Các mẫu hỗn dịch niosome thu được đồng nhất
màu xanh lục nhạt, có KTTP nhỏ, dao động từ 100
nm đến 300 nm, PDI từ 0,1 đến 0,3. KTTP và PDI
nhỏ nhất được xác định ở các mẫu niosome N4 và N7.
Đồ thị hình 5 cho thấy, niosome của công thức N4
nhỏ, phân bố hẹp và chỉ có 1 peak, không có peak
ngoại lai. Việc đánh giá KTTP của hệ nano chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi các tạp vật lý có thể ngẫu nhiên
lẫn trong mẫu. Trong nghiên cứu này, nhiều biện pháp
được áp dụng để loại được tối đa tạp vật lý ảnh hưởng
đến phép đo kích thước tiểu phân. Cụ thể, dịch chiết
lô hội được tách các hợp chất cao phân tử như chất
xơ, chất nhày bằng hỗn hợp các phương pháp như
đông lạnh – rã đông, ly tâm ở tốc độ cao 15000
vòng/phút và lọc qua màng lọc 0,45 µm. Nước tinh
khiết được xử lý bằng phương pháp siêu lọc, sau đó
được lọc qua màng 0,2 µm để loại bỏ tiểu phân bụi
mịn có thể lẫn vào mẫu. Hơn nữa, việc chuẩn bị và
phân tích kích thước được tiến hành trong phòng kín,
sạch. Kết quả phổ KTTP của mẫu (Hình 5) có thể
khẳng định, hỗn hợp các biện pháp áp dụng cho kết
quả tốt trong việc đánh giá KTTP của niosome rutinlô hội.
Hiệu suất niosome hóa (%EE) và khả năng nạp
dược chất (%LC) đều tăng khi tăng tỉ lệ mol dược
chất/tá dược. Công thức N4 có hiệu suất niosome hóa
(95,57%) và khả năng nạp thuốc (32,06 %) cao nhất
trong 7 công thức khảo sát. Điều này có thể giải thích
là do khi tăng dần lượng mol dược chất, số lượng
phân tử rutin nằm xen kẽ giữa Span và cholesterol
tăng dần để lớp màng bền chặt và cấu trúc niosme ổn
định hơn từ đó làm tăng hiệu suất niosome hóa rutin
trong niosome. Vì vậy, lựa chọn công thức N4 để tiếp
tục nghiên cứu đánh giá đặc tính lý hóa và đặc tính
thấm của tiểu phân niosome rutin-lô hội.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 13 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bào chế nano niosome mang rutin và dịch chiết gel lô hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
46
Original Article
Preparation of Nano Niosomes Loaded with Rutin
and Aloe Gel Extract
Tran Thi Hai Yen*, Hoang Thi Hien, Vu Thi Thu Giang
Hanoi Univestity of Pharmacy, 13-15 Le Thanh Tong, Hoan Kiem, Hanoi, Vietnam
Received 17 February 2020
Revised 20 February 2020; Accepted 20 March 2020
Abstract: Rutin is a natural flavonoid that has many effects on human health and beauty. However,
rutin has low solubility and bioavailability. Niosomes are drug delivery system that enhance drug
permeation of drug through the skin. Aloe is widly used in cosmetic preparations due to its anti-
aging, moisturizing and essential skin nutrients. Therefore, the aim of study is preparation of nano
niosomes, loaded with rutin and aloe gel extraction (rutin-aloe niosomes) by thin film hydration
method. Rutin niosomes was reduced size by ultrasonic method. The size and distribution of vesicles
were determined by dynamic light scattering method. Drug content in niosomal suspension was
determined by UV-Vis absorption spectroscopy. The results showed that rutin-aloe niosomes were
prepared by thin-film hydration method using Span 60, cholesterol and rutin in molar ratio of 7:3:4
using aloe gel extract as hydration solvent. Mixture of methanol-chloroform (volume ratio 1:1) was
used as solvent for solution of membrane companents for evaporation. The manufactured rutin -
aloe niosomes had size of about 160 nm, the entrapment efficiency was 95,57% and drug
loading was 32,06%.
Keywords: Rutin, aloe, niosomes, nano, entrapment efficiency, drug loading.*
________
* Corresponding author.
