Yazdani J. (2013) [20] cho rằng MMF sau phẫu
thuật có nhược điểm là bệnh nhân sẽ phải có chế
độ ăn lỏng trong suốt thời gian cố định (4 – 6 tuần)
và không thể vệ sinh răng miệng tốt do miệng luôn
ngậm kín. Ngoài ra, khí cụ MMF có thể làm cho mô
mềm trong miệng dễ bị loét, thậm chí dẫn đến các
biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng như khi
bệnh nhân buồn nôn, nôn.
Michael E.B. (2016) [14] cho rằng tỉ lệ biến chứng
chính còn thấp (3,4%) ở các bệnh nhân được phẫu
thuật theo phương pháp Champy mà không có MMF
sau phẫu thuật. Bên cạnh đó, Khiabani K.S. (2013)
[12] cũng đề nghị tất cả các bệnh nhân sau khi được
thực hiện đường phẫu thuật trong miệng đều nên sử
dụng dung dịch Chlohexidine 0,12% súc miệng.
Tuy nhiên, Prein J. (2012) [17] lại cho rằng khi
thực hiện phẫu thuật KHX vùng góc hàm chỉ với 1
nẹp ở bờ trên XHD mà không bổ sung thêm 1 nẹp
khác ở bờ dưới XHD thì cần thiết phải MMF sau phẫu
thuật trong 1 thời gian, nhằm giúp ổn định khớp cắn
và hỗ trợ cho sự lành thương của mô mềm. Do đó,
vấn đề về việc có hay không có MMF sau phẫu thuật
vẫn còn gây tranh luận trên thế giới [14].
Đánh giá kết quả chung ở thời điểm 6 tháng sau
phẫu thuật theo các tiêu chí của Rudolf Seemann và
cs (2010) [18] cho thấy mức tốt chiếm 86,7%, mức
khá chiếm 13,3%, không có mức kém. So với kết quả
trong nghiên cứu của Nguyễn Quang Hải (2012) [1]
thì đánh giá kết quả chung ở mức tốt trong nghiên
cứu của chúng tôi có cao hơn (76,6%). Sự khác biệt
này không có ý nghĩa về mặt thống kê với p >0,05.
Theo chúng tôi, sự khác biệt này là do mẫu nghiên
cứu ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật trong nghiên
cứu của chúng tôi (15 đối tượng) nhỏ hơn so với
nghiên cứu của Nguyễn Quang Hải (2012) [1] (47
đối tượng). Theo Nguyễn Quang Hải (2012) [1] thì
kết quả chung đánh giá ở 2 thời điểm 3 tháng và 6
tháng sau phẫu thuật là không có sự khác biệt về mặt
thống kê (p > 0,05) [1]. Có 1 bệnh nhân có đánh giá
chung ở mức kém vào thời điểm 3 tháng sau phẫu
thuật chuyển sang mức khá ở thời điểm 6 tháng sau
phẫu thuật. Đánh giá giải phẫu trên phim panorama
thấy khoảng cách 2 đầu xương gãy ở bờ dưới XHD <
2 mm. Tình trạng cắn hở vùng răng cửa đã được cải
thiện tốt sau khi mài điều chỉnh. Theo Nguyễn Quang
Hải (2012) [1] thì sau khoảng thời gian ăn nhai càng
dài thì sự chạm các răng có cải thiện hơn, bệnh nhân
ăn nhai tốt hơn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu áp dụng phương pháp Champy trong điều trị gãy góc hàm xương hàm dưới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
91
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Địa chỉ liên hệ: Hoàng Minh Phương, email: minhphuongrhm1988@gmail.com
Ngày nhận bài: 21/3/2019, Ngày đồng ý đăng: 16/4/2019; Ngày xuất bản: 25/4/2019
NGHIÊN CỨU ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHAMPY
TRONG ĐIỀU TRỊ GÃY GÓC HÀM XƯƠNG HÀM DƯỚI
Hoàng Minh Phương1, Trần Tấn Tài1, Nguyễn Hồng Lợi2, Nguyễn Văn Minh1, Lê Thị Phương Dung1
(1) Khoa răng Hàm Mặt Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Trung tâm răng Hàm Mặt, Bệnh viện Trung ương Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Gãy góc xương hàm dưới thường phổ biến trong chấn thương vùng hàm mặt, phương pháp
điều trị gãy góc hàm tốt nhất vẫn còn tranh luận. Có nhiều phương pháp được sử dụng để kết hợp xương
và Champy phương pháp được chấp nhận nhiều hơn trong việc kết hợp xương. Nghiên cứu này được thiết
kế nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, X quang, đánh giá kết quả điều trị của phương pháp Champy trong phẫu
thuật gãy góc hàm. Đối tượng và phương pháp: 32 bệnh nhân với 32 đường gãy góc hàm tại Bệnh viện
trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện Trung ương Huế, từ 4/2018 – 2/2019. Đánh giá kết quả khi ra viện,
3 tháng, 6 tháng sau phẫu thuật. Kết quả: Gãy góc hàm chủ yếu ở nam giới (84,4%). Phần lớn là gãy không
thuận lợi (96,9%) và di lệch (68,7%). Triệu chứng thường gặp: đau, ấn đau chói, há miệng hạn chế, sưng, sai
khớp cắn. Phim toàn cảnh có giá trị chẩn đoán cao (96,9%). Tất cả bệnh nhân được điều trị thành công với
phương pháp Champy. Kết luận: Phương pháp Champy trong điều trị phẫu thuật gãy góc đơn giản, dễ sử
dụng, có tỉ lệ thành công cao, ít biến chứng.
Từ khóa: Gãy góc hàm xương hàm dưới, phương pháp Champy.
