite) đến
năng suất của xà lách
Nghiên cứu về năng suất của xà lách cho thấy,
do điều kiện thời tiết thuận lợi vụ Thu Đông 2017
xà lách sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất
cao ở tất cả các công thức nghiên cứu. Tuy nhiên,
do được bảo vệ bằng màng phủ Pass Lite, cây sinh
trưởng phát triển nhanh hơn, đồng thời sô cây được
thu hoạch cao hơn nên năng suất xà lách ở các công
thức che phủ đạt cao hơn so với đối chứng. Cao
nhất ở công thức sử dụng 50% thuốc BVTV ở cả 2
loại phủ dạng vòm và phủ trực tiếp (30,45 tấn/ha và
29,15 tấn/ha), năng suất thương phẩm đạt 26,58 và
25,08 tấn/ha, trong khi đối chứng năng suất thực
thu đạt 25,43 tấn/ha và năng suất thương phẩm
22,25 tấn/ha.
Bảng 2. Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của xà lách trong vụ Xuân Hè 2018
Công thức
Năm 2017 Năm 2018
KLTB cây
(g)
NSTT
(tấn/ha)
NSTP
(tấn/ha)
KLTB cây
(g)
NSTT
(tấn/ha)
NSTP
(tấn/ha)
Đối chứng, không phủ,
phun 100% thuốc BVTV 95,80 25,43 22,25 140,67 20,81 16,78
Phủ trực tiếp, không
phun thuốc 107,80 26,25 22,58 146,67 25,17 17,67
Phủ trực tiếp, phun 50%
thuốc BVTV 107,15 29,15 26,08 149,33 25,31 18,85
Phủ dạng vòm, không
phun thuốc BVTV 102,67 28,35 25,50 160,67 25,07 18,33
Phủ dạng vòm, phun 50%
thuốc BVTV 106,80 30,45 26,58 158,67 25,11 19,03
CV (%) 11,05 11,53 12,36 10,32 9,25 14,21
LSD0,05 24,5 0,98 0,78 9,00 1,28 1,71
Trong vụ Xuân 2018, do điều kiện nhiệt độ cao,
cây sinh trưởng phát triển nhanh, nếu chậm thu
hoạch cây phát triển chiều cao mạnh, phân lóng
nhiều ảnh hưởng đến năng suất thương phẩm. Do
cây phân lóng nhiều dẫn đến khối lượng trung bình
(KLTB) cây cao, tuy nhiên trong giai đoạn này ẩm độ
cao, mưa nhiều ảnh hưởng đến năng suất thực thu
(NSTT) đặc biệt năng suất thương phẩm (NSTP).
Có sự sai khác có ý nghĩa về khối lượng trung bình
cây và năng suất thực thu giữa các công thức che phủ
và đối chứng không che. Năng suất thương phẩm đạt
cao nhất tại công thức phủ trực tiếp sử dụng 50%
thuốc BVTV (18,85 tấn/ha) và phủ dạng vòm phun
50% thuốc BVTV (19,03 tấn/ha).
3.1.3.Kết quả phân tích chất lượng xà lách ở các
công thức nghiên cứu
Xà lách là loại rau ăn lá ngắn ngày, sử dụng dưới
dạng ăn trực tiếp (ăn sống) nên yêu cầu về kỹ thuật
canh tác để tạo sản phẩm chất lượng đảm bảo an
toàn thực phẩm rất nghiêm ngặt (Viện Nghiên cứu
Rau Quả, 2015).
Bảng 3. Kết quả phân tích dư lượng thuốc BVTV và NO3- vụ Xuân 2018
Công thức Chlorantraniliprole (mg/kg)
Metalaxyl
(mg/kg) Dư lượng NO3
-
Không phủ, phun 100% thuốc BVTV ND 0,044 1680,3
Phủ trực tiếp không phun 952,4
Phủ trực tiếp phun 50% thuốc BVTV ND 0,033 954,5
Phủ dạng vòm, không phun thuốc BVTV 950,6
Phủ dạng vòm sử dụng 50% thuốc BVTV ND 0,043 961,3
Phương pháp phân tích AOAC2007.01 AOAC2007.01
Ghi chú: Kí hiệu “ND”: không phát hiện, nhỏ hơn LOD (limit of detection): 0,01 mg/kg.
