Khi tăng tỷ lệ polyme: dược chất từ 3:1 đến 9:1,
KTTP giảm từ 237,6 nm đến 201,9 nm đồng thời
hiệu suất nano hóa tăng từ 15,99% đến 46,28%. Khi
tăng tỉ lệ polyme: dược chất thì dược chất được bao
gói tốt hơn do đó KTTP giảm và hiệu suất nano hóa
tăng lên. Do vậy, tỷ lệ polyme: dược chất là 9:1 được
lựa chọn để tiến hành bào chế tiểu phân nano.
Tiểu phân nano chứa MTZ cho thấy khả năng giải
phóng dược chất kéo dài so với dạng nguyên liệu từ
đó, giúp định hướng cho việc bào chế thành phẩm
dạng gel dùng tại khoang miệng chứa tiểu phân
nano MTZ. Phương trình Korsmeyer-Peppas mô tả
tốt nhất động học giải phóng của dược chất có hệ
số mũ khuếch tán n bằng 0,377 (dưới giá trị 0,43 đối
với các mẫu có dạng hình cầu) chứng tỏ sự khuếch
tán Fick là một trong cơ chế vận chuyển thuốc hoặc
có thể là sự kết hợp của các cơ chế khuếch tán và ăn
mòn polyme [9]. Ngoài ra, với độ tan của MTZ trong
nước khoảng 10 mg/ml thì việc áp dụng ống ly tâm
màng để đánh giá hàm lượng dược chất tự do từ đó
làm cơ sở để tính toán hiệu suất nano hóa là hoàn
toàn phù hợp trong nghiên cứu này do các tỉ lệ dược
chất khảo sát đều nằm dưới giới hạn này.
Đây là một trong những nghiên cứu bước đầu
trong quá trình phát triển các dạng bào chế chứa
tiểu phân nano trong điều trị viêm nha chu nói riêng
và các bệnh nhiễm khuẩn sử dụng MTZ nói chung.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bào chế hệ tiểu phân nano polyme chứa metronidazol, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
99
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Địa chỉ liên hệ: Hồ Hoàng Nhân, email: hhnhan@huemed-univ.edu.vn 
Ngày nhận bài: 23/6/2020; Ngày đồng ý đăng: 2/8/2020
Nghiên cứu bào chế hệ tiểu phân nano polyme chứa metronidazol
Hồ Hoàng Nhân, Nguyễn Văn Anh Tuấn, 
Hồ Nguyễn Anh Thư, Lê Thị Thanh Ngọc, Lê Hoàng Hảo
Khoa Dược, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Viêm nha chu là một bệnh nhiễm khuẩn mãn tính gây phá hủy các mô nâng đỡ răng. Mặc dù 
hiệu quả của metronidazol trong điều trị viêm nha chu tốt, tuy nhiên, thời gian giải phóng nhanh, số lần sử 
dụng nhiều lần trong đợt trị liệu sẽ là trở ngại khi điều trị viêm nha chu tại chỗ. Do đó, phương pháp nano hóa 
là cần thiết nhằm kéo dài thời gian tác dụng, giảm số lần sử dụng trong ngày. Mục tiêu: Xây dựng được công 
thức và quy trình bào chế tiểu phân nano chứa metronidazol bằng phương pháp kết tủa, đánh giá các đặc 
tính lý hóa của tiểu phân nano chứa metronidazol. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu: Metronidazol, 
polyme Eudragit RS100 đã được sử dụng. Tiểu phân nano chứa metronidazol được bào chế bằng phương 
pháp kết tủa do thay đổi dung môi. Nghiên cứu tiến hành khảo sát các yếu tố thuộc về công thức và quy trình 
bào chế tiểu phân nano chứa metronidazol đồng thời đánh giá các đặc tính của hệ. Kết quả: Bào chế được 
tiểu phân nano chứa metronidazol với kích thước tiểu phân là 201,9 ± 5,6 nm, PDI = 0,092 ± 0,014 với hiệu 
suất nano hóa là 46,28 ± 1,18%. Tiểu phân nano có khả năng giải phóng dược chất kéo dài (với 53,45 ± 1,49% 
ở 24 giờ). Phương trình Korsmeyer-Peppas mô tả tốt nhất động học giải phóng của dược chất từ tiểu phân 
nano metronidazol.