Abstract
APPLICATION STUDY OF CHAMPY’S TECHNIQUE IN SURGICAL
TREATMENT OF MANDIBULAR ANGLE FRACTURE
Hoang Minh Phuong1, Tran Tan Tai1, Nguyen Hong Loi2, Nguyen Van Minh1, Le Thi Phuong Dung1
(1) Odonto-Stomatology Faculty, Hue University of Medcine and Pharmacy, Hue University
(2) Odonto-Stomatology Center, Hue Center Hospital
Background: Angle mandibular fractures are among the most common traumatic injuries of the
maxillofacial region. The optimal treatment modality for angle fractures remains controversial. There are
many methods availed for internal fixations and the Champy's method is one of more acceptable method
for internal fixation of mandibular angle fracture. The present study was designed to describe the clinical
and radiographic features of patients who had suffered mandibular angle fractures and evaluate the
postoperative outcome in patients treated for the Champy’s technique. Materials and methods: 32 patients
with 32 fractures of the mandibular angle were treated by the Champy’s technique at the department of
maxillo facial surgery of Hue University of Medicine and Pharmacy and Hue Central Hospital, from April 2018
to February 2019. The patients are followed up after surgery at 3, 6 months to evaluate results. Results:
the majority of the patients were males (84.4%). The majority of angle fractures have unfavorable fractures
(96.9%) and displaced fractures (68.7%). The most common symptoms were pain, throbbing pain, mouth
limited opening, swelling, malocclusion. Panoramic radiographs plays an important role in diagnosis (96.9).
The patients were treated successfully according to Champy’s principle of osteosynthesis. Conclusions: The
Michelet – Champy’s technique for surgical treatment of mandibular angle fractures was simple, easy to use,
had high success rates and few complications.
Key words: mandibular angle fracture, Champy’s technique.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gãy góc hàm xương hàm dưới là một trong
những chấn thương phổ biến của chấn thương vùng
hàm mặt [4]. Theo nghiên cứu của Trần Văn Trường
và Trương Mạnh Dũng tại Viện Răng Hàm Mặt Hà
Nội (1988 - 1998), có 2149 trường hợp chấn thương
hàm mặt, trong đó gãy góc hàm chiếm 25,2%, chủ
yếu là do tai nạn giao thông (82,5%) [3]. Trên thế
giới cũng có nhiều nghiên cứu về gãy xương vùng
hàm mặt, cho thấy rằng gãy xương hàm dưới chiếm
tỉ lệ cao nhất (44,0%), trong đó vị trí gãy xương phổ
biến nhất là vùng góc hàm (56,0%) [8], [11].
DOI: 10.34071/jmp.2019.2.15
92
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Góc hàm là một điểm yếu của xương hàm dưới,
do đây là vùng cắt ngang mỏng hơn các vùng khác
của xương hàm dưới (theo mặt phẳng đứng ngang),
là nơi có sự chuyển hướng của các thớ xương [11],
[16], [17]. Đặc biệt, sự hiện diện của răng khôn hàm
dưới được cho là làm tăng nguy cơ gãy của vùng góc
hàm [10].
Đến nay, mặc dù có nhiều phương pháp trong việc
điều trị gãy góc hàm xương hàm dưới nhưng việc lựa
chọn ra phương pháp tốt nhất trong điều trị gãy góc
hàm vẫn còn gây nhiều tranh luận [13]. Năm 1975,
Champy và cộng sự cho thấy rằng cố định cứng chắc
tuyệt đối là không bắt buộc đối với điều trị gãy xương
hàm dưới và đã đưa ra phương pháp Champy khuyến
cáo sử dụng một nẹp vít nhỏ không nén duy nhất ở bờ
trên của xương hàm dưới cho điều trị gãy góc hàm.
Phương pháp Champy có kỹ thuật đơn giản, sử
dụng đường rạch trong miệng (thẩm mỹ), ít gây sang
chân mô mềm, chỉ cần một nẹp vít nhỏ 2.0 đặt dọc
theo đường Champy (giúp giảm chi phí phẫu thuật),
giảm thời gian phẫu thuật và với kỹ thuật này, vị trí của
nẹp là an toàn không thể gây tổn hại đến chóp chân
răng bởi vì kích thước của nẹp nhỏ và các vít chỉ bắt ở
một bản xương [6]. Ở Việt Nam, phương pháp Champy
đã được áp dụng tại một số cơ sở Răng Hàm Mặt của
bệnh viện tuyến trung ương. Đến năm 2009, phương
pháp này mới được bắt đầu áp dụng tại Huế [1].
Vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng điều
trị cho bệnh nhân gãy góc hàm xương hàm dưới tại
Huế chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu áp dụng
phương pháp Champy trong điều trị phẫu thuật gãy
góc hàm xương hàm dưới” nhằm 2 mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và X quang các bệnh
nhân gãy góc hàm xương hàm dưới.
2. Đánh giá kết quả điều trị của phương pháp
Champy trong điều trị phẫu thuật gãy góc hàm
xương hàm dưới.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trên 32 bệnh nhân
chấn thương hàm mặt có gãy góc hàm XHD (xương
hàm dưới) được khám và điều trị phẫu thuật tại Liên
chuyên khoa Tai mũi họng – Mắt – Răng hàm mặt,
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế và Khoa Phẫu
thuật Tạo hình Thẩm mỹ Hàm mặt – Trung tâm Răng
Hàm Mặt, Bệnh viện Trung ương Huế.
Thời gian nghiên cứu từ tháng 4/2018 đến tháng
2/2019.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Gãy góc hàm toàn bộ, một đường, đơn thuần.
- Gãy góc hàm toàn bộ, một đường có phối hợp
với đường gãy ở vị trí khác của XHD và đường gãy phối
hợp đó phải được kết hợp xương (KHX) vững chắc.
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Gãy góc hàm do bệnh lý, kiểu gãy vụn hoặc gãy
mất đoạn. Gãy góc hàm ở bệnh nhân chấn thương sọ
não có ảnh hưởng lớn đến điều trị.
- Bệnh nhân bị dính khớp thái dương hàm ảnh
hưởng đến há miệng.
