Dựa vào kết quả nghiên cứu ban đầu ở trên
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Vật liệu composit trên nền geopolyme gia
cường bằng sợi thủy tinh có hệ số dẫn nhiệt
thấp và nhiệt dung riêng cao, tương đồng với
vật liệu thường được sử dụng để cách nhiệt
và chống cháy trong công nghiệp là bakelit và
bakelit trộn sợi amiăng, bên cạnh đó nó không bị
bốc cháy khi chịu đến nhiệt độ lớn hơn 1000oC
với thời gian chịu nhiệt vô hạn [7]. Sử dụng
phương pháp tạo mẫu 4 và 5, vật liệu kết hợp
được tạo ra có cơ tính thỏa mãn các giá trị quy
định trong Quy phạm Kiểm tra và Chế tạo tàu
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu ban đầu về khả năng ứng dụng kế hợp vật liệu geopolyme composit chống cháy cho ngành đóng tàu vỏ composit, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
94 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
NGHIÊN CỨU BAN ĐẦU VỀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG KẾ HỢP VẬT
LIỆU GEOPOLYME COMPOSIT CHỐNG CHÁY CHO NGÀNH ĐÓNG
TÀU VỎ COMPOSIT
PRELIMINARY STUDY OF APPLYING GEOPOLYMER COMPOSITES TO COMPOSITE
SHIPBUILDING INDUSTRY
Trần Doãn Hùng1, Petr Louda2 và Oleg Bortnovsky3
1 Khoa Cơ khí, Trường Đại học Nha Trang
2 Khoa Cơ khí, Đại học Kỹ thuật Liberec, Cộng hòa Séc
3 Viện Hóa học Vô cơ Usti nad Labem, Cộng hòa Séc
TÓM TẮT
Bài báo này chúng tôi trình bày kết quả của nghiên cứu ban đầu về tính chất nhiệt của vật liệu
geopolyme composit dẫn xuất trên nền Silic đioxit nhiệt chứa khoảng 50% sợi thủy tinh gia cường. Cơ tính
của vật liệu dạng tấm hybrid được tạo thành khi sử dụng kết hợp vật liệu geopolyme composit này với vật liệu
composite thông dụng trong ngành đóng tàu trên nền polyeste không no (UPR) gia cường bằng sợ thủy tinh;
Ảnh hưởng của phương pháp chế tạo và loại vật liệu gia cường lên tính chất cơ và dạng hỏng của vật liệu
được tạo thành. Kết quả cho thấy, vật liệu geopolyme composit được nghiên cứu có tính chất nhiệt tương tự
vật liệu cách nhiệt Bakelit và một số phương pháp chế tạo cho ta vật liệu tấm có độ bền thỏa mãn tiêu chuẩn
TCVN 6282: 2003.
ABSTRACT
This paper presents results of preliminary research about thermal properties of thermal silica based
geopolymer composite reinforced by 50% glass fi ber. Mechanical properties of hybrid laminates which
were fabricated by combining the geopolymer composite with popular shipbuilding composites based on
unsaturated polyester resin and glass fi ber reinforcement; Effects of manufacturing methods on the mechanical
properties and failure patterns of composite samples. The results show that the geopolymer composite has
the same thermal properties of thermal insulator material Bakelite and in some cases of hybrid composite
fabrication methods, the strength of materials meet the demands of standard TCVN 6282: 2003.
Từ khóa: geopolyme, polyeste không no, tính chất nhiệt, độ bền cơ học
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vật liệu composit với các tính năng vượt
trội so với nhiều chủng loại vật liệu kinh điển
như nhẹ, độ bền riêng cao, mô đun đàn hồi riêng
cao, dai, chống va đập khá tốt đang ngày càng
được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hiện
đại như hàng không, vũ trụ, ô tô, chế tạo máy,
tàu thuyền và cả trong đời sống hàng ngày.