Từ khóa: Metronidazol, tiểu phân nano, viêm nha chu
Abstract
Preparation and characterization of polymeric nanoparticles 
containing metronidazole
Ho Hoang Nhan, Nguyen Van Anh Tuan, 
Ho Nguyen Anh Thu, Le Thi Thanh Ngoc, Le Hoang Hao
Faculty of Pharmacy, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background (including purposes): Periodontitis is a chronic bacterial infection destroying tooth 
supporting tissues. Although metronidazole exhibits a high effectiveness in the periodontitis treatment, its 
fast release and the usage frequency of several times per day can become obstacles for the local treatment. 
Therefore, nanotechnology is necessary to extend the duration of action and reduce the frequency of drug 
usage per day. The aim of this study was to formulate metronidazole nanoparticles by the nanoprecipitation 
method and to evaluate their physicochemical properties. Materials and methods: Metronidazole, Eudragit 
RS100 polymer were used in this study. Nanoparticles containing metronidazole were prepared by the 
nanoprecipitation method. The factors of the formulation and manufacturing process of nanoparticles 
containing metronidazole were investigated. The resulting nanoparticles were characterized in terms of the 
particle size, polydispersed index (PDI), encapsulation efficiency, etc. Results: The nanoparticles containing 
metronidazole were successfully prepared with the spherical shape, the particle size of 201.9 ± 5.6 nm, PDI 
of 0.092 ± 0.014, and entrapment efficiency of 46.28 ± 1.18%. These nanoparticles could prolong the drug 
release (53.45 ± 1.49% at 24 hours). The Korsmeyer-Peppas equation best described the release kinetics of 
the drug from metronidazole nanoparticles.
Keywords: Metronidazole, nanoparticle, periodontitis
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, bệnh nha chu là một bệnh rất thường 
gặp. Theo thống kê của Viện Răng Hàm Mặt Trung 
ương, Việt Nam có trên 90% dân số mắc các bệnh 
về răng miệng, tập trung ở các bệnh như sâu răng, 
viêm nướu răng, viêm quanh răng trong đó tỷ lệ 
người lớn có bệnh viêm nướu và viêm quanh răng 
là trên 90%. Viêm nha chu là một bệnh nhiễm khuẩn 
mãn tính gây phá hủy các mô nâng đỡ răng. Đây là 
nguyên nhân gây mất răng hàng đầu ở người trưởng 
thành [6].
Metronidazol (MTZ), là một kháng sinh thuộc 
DOI: 10.34071/jmp.2020.4.13
100
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
nhóm nitro imidazol, đã được sử dụng trong điều trị 
bệnh nha chu do có thể tác động lên vi khuẩn kỵ khí 
bắt buộc [4] bằng cách can thiệp vào quá trình tổng 
hợp acit nucleic [3]. Mặc dù hiệu quả của MTZ trong 
điều trị viêm nha chu tốt, tuy nhiên, thời gian giải 
phóng nhanh của MTZ và số lần sử dụng nhiều lần 
trong đợt trị liệu sẽ là trở ngại khi điều trị viêm nha 
chu tại chỗ. Do đó, phương pháp nano hóa là cần 
thiết nhằm tăng sinh khả dụng, kéo dài thời gian tác 
dụng của MTZ, đồng thời, đây cũng là một sản phẩm 
trung gian nhằm bào chế thành phẩm dạng gel định 
hướng dùng tại khoang miệng.
Trong các phương pháp bào chế tiểu phân nano 
polyme, phương pháp kết tủa do thay đổi dung môi 
là kĩ thuật đơn giản nhất không phải sử dụng thiết bị 
máy móc hiện đại, có thể áp dụng để nâng cấp quy 
mô sản xuất [7]. Vì những lý do trên, đề tài “Nghiên 
cứu bào chế hệ tiểu phân nano chứa metronidazol” 
được tiến hành với các mục tiêu sau:
- Xây dựng được công thức và quy trình bào chế 
tiểu phân nano metronidazol bằng phương pháp kết 
tủa.