- Bệnh nhân mất nhiều răng, không còn đủ 3 điểm
chặn khớp cắn ở 3 vùng.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế theo phương pháp nghiên cứu mô tả
tiến cứu có can thiệp.
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu: Phương pháp
chọn mẫu không xác suất (loại mẫu thuận tiện).
2.3. Quy trình
2.3.1. Ghi nhận phần hành chính, khám lâm sàng
và các yếu tố liên quan đến chấn thương
Ghi nhận những thông tin phần hành chính, khám
lâm sàng và các yếu tố liên quan đến chấn thương.
2.3.1.1. Triệu chứng
Đau vùng góc hàm: Có/ Không
Sưng vùng góc hàm: Có/ Không
Ấn góc hàm có điểm đau chói: Có/ Không
Rách nướu vùng răng không hàm dưới (RKHD)
bên gãy: Có/ Không
Há miệng hạn chế: Có/ Không
Sai khớp cắn: Có/ Không
(Đặc điểm khớp cắn sai: .....)
Khuyết bậc thang bờ dưới góc hàm: Có/ Không
Tê môi dưới và cằm bên gãy: Có/ Không
2.3.1.2. Số lượng đường gãy
Gãy góc hàm đơn thuần 1 bên
Gãy góc hàm đơn thuần 2 bên
Gãy góc hàm phối hợp với đường gãy khác của XHD
Gãy góc hàm
phối hợp với
Cận giữa cằm
Chính giữa
cằm
Cành
ngang
Cành
lên
Lồi cầu
Mỏm
vẹt
Cùng bên
Đối bên
2.3.1.3. Gãy góc hàm phối hợp với đường gãy ở xương mặt khác
Gãy xương gò má – cung tiếp (gãy XGM-CT)
Gãy xương hàm trên
93
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Gãy xương gò má – cung tiếp + xương hàm trên
2.3.1.4. Cận lâm sàng (nghiên cứu trên phim
panorama)
- Sử dụng thước thẳng để đo mức độ di lệch giữa
2 đầu đoạn gãy trên phim, dựa vào tỉ lệ thước in trên
phim, tính được khoảng cách thực về độ di lệch giữa
2 đầu đoạn gãy, đơn vị tính bằng milimet (mm).
- Theo Pell và Gregory thì RKHD được phân loại
như sau [5].
+ Theo tương quan của RKHD với cành lên XHD
và RCL2HD: Dựa vào chiều gần xa của thân răng
khôn hàm dưới với khoảng rộng xương (KRX) giữa
mặt xa RCL2HD với bờ trước cành lên XHD.
* Loại I: KRX Chiều gần xa thân RKHD.
* Loại II: KRX < Chiều gần xa thân RKHD.
* Loại III: RKHD nằm chìm hoàn toàn trong xương.
+ Theo chiều sâu tương đối của RKHD so với
RCL2HD.
* Vị trí A: Điểm cao nhất RKHD ở trên hay ngang
mặt nhai RCL2HD.
* Vị trí B: Điểm cao nhất RKHD ở khoảng giữa mặt
nhai và cổ RCL2HD.
* Vị trí C: Điểm cao nhất RKHD nằm thấp hơn cổ
RCL2HD.
2.3.1.5. Phân loại tính chất đường gãy
Tính chất ổ gãy: Gãy kín/ Gãy hở.
Kiểu gãy:Di lệch/ Không di lệch.
Hướng gãy:Thuận lợi/ Không thuận lợi.
2.3.2 các bước tiến hành phẫu thuật kết hợp
xương gãy góc hàm xương hàm dưới theo phương
pháp champy
- Bệnh nhân được gây mê nội khí quản qua
đường mũi.
- Nắn chỉnh khớp cắn [13].
- Tạo đường vào ổ gãy bằng đường rạch tiền đình
miệng vùng góc hàm và xử trí RKHD trong đường
gãy (nhổ bỏ hoặc không nhổ bỏ) [16].
- Bóc tách và bộc lộ đường gãy góc hàm.
- Lựa chọn nẹp vít: Phẫu thuật viên phải lựa chọn
loại nẹp vít nhỏ 4 lỗ hoặc 6 lỗ để đặt dọc theo đường
Champy ở vùng góc hàm [1].
- Nắn chỉnh hai đầu gãy: Nắn chỉnh hở và cố định
xương bên trong thường bắt đầu bằng nắn chỉnh về
đúng khớp cắn và cố định hai hàm [1].
- Uốn nẹp và đặt áp sát bề mặt xương: Cần xoắn
nẹp khoảng 90° sao cho nẹp áp sát tốt nhất với bề
mặt xương dọc theo đường Champy ở vùng góc
hàm [7]. Khoan và bắt vít
Hình 1. Đường Champy trong kết hợp xương vùng góc hàm.
- Kiểm tra lại lần cuối: tháo cố định hai hàm (nếu có), kiểm tra lại khớp cắn ở tư thế đúng. Làm sạch ổ phẫu
thuật, đóng vết phẫu thuật, băng ép.
2.3.2.1. Kết quả điều trị
Xử trí RKHD trong đường gãy: Nhổ bỏ/ Không nhổ bỏ
Biến chứng sau mổ Có/ Không
Các biến chứng sau mổ (nếu có):
Nhiễm trùng: Có/ Không
Chảy máu Có/ Không
Sai khớp cắn Có/ Không
Toát vết mổ không lộ nẹp Có/ Không
Toát vết mổ lộ nẹp Có/ Không
Tê môi cằm cùng bên tổn thương Có/ Không
Lỏng nẹp, vít Có/ Không
2.3.2.2. Đánh giá khi ra viện
Khớp cắn: Tốt (các răng chạm nhau 3 vùng ở tư thế cắn khít trung tâm)
Khá (các răng chạm nhau 2 vùng ở tư thế cắn khít trung tâm)
Kém (các răng chạm nhau 1 vùng ở tư thế cắn khít trung tâm)
94
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Thẩm mỹ: Tốt (khuôn mặt cân đối)
Khá (khuôn mặt không cân đối)
Kém (khuôn mặt biến dạng)
2.3.2.3. Tiêu chí đánh giá kết quả điều trị phẫu thuật gãy góc hàm xương hàm dưới vào các thời điểm 3
tháng và 6 tháng sau phẫu thuật (theo rudolf Seemann) [18].