Vật liệu composit thông dụng và phổ biến nhất là
composit dựa trên nền polyme hữu cơ được gia
cường. Tuy nhiên, đối với các ứng dụng trong
các ngành công nghiệp, ở đó có nhiệt độ làm
việc yêu cầu lớn hơn 200oC thì hầu hết các loại
vật liệu composit trên nền polyme hữu cơ không
thể sử dụng [1-3]. Tính chất dễ bắt lửa của chính
vật liệu này hạn chế khả năng triển khai ứng
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 95
dụng chúng cho ngành công nghiệp tàu thủy nói
chung và tàu ngầm nói riêng [4].
Vật liệu geopolyme đã được nghiên cứu và
phát triển từ năm 1979 bởi giáo sư hóa học và
vật liệu học Joseph Davidovits, Viện Khoa học
Vật liệu Geopolyme, Cộng hòa Pháp [5]. Tuy
nhiên vật liệu geopolyme được ông sử dụng như
vật liệu nền cho composit chỉ được bắt đầu từ
năm 1982 [6] và cho đến hiện nay geopolyme
composit đang thu hút được nhiều nhà khoa học
trên thế giới. Theo nhiều tài liệu, vật liệu composit
trên nền geopolyme có các tính chất nổi bật sau:
cơ tính cao, nhẹ, chịu nhiệt tốt (có thể chịu nhiệt
độ lên đến 1200oC trong thời gian dài), không tạo
khói, khí độc và có thể chịu được tác động của
hầu hết các loại hóa chất hữu cơ [1, 5, 7, 8]. Thêm
vào đó vật liệu composit trên nền geopolyme
có thể được chế tạo ở ngay nhiệt độ thường
hoặc được đẩy nhanh quá trình đông rắn trong
lò có nhiệt độ không quá 150oC chỉ trong vài giờ
[2, 7].
Tàu thủy được coi như một công trình kiến
trúc phức tạp, có giá trị lớn và hoạt động độc
lập trên đại dương mênh mông; nguy cơ tiềm
ẩn về khả năng xẩy ra hỏa hoạn là rất cao, trong
khi đó không gian hoạt động của con người trên
tàu lại hết sức nhỏ hẹp. Vật liệu composit được
sử dụng để chế tạo tàu thủy chủ yếu dựa trên
nền polyeste không no, khi vật liệu này tiếp xúc
với nguồn nhiệt do bức xạ, lửa, hoặc sự đối lưu
nhiệt đến điểm phân hủy thì những khí dễ cháy
được tạo thành như hydrocarbon, hydrogen,
carbon monoxide và quá trình cháy xảy ra. Như
vậy, sử dụng vật liệu làm chậm quá trình cháy
và chống cháy vật liệu là một đòi hỏi không thể
thiếu của kết cấu tàu.
Việc sử dụng kết hợp composit trên nền
geopolyme ở đây được xem như một lớp bề
mặt làm chậm hoặc ức chế phản ứng nhiệt phân
và phản ứng oxi hóa trên bề mặt của polyester.
Theo hiểu biết chủ quan của chúng tôi thì hiện
nay trên thế giới chưa có công trình nào nghiên
cứu thử nghiệm kết hợp composit trên nền
polyme hữu cơ với composit trên nền geopolyme
để hình thành vật liệu có dạng hybrid nhằm
tận dụng ưu điểm của chúng và sử dụng cho
các ngành công nghiệp nói chung và tàu thủy
composit nói riêng.
Ở đây chúng tôi nghiên cứu tính chất cơ
bản của vật liệu kết hợp composit trên nền
polyme hữu cơ thông dụng là polyeste không no
và composit trên nền geopolyme có gốc từ silic
đioxyt nhiệt, gia cường bằng vải thủy tinh dạng
mat 450g/m2 và dệt 850g/m2 với mong muốn
bước đầu nghiên cứu sử dụng vật liệu dạng
hybrid này như là vật liệu kết cấu và chống cháy
trên tàu composit.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
II.1. Nguyên liệu và hóa chất
- Nhựa UPR có nhãn hiệu P:9509 NW -
B.TT 3224, xuất xứ từ Malaysia, chứa 30-35%
styrene monomer, 0,5 % Nathtalene Cobalt; sử
dụng chất xúc tác quá trình đông rắn là Methyl -
Ethyl - Kextonpeoxide (MEKPO - 808) sản xuất
từ Indonasia với hàm lượng khoảng 1% khối
lượng.