52
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Do chỉ phun thuốc 1 lần trước khi trồng ở các
công thức dùng màng phủ và phun lần 2 sau trồng
10 ngày ở công thức đối chứng, kết quả phân tích
cho thấy không phát hiện lượng thuốc BVTV còn dư
với chỉ tiêu thuốc trừ sâu và dư lượng của Metalaxyl
của các mẫu là thấp, dưới ngưỡng cho phép. Nitrat
là chỉ tiêu an toàn quan trọng với rau ăn lá (Trần
Khắc Thi, 1999). Kết quả phân tích dư lượng NO3-
cho thấy, với các công thức sử dụng màng phủ do chỉ
bón phân 1 lần trước khi gieo nên dư lượng NO3- ở
các công thức này đều thấp < 1000 ppm, đảm bảo
tiêu chuẩn dư lượng Nitrat trên rau xà lách trong khi
công thức đối chứng bón phân 2 lần theo quy trình
dư lượng Nitrat cao hơn hẳn khoảng 2680 ppm, kết
quả phân tích sản phẩm do nông dân sản xuất dư
lượng NO3- cao > 3000 ppm.
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của vải không dệt
(PassLite) đến năng suất và chất lượng rau cải canh
3.2.1. Ảnh hưởng của vải không dệt (PassLite) đến
sinh trưởng của rau cải canh
Cải canh là loại rau ăn lá ngắn ngày, thời gian sinh
trưởng chỉ khoảng 1 tháng có thể thu hoạch (Viện
Nghiên cứu Rau Quả, 2017). Tiến hành nghiên cứu
đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng vải không dệt
(PassLite) đến sinh trưởng, năng suất chất lượng cải
canh ở 3 thời vụ trồng: Thời vụ 1: gieo tháng 3, đây
là thời điểm sâu hại phát triển nhiều nhất trong năm;
Thời vụ 2: gieo tháng 7 và vụ 3 gieo tháng 9, đây là
thời điểm mùa mưa ở các tỉnh miền Bắc sản xuất các
loại rau gặp rất nhiều khó khăn.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, không có sự sai
khác về số lá ở các công thức nghiên cứu tuy nhiên
có sự sai khác rõ rệt về chiều cao cây giữa các công
thức dùng màng phủ với đối chứng và giữa phủ dạng
vòm với phủ trực tiếp. Điều đó chứng tỏ khi sử dụng
màng phủ làm tăng nhiệt độ giúp cây sinh trưởng
nhanh hơn.
Với điều kiện khí hậu miền Bắc Việt Nam, từ
tháng 2 đến tháng 5 là giai đoạn sâu hại phát triển
mạnh nhất với mật độ rất cao. Mặc dù là loại rau
ngắn ngày nhưng cải canh là đối tượng của rất nhiều
các loại sâu hại như sâu xanh, sâu tơ và đặc biệt là
bọ nhảy là nguyên nhân làm giảm năng suất đặc
biệt chất lượng rau do phải sử dụng quá nhiều thuốc
BVTV trong thời gian rất ngắn.
Kết quả theo dõi với công thức không phủ mật độ
sâu hại rất cao cụ thể sâu xanh khoảng 50 con/m2,
bọ nhảy hại rỗ toàn bộ lá cải làm cho công thức này
không có khả năng thu hoạch. Trong khi đó, với tất
cả các công thức dùng màng phủ đều không bị sâu
hại, rau sinh trưởng phát triển bình thường. Công
thức phủ trực tiếp bị bọ nhảy làm rỗ lá với mức độ
rất nhẹ khi cây phát triển cao chạm đến màng phủ.
Các công thức phủ dạng vòm hoàn toàn không bị
sâu và bọ nhảy gây hại.
Ở thời vụ 2 và 3 kết quả nghiên cứu cũng thể hiện
rõ sử dụng màng phủ có khả năng hạn chế sâu hại rất
tốt biểu hiện ở tất cả các công thức đều không bị sâu
hại trong khi đối chứng sâu hại phát triển mạnh tuy
mức độ nhẹ hơn vụ 1.