- Đánh giá các đặc tính lý hóa của tiểu phân nano 
chứa metronidazol.
2. NGUYÊN LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nguyên liệu: MTZ (độ tinh khiết 99%) từ 
Trung Quốc; Eudragit RS100 (Eud) từ Evonik, Đức; 
aceton, Tween 80, acid hydroclorid (HCl) tinh khiết 
hóa học (Trung Quốc). 
2.2. Thiết bị: Máy đo thế Zeta và xác định phân 
bố KTTP Zetasizer ZS90 (Malvern-Anh), máy khuấy 
từ MS7 (Hoa Kỳ), máy đo SEM Hitachi S-4800 Nhật 
Bản, Máy ly tâm lạnh Z326K (Đức), Máy đo pH 
sension PH3 HACH (Tây Ban Nha), Cân phân tích HR-
250AZ (Hàn Quốc), Thiết bị đánh giá khả năng phóng 
thích thuốc qua màng Hanson Research (Mỹ), Máy 
đo quang phổ UV-Vis JascoV-530 (Nhật), ống ly tâm 
chứa màng siêu lọc (MWCO 10kDa, Millipore, USA) 
và một số dụng cụ, thiết bị bào chế, phân tích khác,
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp bào chế tiểu phân nano chứa 
metronidazol
MTZ nano polyme được bào chế bằng phương 
pháp kết tủa do thay đổi dung môi với các bước tiến 
hành như sau: Hòa tan dược chất và polyme vào 
dung môi là aceton. Phân tán dung dịch Tween 80 
vào pha dầu dưới tác động của lực khuấy từ 1000 
vòng/phút trong 30 phút. Sau đó, đem cô cách thủy 
ở nhiệt độ 50oC - 60oC, hỗn dịch nano thu được mang 
đi ly tâm bằng ống ly tâm màng (MWCO 10kDa) với 
tốc độ 5000 vòng/phút trong 30 phút. Phần cắn rửa 
với nước cất sau đó phân tán lại vào 20 ml nước cất.
Phương pháp đánh giá đặc tính của tiểu phân
Đánh giá kích thước tiểu phân và phân bố kích 
thước tiểu phân: Kích thước tiểu phân trung bình 
(KTTP) (theo kiểu phân bố cường độ - Intensity 
distribution) được xác định bằng phương pháp tán 
xạ ánh sáng động (DLS) sử dụng thiết bị Zetasizer 
Nano ZS90 (Malvern Instruments Ltd., Anh). Lấy 2 
ml hỗn dịch nano sau khi tạo thành, tiến hành pha 
loãng 5 lần bằng nước cất đã lọc qua màng lọc 0,2 
μm, sau đó đo KTTP và phân bố KTTP (PDI).
Đánh giá hình thái tiểu phân: Tiến hành pha 
loãng 50 lần hỗn dịch đặc chứa tiểu phân nano 
polyme, nhỏ trên giấy nhôm. Để khô bề mặt giấy 
nhôm ở nhiệt độ phòng. Sau đó, quan sát mẫu bằng 
kính hiển vi điện tử quét (SEM – Scanning Electron 
Microscope) (Hitachi S-4800 Nhật Bản).
Định lượng metronidazol: Tiến hành bằng 
phương pháp đo quang UV-Vis. Mẫu thử được pha 
loãng bằng dung dịch HCl 0,1N từ khoảng nồng độ 
2 đến 20 µg/ml. Đo độ hấp thụ quang ở bước sóng 
hấp thụ cực đại 277 nm. Xác định nồng độ MTZ dựa 
vào phương trình đường chuẩn biểu diễn sự phụ 
thuộc của nồng độ MTZ và độ hấp thụ quang ở bước 
sóng cực đại.