- Bột Silic đioxyt nhiệt (thermal silica), xuất
xứ từ Cộng hòa Pháp, có kích thước hạt nhỏ
hơn 3 mm.
- Bột caolin, xuất xứ Cộng hòa Séc, có kích
thước hạt nhỏ hơn 5 mm.
- Dung dịch kích hoạt KOH 50% khối
lượng, được điều chế từ KOH phiến mỏng khô
được sản xuất ở Trung Quốc, có thành phần
bảng 1.
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
96 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
Bảng 1. Thành phần KOH dạng rắn
Thành phần Tỷ lệ % Thành phần Tỷ lệ % Thành phần Tỷ lệ %
KOH
Cl
SO4
N
PO4
≥ 82
0,01
0.005
0.001
0.005
SiO3
K2CO3
Na
Al
0.02
2.0
2.0
0.005
Ca
Fe
Ni
Pb
0.005
0.001
0.0005
0.002
- Vải thủy tinh dạng mat 450g/m2 (mat 450) và
vải dệt 850 g/m2 (vải 850) do Trung Quốc sản xuất.
- Các vật liệu khác: wax chống dính, tấm nilon
II.2. Điều chế vật liệu nền geopolymer
- Nhằm tạo ra mạch liên kết sialate mạng
2D (–Si–O–Al–) trong cấu trúc của vật liệu nền
geopolyme bền vững ở nhiệt độ cao và dung dịch
nền có thời gian sống ở nhiệt độ thường ít nhất là
6 giờ. Dung dịch KOH, bột silic đioxyt nhiệt và bột
caolin được định lượng có tỷ lệ khối lượng tương
ứng là 1:1,5:0,25 [5].
- Đổ dung dịch KOH vào cốc thủy tinh, làm lạnh môi trường điều chế bằng túi đá (Hình 1), cho
bột silic đioxyt với tốc độ vừa phải và khuấy đều khoảng 30 phút để đạt được dung dịch đạt độ đồng
nhất; sau đó tiếp tục đổ bột caolin vào với tốc độ vừa phải để tránh vón cục, khuấy đều trong khoảng
thời gian 5 - 10 phút (tốc độ tối đa trên cánh khuấy không quá 30 m/phút); Tăng vận tốc cánh khuấy
lên 100 m/phút trong khoảng 30 giây. Cuối cùng đổ hỗn hợp vào bình chứa và cất giữ vào tủ lạnh
đông sâu để sử dụng lâu dài.
II.4. Quá trình chế tạo vật liệu composit
Vật liệu composit được gia công bằng tay, đông rắn ở điều kiện thường. Tỉ lệ khối lượng sợi
khoảng 50%. Đắp liên tục từng lớp nhựa và sợi, sử dụng phương pháp lăn tay (dùng con lăn để
loại bọt khí) (hình 2) hoặc kỹ thuật chân không để đưa bọt khí và vật liệu nền thừa ra ngoài (hình 3).
Hình 2. Kỹ thuật lăn tay chế tạo vật liệu hybrid Hình 3. Kỹ thuật hút chân không chế tạo vật liệu
hybrid
Hình 1. Điều chế vật liệu nền geopolymer
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 97
- 01 chủng loại mẫu để kiểm nghiệm tính
chất nhiệt của composit trên nền geopolyme: 03
lớp mat 450 và 02 lớp vải 850 + geopolymer (05
lớp được lăn liên tục)
- 06 chủng loại mẫu được chế tạo để kiểm
nghiệm cơ tính như sau:
Số 1: 03 lớp mat 450 + UPR (ngày thứ nhất)
và 02 lớp mat 450 + geopolymer (ngày thứ hai)
Số 2: 03 lớp mat 450 + UPR (ngày thứ nhất)
và 02 lớp vải 850 + geopolymer (ngày thứ hai)
Số 3: 03 lớp mat 450 + UPR và 02 lớp vải
850 + geopolymer (cả 05 lớp được đánh liên
tục).