Tiêu chí đánh giá Tốt Khá Kém
Giải phẫu - Đường viền xương hai đầu gãy
trên phim X quang (lệch nhau)
- Khoảng hở hai đầu gãy
< 1 mm
< 1 mm
1 – 2 mm
1 – 2 mm
> 2 mm
> 2 mm
Chức năng
- Ăn nhai
- Cảm giác ở vùng KHX
- Há miệng tối đa
- Tình trạng khớp cắn các răng
chạm nhau ở tư thế cắn khít
trung tâm
Tốt
Tốt
> 40 mm
Chạm nhau
3 vùng
Được
Kích thích
20 – 40 mm
Chạm nhau
2 vùng
Khó khăn
Đau
< 20 mm
Chạm nhau 1
vùng
Thẩm mỹ - Khuôn mặt cân đối Có Không Biến dạng
3. KẾT QUẢ
3.1. Đặc điêm của mẫu nghiên cứu.
Bảng 3.1. Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Giới tính Số bệnh nhân (%) Tuổi (Trung bình ± Độ lệch chuẩn) Nhỏ nhất Lớn nhất
Nam 27 (84,4) 31,3 ± 12,2 16 55
Nữ 5 (15,6) 24,7 ± 6,4 19 38
Tổng 32 (100) 30,3 ± 11,8 16 55
Trong tổng số 32 bệnh nhân, có 27 bệnh nhân là nam giới, chiếm tỉ lệ 84,4% và 5 bệnh nhân là nữ giới, chiếm
tỉ lệ 15,6%. Tỉ lệ nam/nữ = 5,4/1. Tuổi trung bình của nghiên cứu là 30,3 ± 11,8. Trong đó, nam giới có độ tuổi
trung bình là 31,3 ± 12,2 và nữ giới có tuổi trung bình là 24,7±6,4. Tuổi nhỏ nhất trong nghiên cứu là 16 tuổi
và lớn nhất là 55 tuổi.
3.2. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.2. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng lâm sàng.
Triệu chứng n %
Đau 30 93,8
Ấn có điểm đau chói 29 90,6
Há miệng hạn chế 27 84,4
Sưng 25 78,1
Sai khớp cắn 22 68,7
Khuyết bậc thang bờ dưới góc hàm 15 46,8
Tê môi dưới và cằm bên gãy 14 43,8
Rách nướu vùng RKHD bên gãy 10 31,3
Trong các triệu chứng lâm sàng của gãy góc hàm XHD, đau ở vùng góc hàm bên gãy là triệu chứng thường
gặp nhất, chiếm tỉ lệ 93,8%, tiếp theo là ấn vị trí gãy có điểm đau chói chiếm tỉ lệ 90,6%, há miệng hạn chế
chiếm tỉ lệ 84,4%, sưng vùng góc hàm chiếm tỉ lệ 78,1%, sai khớp cắn chiếm tỉ lệ 68,7%, ít gặp hơn là dấu hiệu
khuyết bậc thang bờ dưới góc hàm, tê vùng môi dưới và cằm bên gãy, rách nướu vùng RKHD bên gãy với tỉ lệ
lần lượt là 46,8%, 43,8% và 31,3%.
95
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Đánh giá lúc ra viện, về khớp cắn ở mức tốt
chiếm tỉ lệ 84,4%, mức khá chiếm tỉ lệ 15,6%,
không có mức kém; về thẩm mỹ mức tốt chiếm
tỉ lệ 90,6%, mức khá chiếm tỉ lệ 9,4%, không có
mức kém.
Đánh giá kết quả chung sau phẫu thuật 3 tháng,
mức tốt chiếm 81,3%, mức khá chiếm 15,6%, mức
kém chiếm 3,1%. Đánh giá kết quả chung sau phẫu
thuật 6 tháng, mức tốt chiếm 86,7%, mức khá
chiếm 13,3%, không có mức kém.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Kết quả tại bảng 1 cho thấy nghiên cứu của chúng
tôi có tỉ lệ gãy góc hàm XHD nghiêng về nam giới
tương tự các nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
và trong nước: Brucoli M. (2019) [5], Yazdani J. (2013)
[20], Nguyễn Quang Hải (2012) [1] với tỉ lệ nam giới
lần lượt là 91,6%, 83,9% và 71,4%. Cho thấy không
chỉ ở Việt Nam mà các nước trên thế giới cũng có tỉ lệ
gãy góc hàm phổ biến ở nam giới hơn nữ giới. Theo
Nguyễn Quang Hải (2012) [1] nam giới thường mạnh
mẽ hơn trong các hoạt động, là lực lượng chính trong
các lao động nặng, thường tham gia giao thông với
tốc độ nhanh hơn, hay chủ quan và sử dụng bia rượu,
cũng như tham gia vào các hoạt động thể thao mạnh
và có hành vi bạo lực nhiều hơn so với nữ giới do đó
gãy góc hàm XHD chủ yếu xảy ra ở nam giới.
4.2. Phân bố bệnh nhân theo triệu chứng lâm sàng
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy triệu
chứng thường gặp nhất trong gãy góc hàm là đau
(93,8%). Hầu hết mọi chấn thương gãy góc hàm đều
gây đau và là nguyên nhân khiến bệnh nhân đến
khám [2]. Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Monnazzi M.S. (2017) [15] (93,3%) và Nguyễn Thị
Diệu Trinh (2014) [2] (96,1%).