Đánh giá hiệu suất nano hóa: Hiệu suất nano 
hóa được đánh giá bằng tỷ lệ phần trăm giữa lượng 
MTZ tồn tại ở dạng nano và lượng MTZ tham gia vào 
quy trình. Định lượng hàm lượng dược chất tự do 
sử dụng ống ly tâm có màng 10kDa (MWCO 10 kDa, 
Millipore, Mỹ). Hút chính xác 2 ml hỗn dịch nano, ly 
tâm ở 4500 vòng/phút trong 30 phút. Lấy phần dịch 
trong bên dưới, sau đó tiến hành định lượng bằng 
phương pháp đo quang UV-Vis. Hiệu suất mang 
thuốc (EE) được tính theo công thức sau [5]:
EE (%) =
MTZ
lý thuyết
 – MTZ
tự do
x 100%
MTZ
lý thuyết
Khả năng giải phóng dược chất in vitro: được đánh 
giá bằng tế bào khuếch tán Franz. Sử dụng màng 
cellulose acetate 0,45 µm, diện tích bề mặt khuếch 
tán là 1,76 cm2. Môi trường khuếch tán là 7 ml dung 
dịch đệm phosphat pH 7,4. Nhiệt độ môi trường 
khuếch tán: 37 ± 0,5oC, tốc độ khuấy 350 vòng/phút. 
Sau những thời điểm nhất định, tiến hành lấy mẫu, 
mỗi lần lấy 1ml môi trường giải phóng và bổ sung 1 
ml môi trường khuếch tán mới. Xác định lượng MTZ 
giải phóng bằng phương pháp đo quang đã trình bày 
ở phần định lượng.
Phân tích động học giải phóng: Dữ liệu giải phóng 
dược chất được đưa vào các mô hình toán học khác 
nhau nhằm làm rõ hơn cơ chế giải phóng dược chất. 
Hệ số AIC (Akaike information criterion) cũng được 
sử dụng để lựa chọn mô hình giải phóng phù hợp. 
101
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Với cùng một tập dữ liệu giải phóng, mô hình có giá 
trị AIC nhỏ nhất được xem là mô hình phù hợp nhất. 
AIC được tính theo công thức sau:
AIC = n×ln(WSSR) + 2 × p
Trong đó: n: Số điểm dữ liệu giải phóng; p: Số 
tham số của mô hình; WSSR: Tổng bình phương 
phần dư có trọng số
Hệ số AIC được sử dụng để kiểm tra khả năng áp 
dụng của các mô hình giải phóng [1]. Các giá trị AIC 
và các hệ số khác như k, n, ... trong các mô hình này 
được tính toán dựa vào phần mềm Splus 8.0 để mô 
hình hóa và so sánh các dữ kiện hòa tan.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Xây dựng công thức và quy trình bào chế 
tiểu phân nano MTZ
Qua tham khảo các nghiên cứu bào chế tiểu 
phân nano polyme trước đây, tiến hành cố định một 
số yếu tố trong công thức và quy trình bào chế như 
sau:
- Chất diện hoạt sử dụng: Tween 80
- Dung môi hữu cơ lựa chọn: aceton
- Tốc độ máy khuấy từ: 1000 vòng/phút
- Tốc độ phối hợp hai pha: chậm
Tiến hành đánh giá sự ảnh hưởng của các yếu tố 
thuộc công thức và quy trình bào chế như nồng độ 
polyme, nồng độ chất diện hoạt, tỉ lệ pha nước : pha 
dầu, nồng độ MTZ, cách thức phối hợp hai pha đến 
đặc tính lý hóa của tiểu phân.
3.3. Khảo sát trình tự phối hợp hai pha
Cố định nồng độ polyme là 3 mg/ml, tỷ lệ Tween 
80 là 1%, tỷ lệ pha nước/pha dầu là 1:1, thay đổi 
thứ tự phối hợp hai pha. Đặc tính cảm quan của 
nhũ tương nano MTZ tạo thành được thể hiện trong 
bảng 1.
Bảng 1. Ảnh hưởng của trình tự phối hợp 
hai pha đến đặc tính cảm quan
 của nhũ tương nano MTZ
Trình tự phối hợp Đặc tính cảm quan
Pha dầu vào pha 
nước
Dung dịch đục, xuất hiện 
tủa
Pha nước vào pha 
dầu
Dung dịch đục, không xuất 
hiện tủa
 Dựa vào đặc tính cảm quan, lựa chọn cách thức 
phối hợp pha nước vào pha dầu để thu được KTTP 
nhỏ hơn. 