E-mail address: tranyendhd@gmai.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4208
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
47
Nghiên cứu bào chế nano niosome mang rutin
và dịch chiết gel lô hội
Trần Thị Hải Yến*, Hoàng Thị Hiền, Vũ Thị Thu Giang
13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam
Nhận ngày 17 tháng 02 năm 2020
Chỉnh sửa ngày 20 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 3 năm 2020
Tóm tắt: Rutin hay còn gọi là vitamin P, là một flavonoid tự nhiên có nhiều tác dụng cho sức khỏe
và sắc đẹp của con người. Tuy nhiên rutin có độ tan và sinh khả dụng thấp. Trong khi đó niosome
là hệ mang thuốc được sủ dụng để tăng độ tan cho dược chất ít tan và cải thiện tính thấm qua da của
dược chất. Lô hội sử dụng nhiều trong các chế phẩm mỹ phẩm do có tác dụng chống lão hóa, giữ
ẩm và cung cấp các dưỡng chất thiết yếu cho da. Do vậy, mục tiêu của nghiên cứu là bào chế nano
niosome mang rutin và dịch chiết gel lô hội (niosome rutin-lô hội) bằng phương pháp hydrat hóa
màng film. Niosome rutin thô được làm giảm KTTP bằng phương pháp siêu âm, đánh giá kích thước
tiểu phân và phân bố KTTP dựa trên nguyên tắc tán xạ ánh sáng động. Hiệu suất niosome hóa và
khả năng mang thuốc được đánh giá bằng phương pháp quang phổ hấp thụ UV-Vis. Kết quả cho
thấy niosome rutin – lô hội đã được bào chế bằng phương pháp hydrat hóa màng film sử dụng Span
60, cholesterol và rutin với tỉ lệ mol 7:3:4 và dịch chiết gel lô hội làm dung dịch hydrat hóa. Hỗn
hợp dung môi methanol-chloroform (tỉ lệ thể tích 1:1) được sử dụng để hòa tan các thành phần của
màng, sau đó cất quay bốc hơi dung môi trong 3 giờ. Niosome rutin-lô hội bào chế được có kích
thước nhỏ khoảng 160 nm, hiệu suất niosome hóa đat 95,57% và khả năng mang thuốc đạt 32,06%.
Từ khóa: Rutin, lô hội, niosomes, nano, hiệu suất niosome hóa, khả năng mang thuốc.
1. Đặt vấn đề*
Rutin hay còn gọi là vitamin P, là một flavonoid
tự nhiên, phân bố rộng rãi trong thực vật, đặc biệt có
nhiều trong nụ hòe ở Việt Nam. Rutin mang lại nhiều
lợi ích cho sức khỏe và sắc đẹp cho con người như
chất chống oxi hóa, trẻ hóa làn da, chống viêm, tăng
độ bền thành mạch, hạ huyết, giảm mỡ máu, [1].
________
* Tác giả liên hệ.
Địa chỉ email: tranyendhd@gmai.com
https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4208
Tuy nhiên, rutin lại có độ tan và sinh khả dụng thấp.
Nguyên nhân của vấn đề này là do dược chất có kích
thước phân tử lớn và kém tan trong nước nên khó
được hấp thu qua da.
Để khắc phục nhược điểm này, các nghiên cứu
trên thế giới gần đây đã thực hiện theo nhiều hướng
khác nhau. Việc đưa dược chất khó tan vào các hệ
phân tán mịn để tăng vận chuyển đã được nghiên cứu
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
48
trong nhiều công thức đặc biệt là niosome với cấu trúc
đặc biệt và khả năng mang dược chất đa dạng. Ngoài
ra, niosome là hệ mang thuốc được ứng dụng nhiều
với mục đích tăng độ tan cho dược chất ít tan và tăng
tính thấm của dược chất qua da với các chế phẩm
dùng qua da [2-4].
Bên cạnh đó, từ lâu cây lô hội được trồng ở nhiều
nơi trên nước ta, được biết đến như một loại thảo dược
của sắc đẹp. Lô hội là một trong những thành phần
quan trọng trong mỹ phẩm, giúp làm sạch da, giữ ẩm,
chống lão hóa, cung cấp các dưỡng chất thiết yếu cho
da [5]. Lô hội được sử dụng làm kem, giữ ẩm cho da,
kem dưỡng da, kem chống nắng, Do đó, mục tiêu
của nghiên cứu là bào chế tiểu phân nano niosome
mang rutin và dịch chiết gel lô hội (niosome rutin-lô
hội) bằng phương pháp hydrat hóa màng film hướng
đến ứng dụng trong các chế phẩm mỹ phẩm.