3.3. Phân bố các loại đường gãy góc hàm
Bảng 3.3. Phân bố các loại đường gãy góc hàm
Các loại đường gãy n %
Tính chất gãy Gãy kín 2 93,7
Gãy hở 30 6,3
Kiểu gãy Không di lệch 10 31,3
Di lệch 22 68,7
Hướng gãy Thuận lợi 1 3,1
Không thuận lợi 31 96,9
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, tính chất đường gãy góc hàm XHD chủ yếu là đường gãy hở
(93,7%), gãy kín chiếm 6,3%; đa số là kiểu gãy di lệch (68,7%), gãy không di lệch chiếm 31,3% và hướng đường
gãy không thuận lợi chiếm tỉ lệ cao (96,9%), gãy thuận lợi chiếm 3,1%.
3.4. Đặc điểm X quang các bệnh nhân gãy góc hàm xương hàm dưới
Bảng 3.4. Đặc điểm phim panorama các bệnh nhân gãy góc hàm xương hàm dưới
Giá trị chẩn đoán Phát hiện được Nghi ngờ Không phát hiện Tổng
n 31 1 0 32
% 96,9 3,1 0 100
Tất cả các bệnh nhân gãy góc hàm trong nghiên cứu của chúng tôi đều được chỉ định chụp phim panorama.
Trong số 32 trường hợp gãy góc hàm thì có 31 trường hợp phát hiện được đường gãy trên phim panorama
chiếm tỉ lệ 96,9%, 1 trường hợp nghi ngờ có đường gãy chiếm tỉ lệ 3,1% và không có trường hợp nào không
phát hiện đường gãy trên phim panorama.
3.5. Đánh giá kết quả khi ra viện, 3 tháng, 6 tháng sau phẫu thuật
Bảng 3.5. Đánh giá kết quả khi ra viện, 3 tháng và 6 tháng sau phẫu thuật
Mức độ
Thời gian
Tốt Khá Kém
Khi ra viện
Khớp cắn 84,4% (27/32) 15,6% (5/32) 0 (0/32)
Thẩm mỹ 90,6% (29/32) 9,4% (3/32) 0 (0/32)
Kết quả chung 3 tháng sau phẫu thuật 81,3% (26/32) 15,6% (5/32) 3,1% (1/32)
Kết quả chung 6 tháng sau phẫu thuật 86,7% (13/15) 13,3% (2/15) 0 (0/15)
96
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Ấn đau chói vùng góc hàm là dấu hiệu thường
gặp, chiếm 90,6% trong nghiên cứu của chúng tôi.
Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn
Quang Hải (2012) [1] (96,8%). Theo các tác giả, ấn
đau chói vùng góc hàm là dấu hiệu rất có giá trị
trong chẩn đoán gãy góc hàm.
Các triệu chứng thường gặp khác là há miệng hạn
chế (84,4%), sưng vùng góc hàm (78,1%), sai khớp
cắn (68,7%). Há miệng hạn chế trong gãy góc hàm
thường do đau, tổn thương các cơ nhai [1]. Nghiên
cứu của chúng tôi ghi nhận có 3 bệnh nhân gãy
góc hàm phối hợp với đường gãy ở XGM-CT. Trong
trường hợp này, há miệng hạn chế có thể do đường
đi của mỏm vẹt bị cản trở [17]. Sưng nề cũng là triệu
chứng thường gặp trong chấn thương gãy xương. Một
lực chấn thương mạnh thường gây sưng nề lớn, rõ nhất
trong những ngày đầu chấn thương. Triệu chứng này có
giá trị hướng đến vùng thương tổn [1]. Theo Monnazzi
M.S. (2017) [15] đau, sưng nề và há miệng hạn chế là 3
triệu chứng thường gặp nhất trong gãy góc hàm.
Đặc điểm sai khớp cắn trong nghiên cứu mà chúng
tôi hay gặp là cắn hở vùng răng hàm bên gãy và chạm
sớm vùng răng hàm bên không gãy. Theo Pickrell B.B.
(2017) [16] đánh giá khớp cắn của bệnh nhân là yếu
tố quan trọng trong chẩn đoán gãy XHD. Tác giả cho
rằng yêu cầu bệnh nhân “cắn lại bình thường” là một
thử nghiệm rất có hiệu quả.
Dấu hiệu khuyết bậc thang ở bờ dưới góc hàm ít
gặp hơn (46,8%). Theo Nguyễn Quang Hải (2012) [1]
dấu hiệu này rất có giá trị trong chẩn đoán gãy góc
hàm, tuy nhiên chỉ gặp ở gãy góc hàm di lệch và khi
tình trạng sưng nề đã giảm. Các dấu hiệu khác như
tê bì môi dưới và cằm bên gãy, rách nướu RKHD bên
gãy có tỉ lệ lần lượt là 43,8% và 31,3%. Tay A.B. (2015)
[19] cho rằng tổn thương dây thần kinh răng dưới
khi gãy ở đoạn sau XHD (56,2%) cao gấp 4 lần so với
khi gãy ở đoạn trước XHD (12,6%). Tác giả cũng lưu
ý việc thăm khám triệu chứng tê bì môi dưới và cằm
bên gãy trước phẫu thuật để tránh nhầm lẫn với biến
chứng sau phẫu thuật. Vết rách trong miệng, chấn
thương mô mềm cũng cần được lưu ý vì chúng có
thể làm tăng nguy cơ nhiễm trùng [19].
Theo chúng tôi, khi thăm khám 1 bệnh nhân
chấn thương hàm mặt nghi ngờ gãy góc hàm, cần
thăm khám kỹ các dấu hiệu sau: Sưng đau vùng góc
hàm, ấn đau chói vùng góc hàm, há miệng hạn chế,
sai khớp cắn, dấu hiệu khuyết bậc thang ở bờ dưới
góc hàm, tê bì môi dưới và cằm bên gãy, rách nướu
RKHD bên gãy.
4.3. Phân bố các loại đường gãy góc hàm
Kiểu gãy XHD phụ thuộc vào nhiều yếu tố lâm
sàng bao gồm hướng, tính chất, vị trí, diện tích bề
mặt tiếp xúc, độ lớn lực tác động, sự hiện diện của
khối mô mềm, đặc điểm mô cứng như mật độ, khối
lượng xương, cấu trúc giải phẫu bình thường hoặc
bệnh lý tạo ra các khu vực yếu trong XHD [20].