3.4. Khảo sát nồng độ polyme Eudragit RS100
Cố định nồng độ chất diện hoạt là 1%, tỷ lệ pha 
nước: pha dầu là 1:1, tỷ lệ polyme: dược chất là 9:1, 
thay đổi nồng độ polyme từ 1 mg/ml đến 9 mg/ml. 
Kết quả đặc tính tiểu phân được thể hiện ở hình 1(A).
Hình 1. Ảnh hưởng của nồng độ polyme (A), của nồng độ Tween 80 (B) đến đặc tính 
của tiểu phân nano MTZ
Dựa vào kết quả ở hình 1(A), nồng độ polyme 
5 mg/ml có KTTP nhỏ nhất với PDI phù hợp, đồng 
thời hiệu suất nano hóa cao nhất. Do đó, nồng độ 
polyme 5 mg/ml được lựa chọn để thử nghiệm tiếp 
theo.
3.2. Khảo sát nồng độ chất diện hoạt Tween 80
Cố định nồng độ polyme Eudragit RS100 là 5 
mg/ml, tỷ lệ pha nước: pha dầu là 1:1, tỷ lệ polyme: 
dược chất là 9:1, thay đổi nồng độ Tween 80 từ 1% 
đến 5%. Kết quả đánh giá đặc tính tiểu phân được 
thể hiện ở hình 1(B) cho thấy nồng độ Tween 80 
1% có KTTP nhỏ nhất và PDI phù hợp nên nồng độ 
Tween 80 là 1% được lựa chọn để thực hiện thử 
nghiệm tiếp theo.
3.5. Khảo sát tỷ lệ pha nước: pha dầu
Cố định nồng độ polyme Eudragit RS100 là 5 mg/
ml, tỷ lệ Tween 80 là 1%, tỷ lệ polyme: dược chất là 
9:1, thay đổi tỉ lệ pha nước : pha dầu từ 1:1 đến 5:1. 
Kết quả các đặc tính tiểu phân được thể hiện trong 
hình 2(A).
102
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Hình 2. Ảnh hưởng của tỷ lệ pha nước: pha dầu (A), của tỷ lệ polyme: dược chất (B) đến 
đặc tính tiểu phân nano MTZ
Tỷ lệ pha nước: pha dầu là 1:1 cho KTTP nhỏ nhất 
và PDI phù hợp nên tỷ lệ pha nước: pha dầu là 1:1 
được lựa chọn để thực hiện thử nghiệm tiếp theo.
Khảo sát tỷ lệ polyme: dược chất
Cố định nồng độ polyme Eudragit RS100 là 5 mg/
ml, tỷ lệ Tween 80 là 1%, tỷ lệ pha nước : pha dầu từ 
1:1, thay đổi tỷ lệ polyme: dược chất từ 3:1 đến 9:1. 
Kết quả các đặc tính tiểu phân được thể hiện trong 
hình 2(B).
Tỷ lệ polyme: dược chất là 9:1 có KTTP nhỏ nhất 
và PDI đạt yêu cầu, đồng thời hiệu suất nano hóa 
cao nhất. Do đó, tỷ lệ polyme: dược chất là 9:1 được 
lựa chọn để bào chế tiểu phân nano.
Dựa vào kết quả đánh giá một số ảnh hưởng đến 
đặc tính tiểu phân nano ở trên, nghiên cứu đã xây 
dựng được quy trình và công thức bào chế tiểu phân 
nano chứa MTZ.
Công thức bào chế tiểu phân nano chứa MTZ:
- Nồng độ polyme Eudragit RS100: 5 mg/ml
- Nồng độ chất diện hoạt Tween 80: 1% (10 mg/ml)
- Tỷ lệ pha nước: pha dầu: 1:1
- Tỷ lệ polyme: dược chất: 9:1
Đánh giá các đặc tính lý hóa của tiểu phân nano 
metronidazol
Kích thước, phân bố kích thước và hình thái tiểu phân
Tiểu phân nano thu được từ công thức tốt nhất 
có hình cầu (hình 3) với KTTP phù hợp với kết quả ghi 
nhận bằng phương pháp tán xạ ánh sáng động DLS 
(n=3, KTTP = 201,9 ± 5,6 nm, PDI = 0,092 ± 0,014). 