2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu
Rutin được cung cấp từ Công ty CPTM Dược
VTYT Khải Hà (Việt Nam), cholesterol được MP
Biomedicals North America (Mỹ) cung cấp, Span 60
được mua từ Sigma-Aldrich (Singapore), natri
carboxymethyl cellulose, methanol, glycerin được
cung cấp bởi TNJ chemical Industry Co., Ltd. (Trung
Quốc), methanol sắc ký mua từ J.T. Baker (Mỹ).
Nước tinh khiết được điều chế tại phòng thí nghiệm,
Việt Nam.
Thiết bị nghiên cứu: thiết bị giảm kích thước
bằng cách đẩy qua màng Hamilton (USA), bể siêu âm
Wise Clean (Hàn Quốc), hệ thống cất quay Rovapor
R-210 (Buchi-Đức); bình cầu NS 29/32 dung tích
1000 ml (Buchi-Đức), hệ thống thiết bị phân tích kích
thước Zetasiser nano ZS90, Malvern (Anh), hệ thống
phân tích kích thước Mastersizer 3000 (Malvern,
Anh), máy đo quang Hitachi U-1800 (Nhật Bản).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp bào chế niosome rutin-
lô hội
Phương pháp chiết xuất gel lô hội:
Phương pháp chiết xuất gel lô hội từ lá lô hội tươi
được tham khảo theo tài liệu [6] như sau. Lá lô hội
rửa sạch bằng nước, gọt bỏ phần vỏ, để một thời gian
để loại bỏ lớp nhầy bên ngoài thu được phần lõi màu
trắng trong hay được gọi là phần thịt của lô hội. Rửa
phần lõi vừa thu được bằng nước tinh khiết nhằm loại
bỏ hoàn toàn lớp dịch nhầy bên ngoài, sau đó rửa lại
bằng dung dịch NaOH 0,01N. Phần lõi sau khi để ráo
được cắt thành miếng nhỏ, sử dụng máy xay để
nghiền nát, giữ trong ngăn đá tủ lạnh qua 1 đêm. Lấy
phần hỗn dịch lô hội đã rã đông, sử dụng thiết bị ly
tâm lạnh Supra R22 ly tâm với tốc độ 15000 vòng
trong 30 phút, thu lấy phần dịch trong và loại bỏ phần
chất xơ đọng ở dưới ống ly tâm. Phần dịch thu được
đem lọc qua màng lọc cellulose acetat 0,45 µm, đóng
lọ thủy tinh kín, bảo quản ở nhiệt độ 2-8oC.
Niosome rutin-lô hội được bào chế bằng phương
pháp hydrat hóa màng film:
Span 60, cholesterol, hòa tan hoàn toàn trong
dung môi tạo màng film thu được dung dịch đồng
nhất, sau đó đem cất quay dưới áp suất giảm trong
khoảng thời gian phù hợp để bốc hơi dung môi. Tiếp
tục thêm dịch chiết gel lô hội vào bình cầu chứa màng
film trên, hydrat hóa với tốc độ 100 vòng/phút, nhiệt
độ bể điều nhiệt 25-30oC trong 1 giờ, thu được hỗn
dịch niosome rutin. Để giảm kích thước tiểu phân hỗn
dịch niosome thô được siêu âm trong bể siêu âm Wise
Clean trong 15 phút rồi tiếp tục siêu âm đầu dò đến
khi đạt kích thước mong muốn.
Đánh giá một số đặc tính tiểu phân niosome rutin.
Hình thức hỗn dịch niosome.
Hỗn dịch niosome rutin-lô hội là hỗn dịch màu
xanh lục nhạt, đồng nhất, không có các tiểu phân kích
thước lớn quan sát được bằng mắt thường.
KTTP và hệ số phân bố kích thước.
Niosome rutin-lô hội thô, có kích thước micro
được xác định KTTP trung bình và hệ số phân bố kích
thước trên thiết bị Mastersizer 3000. Cho khoảng 400
ml nước cất vào cốc có mỏ 500 ml, đặt cốc vào máy
đo Mastersizer 3000E, cho từ từ niosme rutin vào cốc
có mỏ cho đến khi độ đục đạt khoảng 0,5 - 5,0%.