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3 cho thấy phân bố
các loại đường gãy góc hàm chủ yếu là đường gãy hở
(93,7%), đa số là kiểu gãy di lệch (68,7%) và hướng
gãy không thuận lợi chiếm tỉ lệ cao (96,9%). Theo
Nguyễn Quang Hải (2012) [1] nguyên nhân gãy góc
hàm chủ yếu là tai nạn giao thông (71,4%) chủ yếu
xảy ra ở nam giới (71,4%), thường tham gia giao
thông với tốc độ nhanh, gây lực chấn thương mạnh,
nhanh, bất ngờ, đa dạng, phức tạp.
Nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp gãy
góc hàm thuận lợi, không có sự di lệch giữa 2 đầu
xương gãy, không có sai khớp cắn. Pickrell B.B.
(2017) [16] cho rằng những trường gãy góc hàm
không di lệch, khớp cắn bình thường thì có chỉ định
điều trị bảo tồn và theo dõi sát trong 6 – 8 tuần,
nhưng do điều kiện công việc không thể buộc cố
định 2 hàm và không đáp ứng được thời gian theo
dõi sau cố đinh nên bệnh nhân đã được chỉ định
phẫu thuật kết hợp xương.
4.4. Đặc điểm phim X quang các bệnh nhân gãy
góc hàm xương hàm dưới
Tất cả các bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng
tôi đều được chỉ định chụp phim panorama. Giá
trị chẩn đoán hình ảnh của phim panorama trong
gãy góc hàm ở nghiên cứu này là 96,9%. Có 1 bệnh
nhân cho hình ảnh nghi ngờ gãy góc hàm trên phim
panorama, kết hợp với phim mặt thẳng đã chụp ở
tuyến dưới chúng tôi đưa ra được chẩn đoán xác
định gãy góc hàm cho bệnh nhân này.
Theo Nguyễn Quang Hải (2012) [1] giá trị chẩn
đoán đúng của phim panorama là 96,5% nhưng khi
phối hợp chụp cả 2 phim panorama và phim mặt
thẳng thì giá trị chẩn đoán đúng rất cao (100%).
Pickrell B.B. (2017) [16] cho rằng phim panorama là
chuẩn vàng về chi phí và hữu hiệu để chẩn đoán xác
định trong chấn thương hàm mặt, đặc biệt là các
đoạn gãy phía sau XHD.
4.5. Đánh giá kết quả khi ra viện, 3 tháng, 6
tháng sau phẫu thuật
Bảng 5 cho thấy khớp cắn ở mức tốt khi ra
viện chiếm 84,4%. Khớp cắn đánh giá ở mức tốt
khi bệnh nhân có khớp cắn đúng và răng hai hàm
chạm nhau cả ba vùng ở tư thế cắn khít trung tâm,
phản ánh phương pháp KHX có kỹ thuật nắn chỉnh
và cố định hai đầu gãy tốt trong lúc phẫu thuật [1].
Nghiên cứu của Nguyễn Quang Hải (2012) [1] cho
kết quả đánh giá về tình trạng khớp cắn sau phẫu
thuật ở mức tốt chiếm 81%, mức khá chiếm 19%,
không có mức kém. Đánh giá khi bệnh nhân ra viện
về thẩm mỹ cho thấy ở mức tốt chiếm 90,6%, mức
97
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
khá chiếm 9,4%, không có mức kém. Những trường
hợp đánh giá thẩm mỹ thuộc mức khá nguyên nhân
chủ yếu là do tình trạng sưng nề sau phẫu thuật,
làm mất cân đối khuôn mặt. Kết quả này thấp hơn
so với Nguyễn Quang Hải (2012) [1] (93,7% tốt, 6,3%
khá, không có mức kém). Theo chúng tôi thì sự khác
biệt này có thể do mức độ sưng nề sau phẫu thuật ở
mỗi bệnh nhân khác nhau phụ thuộc vào cơ địa của
mỗi người và cũng có thể do mẫu nghiên cứu trong
nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn so với nghiên cứu
của Nguyễn Quang Hải (2012). Nhưng các kết quả
đều cho thấy đánh giá thẩm mỹ ở mức tốt chiếm
tỉ lệ cao do phương pháp Champy sử dụng đường
trong miệng, ít gây sang chấn mô mềm và giảm thiểu
nguy cơ tổn thương thần kinh.
Nghiên cứu của Khiabani K.S. (2013) [12] đã chỉ
ra có sự hiện diện của khoảng hở tại bờ dưới XHD
trên phim X quang ở một số trường hợp gãy góc hàm
được phẫu thuật theo phương pháp Champy nhưng
điều này không có tác động đến kết quả về khớp
cắn và thẩm mỹ sau phẫu thuật. Vấn đề này cũng
được đề cập trong nghiên cứu của Nguyễn Quang
Hải (2012) [1]. Ở thời điểm bệnh nhân ra viện kết
quả tốt về mặt giải phẫu không cao (66,7%), khớp
cắn tốt chiếm tỉ lệ 81%, nhưng kết quả thẩm mỹ tốt
chiếm tỉ lệ cao (93,7%). Để khắc phục nhược điểm
này, tác giả đã đề nghị sử dụng phối hợp với nút chỉ
thép căng lực ở bờ dưới XHD. Tuy nhiên, cuộc khảo
sát của Gear A.J. (2005) [9] cho thấy có 51% phẫu
thuật viên chỉ sử dụng 1 nẹp nhỏ đặt ở bờ trên XHD
(đường Champy) trong điều trị gãy góc hàm.