Số 4: 03 lớp mat 450 + UPR và 02 lớp mat
450 + geopolymer (cả 05 lớp được lăn liên tục
và sử dụng kỹ thuật hút chân không).
Số 5: 03 lớp mat 450 + UPR và 02 lớp vải
850 + geopolymer (cả 05 lớp được lăn liên tục
và sử dụng kỹ thuật hút chân không).
Số 6: 03 lớp mat 450 + UPR và 02 lớp vải
850 + UPE. Loạt mẫu này được sử dụng như
vật liệu đối chứng có cùng vật liệu ban đầu và
phương pháp chế tạo.
II.4. Thử nghiệm tính chất vật liệu
- Thử nghiệm về tính chất nhiệt: độ dẫn
nhiệt và cách nhiệt của composit được xác định
trên máy đo Sweating Guarded Hotplate, model
SGHP-8.2 (Hình 4), dựa theo bộ tiêu chuẩn ISO
11092. Nhiệt dung riêng của vật liệu này được
xác đinh trên máy do IKA Calorimeter, model C
400, theo tiêu chuẩn của Đức DIN 51 900.
- Thử nghiệm về cơ tính vật liệu: Độ bền
kéo và uốn được xác định trên máy Kéo nén vạn
năng (H50-K-S) của Anh với phạm vi đo 0-50kN
(Hình 5). Sử dụng bộ tiêu chuẩn chuẩn hóa Anh
- Châu Âu BS EN ISO 527-4:1997 BS 2782 -
Phương pháp 326F:1997 cho mẫu kéo và bộ
tiêu chuẩn chuẩn hóa Anh - Châu Âu BS EN ISO
14125:1998 cho mẫu uốn để chọn thông số chế
tạo mẫu và tính toán các thông số về cơ tính
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Chuỗi 5 mẫu được kiểm nghiệm đối với mỗi
chủng loại vật liệu và kết quả giá trị trung bình
được đưa ra ở bảng 2, bảng 3 và bảng 4.
So sánh với một số vật liệu truyền thống
thì vật liệu geopolyme composit gia cường sợi
thủy tinh có hệ số dẫn nhiệt nhỏ hơn của đồng
(380 W/mK) là 12025 lần, của thép (54 W/mK) là
1708 lần, của vật liệu ceramic alumin (2 W/mK)
là 64 lần, polyme Bakelit (0,23 W/mK) là 7 lần và
so với gỗ nói chung (0,14 W/mK) là 5 lần. Trong
công nghiệp bakelit được coi là vật liệu có độ
dẫn nhiệt kém và thường được sử dụng như là
một vật liệu cách nhiệt [9]. Thêm vào đó, chúng
ta có thể so sánh nhiệt dung riêng của vật liệu
geopolyme composit với nhiệt dung riêng của
một số vật liệu thông dụng để có cái nhìn tổng
thể như sau: so với đồng (390 J/kgK) lớn gấp
3,5 lần, so với gạch nung (1000 J/kgK) lớn gấp
1,4 lần và xấp xỉ với nhiệt dung riêng của vật liệu
Hình 4. Sweating Guarded Hotplate
(model SGHP-8.2)
Hình 5. Máy Kéo nén vạn năng (H50-K-S)
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
98 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
bakelite trộn sợi amiăng (1380 J/kgK).
Bảng 2. Tính chất nhiệt của composit trên nền geopolyme
Vật liệu
Hệ số dẫn nhiệt l (W/
mK)
Hệ số cách nhiệt R
(m2K/W)
Nhiệt dung riêng
c (J/kgK)
Geopolyme composit 0,0316 0,0696 1362
Đối với các mẫu vật liệu kết hợp, nếu quá trình chế tạo composit được chia thành hai giai đoạn
(loạt mẫu số 1 và số 2), tức là để cho các lớp vật liệu trên nền polyeste không no xẩy ra quá trình
đông rắn hoàn toàn (ngày thứ nhất) và tiếp tục đắp lên các lớp vật liệu trên nền geopolyme (ngày
thứ hai). Khi thử nghiệm uốn, dạng phá hủy của vật liệu xẩy ra quá trình tách lớp ngay trên bề mặt
liên kết giữa hai vật liệu có nền khác nhau (Hình 5). Ngược lại, khi cả hai composit được thực hiện
một cách liên tục (số 3, số 4 và số 5), kiểu phá hủy của mẫu khi khảo nghiệm có dạng xé rách và
không xẩy ra hiện tượng tách lớp (Hình 6) và đây cũng là điều được kỳ vọng trong chế tạo vật liệu
kết hợp nhiều lớp.