Bảng 4. Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cải canh thí nghiệm
Công thức
Vụ 1: TGST 30 ngày Vụ 2: TGST 26 ngày Vụ 3: TGST 25 ngày
Số lá
Cao
cây
(cm)
Mức độ
nhiễm
sâu hại
Số lá
Cao
cây
(cm)
Mức độ
nhiễm
sâu hại
Số lá
Cao
cây
(cm)
Mức độ
nhiễm
sâu hại
Không phủ, phun
100% thuốc (Đ/c) 7,57 14,28 Rất nặng 6,43 20,74 Nặng 6,65 18,25 Nặng
Phủ trực tiếp,
không phun thuốc 8,25 37,11
Không
đáng kể 6,47 23,82 Không 6,25 20,64 Không
Phủ trực tiếp,
phun thuốc 50% 8,36 37,24
Không
đáng kể 6,49 23,25
Không 6,32 20,58 Không
Phủ dạng vòm,
không phun thuốc 8,75 39,00 Không 6,42 25,57 Không 6,38 24,25 Không
Phủ dạng vòm,
phun 50% 8,69 39,10 Không 6,52 25,73 Không 6,45 24,62 Không
CV (%) 5,50 7,32 6,25 7,73 6,35 6,78
LSD0,05 0,65 1,40 0,57 1,10 0,61 1,15
53
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
3.2.2. Ảnh hưởng của vải không dệt (PassLite) đến
năng suất của rau cải canh
Do có tác dụng ngăn sâu hại và bọ nhảy rất tốt
là lý do làm cho năng suất cải đạt được ở các công
thức dùng màng phủ cao hơn rất nhiều so với đối
chứng. Ở vụ 1, trong khi công thức đối chứng bị sâu
hại gần như không cho thu hoạch thì ở công thức
dùng màng phủ năng suất thực thu đạt 21,32 - 22,51
tấn/ha và năng suất thương phẩm đạt 16,2 - 16,7
tấn/ha với phủ trực tiếp ở công thức không sử dụng
thuốc và sử dụng thuốc BVTV 50%.
Sử dụng màng phủ dạng vòm cho năng suất cao
nhất với năng suất thực thu đạt 21,32 - 22,51 tấn/ha
và năng suất thương phẩm đạt 17,7-18,7 tấn/ha ở
công thức không sử dụng thuốc và sử dụng thuốc
BVTV 50%.
Trong vụ 2 và vụ 3 là thời điểm khí hậu miền Bắc
gặp mưa nhiều ảnh hưởng lớn đến sản xuất rau làm
cho rau sinh trưởng phát triển chậm, rau dễ bị dập
nát và mắc các loại sâu bệnh hại, ảnh hưởng đến
năng suất đặc biệt là thời điểm trồng vụ 2 (trồng
tháng 7, tháng 8).
Có sự sai khác rõ rệt về NSTT và NSTP giữa các
công thức dùng màng che phủ với đối chứng không
che ở cả 2 thời vụ nghiên cứu. Tuy nhiên, không thấy
sự sai khác về NSTT cũng như NSTP giữa các công
thức dùng màng phủ với nhau. Trong vụ 2, NSTT
và NSTP của công thức đối chứng thấp hơn hẳn so
với các công thức sử dụng màng che phủ (NSTT đạt
12,5 tấn/ha, NSTP đạt 9,3 tấn/ha) trong khi ở các
công thức che phủ NSTP đạt thấp nhất 14,5 tấn/ha ở
công thức phủ trực tiếp không phun và 16,5 tấn/ha ở
công thức phủ dạng vòm phun thuốc 50%. Điều này
chứng tỏ màng phủ có tác dụng hạn chế ảnh hưởng
của mưa nhiều đến sinh trưởng phát triển của rau.