Đánh giá kết quả chung ở thời điểm 3 tháng sau
phẫu thuật theo các tiêu chí của Rudolf Seemann và
cs (2010) [18] cho thấy mức tốt, khá, kém chiếm
tỉ lệ lần lượt là 81,3%, 15,6% và 3,1%. Nghiên cứu
này cho kết quả mức tốt cao hơn, mức khá và mức
kém thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Quang
Hải (2012) [1] (73,2% tốt, 19,6% khá và 7,2% kém)
tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt
thống kê (p > 0,05). Ở thời điểm 3 tháng sau phẫu
thuật, có 1 trường hợp ở mức kém do đánh giá giải
phẫu trên phim X quang ở mức kém (khoảng cách
2 đầu xương gãy ở bờ dưới XHD > 2 mm), đánh giá
chức năng ở mức khá (khớp cắn hở vùng răng cửa <
1 mm, các răng chạm nhau 2 vùng ở tư thế cắn khít
trung tâm). Bệnh nhân này có đường gãy góc hàm
phối hợp gãy lồi cầu cao, được điều trị phẫu thuật
KHX vùng góc hàm bằng nẹp vít theo phương pháp
Champy và điều trị bảo tồn gãy lồi cầu bằng MMF
(Maxillomandibular fixation: Cố định cứng chắc 2
hàm) 4 – 6 tuần. Tuy nhiên có thể do chúng tôi đã
tháo cố định 2 hàm sớm và bệnh nhân ăn cứng sớm,
cũng có thể do di lệch đầu xương nhiều, việc nắn
chỉnh chưa tốt nên có sự di lệch nhẹ. Cùng với việc
bệnh nhân này có thói quen hút thuốc lá trong thời
gian dài với số lượng nhiều.
Theo Khiabani K.S. (2013) [12] MMF sau phẫu
thuật gãy góc hàm không giúp cải thiện kết quả.
Bằng cách không MMF việc chăm sóc bệnh nhân
có thể được tăng cường hơn, cho phép sớm trả lại
chức năng và sớm thực hiện các bài tập há ngậm
miệng, giảm thiểu các bệnh kèm theo có liên quan
đến MMF như vệ sinh răng miệng kém, sâu răng, sụt
cân, cứng khít hàm [12].
Yazdani J. (2013) [20] cho rằng MMF sau phẫu
thuật có nhược điểm là bệnh nhân sẽ phải có chế
độ ăn lỏng trong suốt thời gian cố định (4 – 6 tuần)
và không thể vệ sinh răng miệng tốt do miệng luôn
ngậm kín. Ngoài ra, khí cụ MMF có thể làm cho mô
mềm trong miệng dễ bị loét, thậm chí dẫn đến các
biến chứng nguy hiểm đe dọa tính mạng như khi
bệnh nhân buồn nôn, nôn.
Michael E.B. (2016) [14] cho rằng tỉ lệ biến chứng
chính còn thấp (3,4%) ở các bệnh nhân được phẫu
thuật theo phương pháp Champy mà không có MMF
sau phẫu thuật. Bên cạnh đó, Khiabani K.S. (2013)
[12] cũng đề nghị tất cả các bệnh nhân sau khi được
thực hiện đường phẫu thuật trong miệng đều nên sử
dụng dung dịch Chlohexidine 0,12% súc miệng.
Tuy nhiên, Prein J. (2012) [17] lại cho rằng khi
thực hiện phẫu thuật KHX vùng góc hàm chỉ với 1
nẹp ở bờ trên XHD mà không bổ sung thêm 1 nẹp
khác ở bờ dưới XHD thì cần thiết phải MMF sau phẫu
thuật trong 1 thời gian, nhằm giúp ổn định khớp cắn
và hỗ trợ cho sự lành thương của mô mềm. Do đó,
vấn đề về việc có hay không có MMF sau phẫu thuật
vẫn còn gây tranh luận trên thế giới [14].
Đánh giá kết quả chung ở thời điểm 6 tháng sau
phẫu thuật theo các tiêu chí của Rudolf Seemann và
cs (2010) [18] cho thấy mức tốt chiếm 86,7%, mức
khá chiếm 13,3%, không có mức kém. So với kết quả
trong nghiên cứu của Nguyễn Quang Hải (2012) [1]
thì đánh giá kết quả chung ở mức tốt trong nghiên
cứu của chúng tôi có cao hơn (76,6%). Sự khác biệt
này không có ý nghĩa về mặt thống kê với p >0,05.
Theo chúng tôi, sự khác biệt này là do mẫu nghiên
cứu ở thời điểm 6 tháng sau phẫu thuật trong nghiên
cứu của chúng tôi (15 đối tượng) nhỏ hơn so với
nghiên cứu của Nguyễn Quang Hải (2012) [1] (47
đối tượng). Theo Nguyễn Quang Hải (2012) [1] thì
kết quả chung đánh giá ở 2 thời điểm 3 tháng và 6
tháng sau phẫu thuật là không có sự khác biệt về mặt
thống kê (p > 0,05) [1]. Có 1 bệnh nhân có đánh giá
chung ở mức kém vào thời điểm 3 tháng sau phẫu
thuật chuyển sang mức khá ở thời điểm 6 tháng sau
phẫu thuật. Đánh giá giải phẫu trên phim panorama
98
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Quang Hải (2012), “Nghiên cứu ứng dụng
phương pháp Champy trong điều trị phẫu thuật gãy góc hàm
xương hàm dưới”, Luận văn tiến sĩ y học, Trường Đại học Y
Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Diệu Trinh (2014), “Nghiên cứu đặc
điểm X quang gãy xương hàm dưới do tai nạn giao thông”,
Luận văn thạc sĩ y học, Trường Đại học Y Dược Huế.
3. Trần Văn Trường, Trương Mạnh Dũng (1999), “Tình
hình chấn thương hàm mặt tại Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội
trong 11 năm từ 1988 - 1998”, Y học Việt Nam, số 10-11, tr.
71-73.
4. Barrera J.E., Batuello S.G., Talavera F. et al
(2017), “Mandibular Angle Fractures”, Department of
Otolaryngology – Head and Neck Surgery, Stanford
University, U.S.A.