Đánh giá kích thước tiểu phân liposome BBR hình
thành sau khi hydrat hóa với nước qua các thông số
D[4,3], Span. Trong đó, D[4,3] là KTTP trung bình
theo thể tích, Span biểu thị khoảng phân bố KTTP,
Span càng nhỏ thì khoảng phân bố càng hẹp, Span <
5 là giá trị có thể chấp nhận được.
Niosome rutin-lô hội đã được làm giảm kích
thước được xác định KTTP trung bình và hệ số đa
phân tán (PDI) trên thiết bị Zetasizer ZS 90. Hỗn dịch
niosome được pha loãng vào nước tinh khiết đã lọc
qua màng cellulose acetat 0,2 µm sao cho số lượng
photon phát hiện được mỗi giây (count rate) đạt giá
trị 200-300 (Kcps). Sau đó đo KTTP, chỉ số đa phân
tán PDI của hỗn dịch niosome được xác định bằng
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
49
thiết bị Zetasizer Nano ZS90 sử dụng cuvet nhựa
trong suốt.
2.2.2. Phương pháp định lượng rutin trong
hỗn dịch niosome
Rutin trong hỗn dịch niosome được định lượng
bằng phương pháp hấp phụ UV-Vis. Mẫu chuẩn được
chuẩn bị bằng cách cân chính xác khoảng 25 mg rutin
chuẩn, hòa tan vào vừa đủ 100 ml methanol. Lấy 10
ml dung dịch trên cho vào bình định mức 100 ml,
thêm methanol tới vạch, thu được dung dịch A có
nồng độ 25 mg/L và đo độ hấp thụ quang tại bước
sóng 257nm. Mẫu thử được chuẩn bị bằng cách hòa
tan một thể tích hỗn dịch niosome trong methanol đến
nồng độ tương đương với mẫu chuẩn và đo độ hấp thụ
quang tại bước sóng 257nm.
2.2.3. Phương pháp đánh giá hiệu suất
niosome hóa rutin
Để đánh giá hiệu suất niosome hóa, cần tách dược
chất rutin tự do ra khỏi hỗn dịch niosome rutin-lô hội.
Khi đó, sử dụng màng lọc polycarbonate kích thước
0,4 µm để loại bỏ dược chất tự do, không tan trong
nước tồn tại dưới dạng tủa lại và bị giữ lại trên màng
lọc. Hỗn dịch niosome trước khi lọc được định lượng
để xác định lượng dược chất toàn phần. Hỗn dịch
niosome sau khi lọc qua màng lọc được định lượng
để xác định lượng dược chất niosome hóa. Từ đó, hiệu
suất niosome hóa dược chất (%EE) được tính theo
công thức dưới đây:
%EE = (
𝑙ượ𝑛𝑔 𝑟𝑢𝑡𝑖𝑛 𝑛𝑖𝑜𝑠𝑜𝑚𝑒 ℎó𝑎
𝑙ượ𝑛𝑔 𝑟𝑢𝑡𝑖𝑛 𝑡𝑜à𝑛 𝑝ℎầ𝑛
) 100%
Khả năng nạp dược chất rutin (%LC) được tính
bằng tỉ lệ dược chất được nạp vào niosome và tổng
khối lượng của hệ. Khả năng nạp thuốc được tính theo
Công thức:
LC (%)=
𝑚(𝑑ượ𝑐 𝑐ℎấ𝑡 đượ𝑐 𝑛𝑖𝑜𝑠𝑜𝑚𝑒 ℎó𝑎)
𝑚𝑡𝑜𝑡𝑎𝑙+ 𝑚𝑠𝑝𝑎𝑛60+𝑚𝑐ℎ𝑜𝑙
𝑥100%
Trong đó:
mnano: Khối lượng dược chất có trong niosome;
mtotal: Khối lượng dược chất toàn phần có trong
hệ tiểu phân bào chế;
mspan 60, mchol: Khối lượng của Span 60 và Chol
trong công thức bào chế.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Khảo sát lựa chọn dung môi tạo màng film
Niosome rutin có công thức các thành phần màng
như ở Bảng 1 được bào chế bằng phương pháp hydrat
hóa màng film sử dụng dung môi tạo màng film là
methanol hoặc hỗn hợp dung môi methanol:
chloroform. Hỗn dịch niosome sau bào chế được
đồng thời đánh giá về hình thức, kích thước tiểu phân,
phân bố KTTP, hiệu suất nano hóa (%EE), khả năng
nạp thuốc (%LC).