Ngoài ra, hiệu suất nano hóa là 46,28 ± 1,18 %.
Hình 3. Hình ảnh SEM của tiểu phân nano MTZ
Đánh giá khả năng giải phóng dược chất in vitro
Quá trình giải phóng của dược chất ở hình 4 trải 
qua hai giai đoạn khá rõ rệt, giai đoạn đầu đặc trưng 
bởi quá trình giải phóng nhanh chóng của dược chất 
(khoảng 40% trong 6h đầu). Tiếp sau đó là quá trình 
giải phóng chậm, lượng dược chất được giải phóng 
từ từ đến 24h, đạt khoảng 53,45% ± 1,49%. So với 
mẫu nguyên liệu, tiểu phân nano giải phóng chậm 
hơn. Điều này cho thấy tiềm năng trong việc bào chế 
các dạng thuốc tác dụng kéo dài.
Hình 4. Đồ thị biểu diễn khả năng giải phóng dược chất in vitro của tiểu phân nano MTZ
103
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Phân tích động học giải phóng
Bảng 2. Kết quả phân tích động học giải phóng của tiểu phân nano MTZ
Mô hình Phương trình sau khi khớp Số tham số mô hình AIC
Bậc 0 Q
t
 = 19,84 + 1,66 × t 2 41,64
Higuchi Q
t
 = 6,49 + 10,85 × t1/2 2 32,04
Bậc 1 Q
t
= 100 × (1 – e-0,064 × t) 1 45,74
Hixson-Crowell Q
t
=100 × (1 – (1 – 0,018 × t)3) 1 48,76
Korsmeyer-Peppas Q
t
= 17,35 * t0,377 2 28,08
 Các phương trình bậc 0, Higuchi, bậc 1 và Hixson-
Crowell có giá trị AIC lớn hơn giá trị AIC của 
phương trình Korsmeyer-Peppas nên phương trình 
Korsmeyer-Peppas mô tả tốt nhất động học giải 
phóng của dược chất từ tiểu phân nano MTZ. Về cơ 
chế giải phóng, giá trị hằng số mũ n thu được từ mô 
hình Korsmeyer-Peppas là 0,377 nên chưa thể kết 
luận về cơ chế giải phóng dược chất, có thể hỗn hợp 
của các cơ chế khuếch tán, ăn mòn polyme và cơ chế 
khác chưa biết.
4. BÀN LUẬN
Kích thước của tiểu phân nano polyme phụ 
thuộc vào các yếu tố từ công thức và kỹ thuật bào 
chế. Trong nghiên cứu này, ảnh hưởng của các yếu 
tố thuộc về công thức đến các đặc tính của tiểu phân 
nano sau khi bào chế đã được đánh giá.
MTZ tan được cả trong pha nước và pha dầu, 
tuy nhiên polyme Eudragit lại dễ tan trong aceton 
hơn trong nước. Vì vậy khi phối hợp pha dầu vào 
pha nước dẫn đến sự thay đổi độ tan của polyme và 
dược chất xảy ra nhanh chóng nên xuất hiện kết tủa 
nhỏ. Còn khi phối hợp pha nước vào pha dầu, độ tan 
của polyme và dược chất trong dung dịch này thay 
đổi chậm hơn, nên hỗn dịch thu được có cảm quan 
đạt yêu cầu. Do đó, nghiên cứu lựa chọn cách phối 
hợp pha nước vào pha dầu để tiếp tục bào chế tiểu 
phân nano.
Nồng độ polyme phải được lựa chọn vừa đủ để 
tạo tiểu phân nano. Nồng độ polyme thấp (1 mg/
ml) không đủ để bao gói dược chất do đó một phần 
dược chất kết tụ lại làm tăng KTTP. Nồng độ polyme 
cao (9 mg/ml) có thể làm cho lớp vỏ của tiểu phân 
dày lên, đồng thời polyme thừa trương nở và kết 
dính vào các tiểu phân làm tăng kích thước và giảm 
độ đồng đều giữa các tiểu phân. Mặt khác, khi sử 
dụng nồng độ polyme cao, độ nhớt của pha dầu 
tăng lên gây cản trở quá trình phân tán hai pha vào 
nhau. Do đó, kích thước và phân bố kích thước tiểu 
phân của trường hợp này lớn cũng như hiệu suất 
nano hóa thấp. Vì vậy, lựa chọn nồng độ polyme 5 
mg/ml để bào chế tiểu phân nano thu được KTTP và 
hiệu suất nano hóa ổn định. 