5. Brucoli M., Boffano P., Pezzana A. et al (2019), “The
“European Mandibular Angle” research project: the analysis
of complications after unilateral angle fractures”, Oral Surg
Oral Med Oral Pathol Oral radiol, 77(4), pp. 7911-7917.
6. Champy M., Lodde J.P., Schmitt R. et al (1978),
“Mandibular osteosynthesis by miniature screwed
plates via a buccal approach”, J Maxillofac Surg, 6, pp.
14-21.
7. Cienfuegos R., Cornelius C.P., Ellis E. III et al (2010),
“Anatomy of the mandibular”, AO Surgery reference, AO
Foundation, Clavadelerstrasse 8, 7270 Davos, Switzerland,
pp. 13-19.
8. Gaddipati R., Ramisetti S., Vura N. et al (2015), “Analysis
of 1,545 Fractures of Facial Region – A Retrospective Study”,
Craniomaxillofac Trauma reconstruction, 8(4), pp. 307-314.
9. Gear A.J., Apasova E., Schmitz J.P. et al (2005),
“Treatment modalities for mandibular angle fracture”, J
Oral Maxillofac Surg, 63(5), pp. 655- 663.
10. Giovacchini F., Paradiso D., Bensi C. et al (2018),
“Association between third molar and mandibular angle
fracture: A systematic review and meta-analysis”, J
Craniomaxillofac Surg, 46(4), pp. 558-565.
11. Gutta R., Tracy K., Johnson C. et al (2014), “Outcomes
of mandible fracture treatment at an academic tertiary
hospital: A 5 – year analysis”, J Oral Maxillofac Surg, 72(3),
pp. 550-558.
12. Khiabani K.S., Mehmandoost M.K. (2013),
“Transoral Miniplate Fixation of Mandibular Angle
Fracture with and without 2 Weeks of Maxillomandibular
Fixation: A Clinical Trial Study”, Craniomaxillofac Trauma
reconstr, 6(2), pp. 107-114.
13. Lee J.H. (2017), “Treatment of Mandibular Angle
Fractures”, Archives of Craniofacial Surgery, 18(2), pp. 73-75.
14. Michael E.B. (2016), “Management of
Mandibular Fractures Treated By Champy Technique
Without Postoperative Maxillomandibular Fixation: A
Retrospective Study”, Journal of Oral and maxillofacial
surgery, 74(9), pp. 88-89.
15. Monnazzi M.S., Gabrielli M.A., Gabrielli M.F. et al
(2017), “Mandibular angle fractures: A comparative study
between one – and two – plate fixation.”, Dent Traumatol,
33(2), pp. 121-125.
16. Pickrell B.B., Serebrakian A.T., Maricevich R.S.
(2017), “Mandible Fractures”, Semin Plast Surg, 31(2), pp.
100-107.
17. Prein J. (2012), “Mandibular fracture”, Principles of
Internal Fixation of the Craniomaxillofacial Skeleton: Trauma
and Othognathic Surgery AO Publishing, pp. 137-176.
18. Seemann R., Schicho K., Wulzl A. (2010),
“Complication Rates in the Operative Treatment of
Mandibular Angle Fractures: A 10- Year Retrospective”, J
Oral Maxillofac Surg, 68 (3), pp. 647- 650.
19. Tay A.B., Lai J. B., Lye K.W. et al (2015), “Inferior
alveolar nerve injury in trauma-induced mandible
fractures”, J Oral Maxillofac Surg, 73(7), pp. 1328-1340.
20. Yazdani J., Taheri T.K., Motamedi M.H.K. (2013),
“Mandibular Angle Fractures: Comparison of One
Miniplate vs. Two Miniplates”, Trauma Mon, 18(1), pp.
17-20.
thấy khoảng cách 2 đầu xương gãy ở bờ dưới XHD <
2 mm. Tình trạng cắn hở vùng răng cửa đã được cải
thiện tốt sau khi mài điều chỉnh. Theo Nguyễn Quang
Hải (2012) [1] thì sau khoảng thời gian ăn nhai càng
dài thì sự chạm các răng có cải thiện hơn, bệnh nhân
ăn nhai tốt hơn.
5. KẾT LUẬN
Gãy góc hàm chủ yêu xảy xa ở nam giới (84,4%),
tuổi trung bình là 30,3 ± 11,8. Phần lớn gãy góc hàm
là gãy hở (93,7%), đa số là kiểu gãy di lệch (68,7%)
và hướng đường gãy không thuận lợi chiếm tỉ lệ cao
(96,9%). Triệu chứng lâm sàng hay gặp trong gãy góc
hàm là đau vùng góc hàm bên gãy, ấn có điểm đau
chói, há miệng hạn chế và sưng vùng góc hàm bên
gãy. Phim X quang thường dùng trong chẩn đoán gãy
góc hàm là phim panorama, tỉ lệ phát hiện đường
gãy góc hàm trên phim panorama là 96,9%.
Đánh giá lúc ra viện, về khớp cắn ở mức tốt chiếm
tỉ lệ 84,4%, mức khá chiếm tỉ lệ 15,6%, không có mức
kém; về thẩm mỹ mức tốt chiếm tỉ lệ 90,6%, mức
khá chiếm tỉ lệ 9,4%, không có mức kém. Đánh giá
kết quả chung sau phẫu thuật 3 tháng, mức tốt, khá,
kém chiếm tỉ lệ lần lượt là 81,3%, 15,6%, 3,1%. Đánh
giá kết quả chung sau phẫu thuật 6 tháng thì 86,7%
tốt, 13,3% khá, không có mức kém. Nên áp dụng
phương pháp Champy trong phẫu thuật điều trị gãy
góc hàm xương hàm dưới (không phải gãy vụn) để
hạn chế các biến chứng như sẹo xấu, nhiễm trùng,
liệt nhánh bờ hàm dưới của dây thần kinh mặt.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ap_dung_phuong_phap_champy_trong_dieu_tri_gay_goc.pdf