Bảng 3. Độ bền kéo của composit kết hợp nền UPE and geopolymer dựa trên silic đioxyt
Vật liệu kết hợp Độ dãn dài (%) Ứng suất kéo (MPa) Modun đàn hồi (GPa)
No.1 3.46 53.39 3.86
No.2 3.93 47.12 3.39
No.3 4.59 91.87 5.76
No.4 8.36 119.31 3.67
No.5 4.09 93.79 5.55
No.6 5.20 93.60 3.54
Bảng 4. Độ bền uốn của composit kết hợp nền UPE and geopolymer dựa trên silic đioxyt
Vật liệu kết hợp Ứng suất uốn phá hủy (MPa)
Độ biến dạng tỷ đối
(%) Modun đàn hồi (GPa)
No.1 134.96 2.25 21.16
No.2 144.03 2.39 11.67
No.3 99.75 2.83 8.73
No.4 159.40 2.32 9.23
No.5 183.55 1.50 20.03
No.6 213.46 4.61 9.84
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG 99
Theo tiêu chuẩn được quy đinh trong Qui phạm kiểm
tra và chế tạo các tàu làm bằng chất dẻo cốt sợi thủy tinh
(TCVN 6282: 2003), độ bền thấp nhất của vật liệu chế tạo
không bao gồm lớp nhựa phủ lần lượt là:
(1) Độ bền kéo: 10 KG/mm2 (~98 MPa)
(2) Mô đun đàn hồi kéo: 700 KG/mm2 (~6,86 GPa)
(3) Độ bền uốn: 15 KG/mm2 (~147 MPa)
(4) Mô đun đàn hồi uốn: 700 KG/mm2 (~6,86 GPa)
Nếu chỉ đơn thuần so sánh kết quả giá trị trung bình về
ứng suất kéo bảng 2 với giá trị quy định trong Quy phạm
TCVN 6282, ta có 03 chủng loại vật liệu có thể đáp ứng
được đó là chủng loại số 3, số 4 và số 5. Khi chỉ so sánh
giá trị trung bình về ứng suất uốn đưa ra ở bảng 3 với giá trị
quy định trong quy phạm thì ta có chủng loại số 2, số 4 và
số 5 có thể đáp ứng được yêu cầu của quy phạm. Như vậy,
xét tổng hợp cho cả yêu cầu về kéo và uốn thì 02 chủng
loại vật liệu (số 4 và 5) có thể xem xét cho việc nghiên cứu
tiếp theo để ứng dụng trong đóng tàu composit.
Mặt khác, chúng ta cũng dễ dàng có cùng
nhận xét như trên khi so sánh tương đối kết
quả cả về độ bền kéo và độ bền uốn chủng loại
vật liệu đối chứng có cùng vật liệu ban đầu và
phương pháp chế tạo (số 6 - được ứng dụng
rộng rãi trong ngành đóng tàu composit).
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Dựa vào kết quả nghiên cứu ban đầu ở trên
chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Vật liệu composit trên nền geopolyme gia
cường bằng sợi thủy tinh có hệ số dẫn nhiệt
thấp và nhiệt dung riêng cao, tương đồng với
vật liệu thường được sử dụng để cách nhiệt
và chống cháy trong công nghiệp là bakelit và
bakelit trộn sợi amiăng, bên cạnh đó nó không bị
bốc cháy khi chịu đến nhiệt độ lớn hơn 1000oC
với thời gian chịu nhiệt vô hạn [7]. Sử dụng
phương pháp tạo mẫu 4 và 5, vật liệu kết hợp
được tạo ra có cơ tính thỏa mãn các giá trị quy
định trong Quy phạm Kiểm tra và Chế tạo tàu
làm bằng chất dẻo cốt sợi thủy tinh (TCVN 6282:
2003). Như vậy, vật liệu kết hợp composit nền
geopolyme với composit nền polyeste không no
có thể được nghiên cứu ứng dụng như là vật
liệu bề mặt làm chậm hoặc ức chế phản ứng
nhiệt phân và phản ứng oxi hóa trên bề mặt của
polyester chống cháy trên tàu.