Khi tăng nồng độ chất diện hoạt Tween 80 từ 
1% đến 5%, KTTP tăng từ 201 nm đến 226 nm. Điều 
này có thể được giải thích do khi tăng nồng độ chất 
diện hoạt thì dung dịch pha nước trở nên sánh nhớt, 
ảnh hưởng đến cân bằng giữa sức căng bề mặt và 
độ nhớt pha nước, làm cho sự phân tán diễn ra khó 
khăn hơn, gây cản trở quá trình tạo thành các tiểu 
phân có kích thước nhỏ. Cũng do đó, PDI tăng dần 
khi tăng nồng độ chất diện hoạt. Mặc khác, hiệu suất 
nano hóa thay đổi không theo quy luật. Điều này có 
thể do nồng độ chất diện hoạt ảnh hưởng đến độ 
tan của hoạt chất nên ở các công thức có nồng độ 
Tween 80 là 4%, 5% thì hiệu suất nano hóa cao tuy 
nhiên kích thước và phân bố kích thước tiểu phân lại 
có giá trị cao. Do đó, nghiên cứu lựa chọn nồng độ 
chất diện hoạt tween 80 sử dụng là 1%.
Khi thay đổi tỷ lệ pha nước: pha dầu từ 1:1 lên 
5:1, KTTP tăng giảm không theo qui luật. Tuy nhiên, 
KTTP có giá trị lớn trong các công thức có tỷ lệ pha 
nước: pha dầu cao. Điều này có thể do khi tăng tỷ lệ 
pha nước: pha dầu, thể tích pha dầu nhỏ nên nồng 
độ polyme tăng cao. Do đó, độ nhớt của pha dầu 
sẽ tăng làm tăng KTTP và PDI [2]. Đồng thời, trong 
quá trình khuấy trộn với một lượng dung môi pha 
dầu nhỏ và tốc độ khuấy trộn không đổi sẽ làm tăng 
khả năng tạo bọt, cản trở sự phân tán của tiểu phân 
đồng thời làm thay đổi nhanh trạng thái bão hòa của 
DC trong hỗn hợp dung môi do đó KTTP có xu hướng 
tăng. Khi giảm thể tích pha nước, sự khuấy trộn diễn 
ra dễ dàng hơn, bọt ít tạo ra nên KTTP giảm [8]. Mặt 
khác, MTZ có khả năng tan trong nước.Vì vậy, khi 
tăng tỷ lệ pha nước, dược chất có thể bị hòa tan, 
gây hao hụt trong quá trình bào chế và hiệu suất 
nano hóa giảm. Do đó nghiên cứu lựa chọn tỷ lệ pha 
nước: pha dầu 1:1.
Khi tăng tỷ lệ polyme: dược chất từ 3:1 đến 9:1, 
KTTP giảm từ 237,6 nm đến 201,9 nm đồng thời 
hiệu suất nano hóa tăng từ 15,99% đến 46,28%. Khi 
tăng tỉ lệ polyme: dược chất thì dược chất được bao 
gói tốt hơn do đó KTTP giảm và hiệu suất nano hóa 
tăng lên. Do vậy, tỷ lệ polyme: dược chất là 9:1 được 
104
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
lựa chọn để tiến hành bào chế tiểu phân nano.