Ở vụ 3, thời tiết thuận lợi hơn, rau sinh trưởng
phát triển tốt hơn, năng suất thu được cao hơn. Tuy
nhiên, công thức đối chứng năng suất đạt được thấp
nhất đồng thời không có sự sai khác rõ rệt về năng
suất giữa các công thức sử dụng màng phủ với nhau.
Bảng 5. Năng suất của cải ở các thời vụ nghiên cứu
Công thức
Vụ 1 Vụ 2 Vụ 3
KLTB
cây (g)
NSTT
(tấn/ha)
NSTP
(tấn/ha)
KLTB
cây (g)
NSTT
(tấn/ha)
NSTP
(tấn/ha)
KLTB
cây (g)
NSTT
(tấn/ha)
NSTP
(tấn/ha)
Không phủ, phun
100% thuốc (Đ/C) 5,70 0,00 0,00 10,2 12,5 9,3 14,5 15,8 13,43
Phủ trực tiếp, không
phun thuốc 15,33 19,33 16,2 13,2 15,8 14,5 14,4 18,2 15,58
Phủ trực tiếp, phun
thuốc 50% 15,33 20,13 16,7 13,5 16,3 15,8 14,2 18,5 16,65
Phủ dạng vòm,
không phun thuốc 16,67 21,32 17,7 13,8 17,6 16,7 13,5 20,7 18,63
Phủ dạng vòm, phun
50% 17,00 22,51 18,7 13,3 17,9 16,5 13,8 19,2 17,28
CV (%) 8,6 15,2 13,8 14,5 13,6 20,9 15,6
LSD0,05 1,92 2,95 1,43 2,35 2,27 2,29 2,15
3.2.3.Kết quả phân tích chất lượng xà lách ở các
công thức nghiên cứu
Kết quả bảng 6 cho thấy không phát hiện thấy
còn dự lượng thuốc BVTV với chỉ tiêu thuốc trừ
sâu và dư lượng của Metalaxyl của các mẫu rau thấp
dưới ngưỡng cho phép.
Bảng 6. Kết quả phân tích dư lượng thuốc BVTV và Nitrat trong sản phẩm rau cải canh
Công thức Chlorantraniliprole (mg/kg)
Metalaxyl
(mg/kg) NO3
-
Phủ trực tiếp, không phun thuốc 1250
Phủ trực tiếp, 50% thuốc BVTV ND 0,242 1300
Phủ dạng vòm, không phun thuốc 1100
Phủ dạng vòm, 50% thuốc BVTV ND 0,210 1150
Không phủ, 100% thuốc BVTV ND 0,243 2600
Phương pháp phân tích AOAC2007.01 AOAC2007.01
54
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(102)/2019
Với công thức đối chứng không phủ và sử dụng
100% thuốc BVTV do thời gian phun thuốc lần 2
chỉ 10 ngày sau trồng, đồng thời trong quá trình thử
nghiệm có gặp mưa nên dư lượng thuốc không cao,
tương tự như phun 50% thuốc ở cả dạng phủ trực
tiếp và phủ dạng vòm.
Kết quả phân tích dư lượng Nitrat cho thấy, công
thức đối chứng bón phân 2 lần dư lượng cao hơn
hẳn so với các công thức sử dụng màng phủ chỉ bón
phân 1 lần trước khi gieo hạt. Bên cạnh yếu tố phân
bón, việc thu hoạch rau ngay sau khi trời mưa cũng
làm cho dư lượng Nitrat trong rau cao hơn so với
điều kiện bình thường.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
- Màng phủ PassLite có tác dụng rất tốt trong
việc ngăn các loại sâu gây hại trên cải canh như sâu
xanh, sâu tơ đặc biệt với cả bọ nhảy. Ở các công thức
sử dụng màng phủ rau sinh trưởng phát triển bình
thường cho năng suất cao (Năng suất thương phẩm
đạt (16,2 - 16,7 tấn/ha) phủ trực tiếp và 17,7 - 18,7
tấn/ha phủ dạng vòm) trong khi đối chứng không
phủ sâu phá hại nghiêm trọng hầu như rau không
được thu hoạch.