- Bản thân vật liệu composit sợi thủy tinh
nền geopolymer không cao, do cơ tính của vật
liệu gia cường dạng thủy tinh bị ảnh hưởng bởi
nồng độ kiềm trong geopolyme, nên khi sử dụng
kết hợp với composit nền polyeste không no, vật
liệu được tạo ra có cơ tính bị giảm đáng kể. Do
vậy, cần nghiên cứu số lớp cần thiết của mỗi
chủng loại vật liệu để khi kết hợp vẫn đảm bảo
độ bền và phát huy khả năng chống cháy của
composit nền geopolyme.
- Kết quả nghiên cứu ban đầu mới chỉ dừng
lại ở việc coi vật liệu composit nền geopolime
có thể sử dụng kết hợp với composit nền
Hình 5. Dạng hỏng tách lớp
Hình 6. Dạng hỏng không tách lớp
Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn Soá 1/2011
100 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG
polyeste không no như một dạng vật liệu hybrid
hay không, đồng thời xác định cơ tính của vật
liệu tạo ra theo các phương pháp chế tạo khác
nhau như thế nào và kết luận về khả năng ứng
dụng vật liệu như là vật liệu chống cháy chỉ dựa
trên cơ chế về quá trình cháy và chống cháy cho
vật liệu polyme, đồng thời so sánh với tính chất
của vật liệu cách nhiệt và chống cháy trong công
nghiệp. Do vậy, để có thể triển khai ứng dụng
kết hợp vật liệu composit trên nền geopolyme và
composit trên nền polyeste không no như một
vật liệu chống cháy cho tàu, cần sử dụng bộ tiêu
chuẩn chống cháy cho tàu thủy (chẳng hạn thời
gian bắt lửa, nhiệt lượng giải phóng, độ đục và
độc tính của khói...) để thí nghiệm kiểm chứng
các tiêu chí cụ thể trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Davidovits, J., (2008), Geopolymer Chemistry & Applications. France: Institute Géopolymèr.
2. Papakonstantinou, C.G., Balaguru, P. and Lyon, R.E., 2001. Comparative study of high temperature
composites. Composites Part B: Engineering, 32(8), p. 637-649.
3. Sheppar, L.M., 2007. Geopolymer Composites: A Ceramics Alternative to Polymer Matrices, The 105th
Annual Meeting and Exposition of the American Ceramic Society.
4. Demarco, R.A., 1991. Composite applications at Sea: Fire Ralated Issues. in Proc. 36th Int’l. SAMPLE
Sumposium.
5. Davidovits, J., 2002. 30 Years of Successes and Failures in Geopolymer Applications - Market trends and
Potential breakthroughs. Proceedding of Geopolymer 2002 Conference. Melbourne, Australia, p. 1-16.
6. Davidovits, J. and Davidovics, M., (1985). Final Report related to the Research project, French Research
Ministry, contract Nr P.0548.
7. Lyon, R.E., Balaguru, P. N., Foden, A., Sorathia, U., Davidovits, J. and Davidovicset M., 1997.
Fire-resistant aluminosilicate composites. Fire and Materials, 21(2): p. 67-73.
8. Davidovits, J., 2005. Geopolymer chemistry and sustainable Development - The Poly(sialate) terminology:
a very useful and simple model for the promotion and understanding of green-chemistry. Proceeding of
Geopolymer 2005 World Congress. Saint-Quentin, France.
9. Kakani, S.L. and Kakani, A., (2004). Material Science. New Age International (P) Ltd., Publishers.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ban_dau_ve_kha_nang_ung_dung_ke_hop_vat_lieu_geop.pdf