Tiểu phân nano chứa MTZ cho thấy khả năng giải 
phóng dược chất kéo dài so với dạng nguyên liệu từ 
đó, giúp định hướng cho việc bào chế thành phẩm 
dạng gel dùng tại khoang miệng chứa tiểu phân 
nano MTZ. Phương trình Korsmeyer-Peppas mô tả 
tốt nhất động học giải phóng của dược chất có hệ 
số mũ khuếch tán n bằng 0,377 (dưới giá trị 0,43 đối 
với các mẫu có dạng hình cầu) chứng tỏ sự khuếch 
tán Fick là một trong cơ chế vận chuyển thuốc hoặc 
có thể là sự kết hợp của các cơ chế khuếch tán và ăn 
mòn polyme [9]. Ngoài ra, với độ tan của MTZ trong 
nước khoảng 10 mg/ml thì việc áp dụng ống ly tâm 
màng để đánh giá hàm lượng dược chất tự do từ đó 
làm cơ sở để tính toán hiệu suất nano hóa là hoàn 
toàn phù hợp trong nghiên cứu này do các tỉ lệ dược 
chất khảo sát đều nằm dưới giới hạn này.
Đây là một trong những nghiên cứu bước đầu 
trong quá trình phát triển các dạng bào chế chứa 
tiểu phân nano trong điều trị viêm nha chu nói riêng 
và các bệnh nhiễm khuẩn sử dụng MTZ nói chung.
5. KẾT LUẬN
Đã đánh giá được ảnh hưởng của nồng độ 
polyme, nồng độ chất diện hoạt, tỷ lệ pha nước: 
pha dầu, tỷ lệ polyme: dược chất đến đặc tính của 
tiểu phân nano chứa MTZ. Từ đó, bào chế được tiểu 
phân nano chứa MTZ bằng phương pháp kết tủa 
do thay đổi dung môi với kích thước tiểu phân là 
201,9 ± 5,6 nm, tương đối đồng đều (PDI = 0,092 ± 
0,014) với hiệu suất nano hóa là 46,28 ± 1,18%. Tiểu 
phân nano có khả năng giải phóng dược chất kéo 
dài (thời điểm 24h phần trăm giải phóng là 53,45% 
± 1,49%). Phương trình Korsmeyer-Peppas mô tả 
tốt nhất động học giải phóng của dược chất từ tiểu 
phân nano MTZ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Macheras P., Iliadis A. (2006), “Modeling 
in biopharmaceutics, pharmacokinetics, and 
pharmacodynamics”, Interdiscip. Appl. Math, 30, pp. 3-14.
2. Madani F., Esnaashari S. S., Mujokoro B., et 
al. (2018), “Investigation of effective parameters on 
size of paclitaxel loaded plga nanoparticles”, Advanced 
pharmaceutical bulletin, 8(1), pp. 77.
3. Magnusson I. (1998), “The use of locally-
delivered metronidazole in the treatment of periodontitis. 
Clinical results”, Journal of clinical Periodontology, 25(11), 
pp. 959-963.
4. Muller M., Lindmark D. G., McLaughlin J. 
(1979), Mode of action of metronidazole on anaerobic 
microorganisms, Metronidazole. Proceedings of the 2nd 
international symposium on anaerobic infection. Geneva, 
April,pp. 221-8.
5. Nguyen H. T., Tran T. H., Kim J. O., et al. (2014), 
“Enhancing the in vitro anti-cancer efficacy of artesunate 
by loading into poly-D,L-lactide-co-glycolide (PLGA) 
nanoparticles”, Archives of Pharmacal Research, 38(5), 
pp. 716-24.
6. NIH Osteoporosis and Related Bone Diseases ~ 
National Resource Center (2020), Oral Health and Bone 
Disease, Retrieved from https://www.bones.nih.gov/
health-info/bone/bone-health/oral-health/oral-health-
and-bone-disease (12/09/2020).
7. Pegi Ahlin Grabnar J. K. (2011), “The 
manufacturing techniques of drug-loaded polymeric 
nanoparticles from preformed polymers”, Journal of 
Microencapsulation, 28(4), pp. 323–335.
8. Sharma N. M. P., et al. ( 2015), “ Effect of process 
and formulation variables on the preparation of parenteral 
paclitaxel-loaded biodegradable polymeric nanoparticles: 
A co-surfactant study“, Asian Journal of Pharmaceutical 
Sciences, pp. 404-416.
9. Siepmann J., Göpferich A. (2001), “Mathematical 
modeling of bioerodible, polymeric drug delivery systems”, 
Advanced Drug Delivery Reviews, 48(2-3), pp. 229-247.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_bao_che_he_tieu_phan_nano_polyme_chua_metronidazo.pdf