- Sử dụng màng phủ giúp hạn chế mức độ thiệt
hại do mưa nhiều gây nên giúp cây sinh trưởng phát
triển tốt, hạn chế hiện tượng dập nát và thối gốc do
mưa. Năng suất thực thu và năng suất thương phẩm
ở công thức sử dụng màng phủ cao hơn hẳn so với
đối chứng (14,5 - 16,7 tấn/ha) trong khi đối chứng
chỉ đạt 9,3 tấn/ha.
- Sử dụng màng phủ rút ngắn thời gian sinh
trưởng với các loại rau ăn lá ngắn ngày (cải canh, xà
lách) khoảng 5 ngày so với bình thường giúp tăng
hiệu quả kinh tế và thời gian quay vòng đất.
- Sử dụng màng phủ, phân bón và thuốc BVTV
chỉ bón 1 lần trước khi trồng nên sản phẩm có thời
gian cách ly cao nhất, hoàn toàn đảm bảo không có
tồn dư về dư lượng thuốc BVTV và NO3– do bón
phân và phun thuốc BVTV trong canh tác rau.
- Sử dụng màng phủ giúp canh tác đơn giản, tiết
kiệm nhiều công lao động tăng hiệu quả kinh tế của
sản xuất rau.
4.2. Đề nghị
Áp dụng hình thức phủ trực tiếp và phun thuốc
1 lần (50% thuốc BVTV trước khi gieo trồng được
khuyến cáo sử dụng trong sản xuất các loại rau ăn lá
ngắn ngày như xà lách, cải canh.
Tiêp tục nghiên cứu trên một số rau ăn lá khác và
hoàn thiện quy trình để áp dụng trong sản xuất
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trần Khắc Thi, 1999. Kỹ thuật trồng rau sạch. Nhà xuất
bản Nông nghiệp.
Trần Khắc Thi, Tô Thị Thu Hà, Lê Thị Tình, 2008. Rau
ăn lá. Trồng rau an toàn năng suất chất lượng cao.
Nhà xuất bản Khoa học Tự nhiên và Công nghệ.
Viện Nghiên cứu Rau Quả, 2015. Báo cáo kết quả thử
nghiệm các giống xà lách của Hàn Quốc tại điều
kiện miền Bắc Việt Nam. Trong Báo cáo tổng kết dự
án rau Hàn Quốc.
Viện Nghiên cứu Rau Quả, 2017. Báo cáo tổng kết đề
tài “Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật xây dựng mô hình rau
chất lượng cao, quanh năm theo quy chuẩn quốc gia
tại Lào Cai”.
Effect of non-woven fabrics (PassLite) on yield, quality
of lettuce and green mustard in Gia Lam district, Hanoi
Duong Kim Thoa, Nguyen Xuan Diep, Ryo Kobayakawa
Abstract
Research on the effect of non-woven fabric (Pass Lite) on productivity and quality of lettuce and Greem mustard was
conducted at the Research Institute of Fruit and Vegetables from 2018 to the present.The research results showed that
covering by Paslite had a very good effect in preventing insect pests such as green worms, Dimondbackmod special
Striped Flea Beetle ( Phyllotetra striolata Fabricius). Use of Pass Lite treatments gave hight commercial yield of
16-18 tons/ha while the control was serious damaged by insects, pests and without harvesting. Use of passlite also
gave good result on limitation of rainydamage. The commercial yield at the formula of using mulch was much higher
than that of the control (14.5 -16.7 tons/ha) while the control is only 9.3 tons/ha. The use of PassLite showed good
effect in helping plants grow fast, shorten harvesting time by 5 days compared to the check. Fertilizers and pesticides
were only applied just 1 time before planting when used Pass Lite munching, so the product reached the highest
isolation time, ensuring food hygiene and safety quality, easy cultivation; reduced labours costs and it is a new
direction of high quality vegetable production in Vietnam.
Keywords: Non-woven fabric, PassLite, lettuce, green mustard
Ngày nhận bài: 28/4/2019
Ngày phản biện: 6/5/2019
Người phản biện: GS.TS. Trần Khắc Thi
Ngày duyệt đăng: 15/5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_anh_huong_cua_vai_khong_det_passlite_den_nang_sua.pdf