Bảng 1. Thành phần các công thức niosome khảo sát
Công thức S1 S2 S3
Span 60 (mmol) 0,7 0,7 0,7
Cholesterol(mmol) 0,3 0,3 0,3
Rutin (mmol) 0,1 0,2 0,3
Bảng 2. Kích thước tiểu phân (KTTP) và phân bố KTTP (Span) của niosome thô
Công thức
Dung môi methanol Hệ dung môi cloroform: methanol (1:1 tt/tt)
KTTP (µm) Chỉ số phân bố KTTP (µm) Chỉ số phân bố
S1 56,6 ± 0,65 2,870 ± 0,027 48,2 ± 1,504 2,060 ± 0,067
S2 129,2 ± 5,36 3,584 ± 0,064 65,4 ± 2,230 3,157 ± 0,029
S3 114,6 ± 4,72 3,156 ± 0,173 67,0 ± 1,740 2,938 ± 0,093
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
50
Kết quả ở Bảng 2 cho thấy các mẫu niosome
rutin-lô hội sử dụng hỗn hợp dung môi chloroform và
methanol (tỉ lệ thể tích 1:1) để bào chế cho KTTP thô
nằm trong khoảng 48 – 67 µm, nhỏ hơn so với KTTP
của niosome được bào chế bằng dung môi methanol,
khoảng 100 µm. Điều này có thể giải thích do độ tan
của cholesterol trong methanol kém hơn trong
chloroform. Do đó, hỗn hợp dung môi methanol
chloroform hòa tan tốt hơn cholesterol, Span 60 và
rutin , dẫn tới lớp màng film thu được ổn định hơn.
Do đó, quá trình hydrat hóa diễn ra dễ dàng hơn. Kết
quả ở Bảng 3 thể hiện KTTP và phân bố KTTP của
niosome sau khi đã được giảm kích thước bằng
phương pháp siêu âm.
Bảng 3. KTTP và PDI của niosome sau khi làm giảm KTTP
Công thức
Dung môi methanol Hệ dung môi clorofom: methanol (1:1 v/v)
KTTP (d.nm) PDI KTTP (d.nm) PDI
S1 311.70 ± 14,29 0,306 ± 0,194 264,83 ± 17,34 0,384 ±0,022
S2 270,60 ± 14,52 0,203 ± 0,107 169,90 ± 3,20 0,329 ± 0,005
S3 183,60 ± 14,25 0,315 ± 0,082 164,53 ± 9,95 0,242 ± 0,003
Hình 1. Ảnh hưởng của dung môi tạo màng film đến hiệu suất niosome hóa (EE) và khả năng nạp thuốc (LC).
Ngoài ra, đồ thị ở Hình 1 cho thấy, hiệu suất
niosome hóa (%EE) và khả năng nạp dược chất (%
LC) của các mẫu S1, S2, S3 sử dụng hỗn hợp dung
môi chloroform, methanol cao hơn so với khi sử dụng
một dung môi tạo màng film methanol. Điều này có
thể giải thích, niosome thô có kích thước lớn sẽ cần
quá trình làm giảm KTTP dài hơn. Nói cách khác
niosome rutin-lô hội bị tác động của lực siêu âm dài
hơn, làm dược chất bị rò rỉ ra khỏi niosome do ảnh
hưởng của sóng siêu âm, nhiệt độ, [2]. Do đó, hệ
dung môi cloroform: methanol bước đầu cho KTTP
của niosome nhỏ, hiệu suất niosome hóa dược chất,
khả năng nạp thuốc cao hơn so với dung môi methanol.
Vì vậy lựa chọn hệ dung môi cloroform: methanol (tỉ lệ
1:1 tt/tt) để tiếp tục nghiên cứu.
3.2. Khảo sát ảnh hưởng của thời gian cất quay
Niosome rutin-lô hội (công thức S3) được bào
chế sử dụng hỗn hợp dung môi methanol và
chloroform, khảo sát thời gian cất quay 2 giờ (S5), 3
giờ (S6), 4 giờ (S7). Đặc tính của niosome rutin-lô hội
được thể hiện ở Hình 2, 3.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
methanol methanol:cloroform methanol methanol:cloroform
EE, % LC, %
S1 S2 S3
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
51
Hình 2. Ảnh hưởng của thời gian cất quay đến kích thước tiểu phân (KTTP) và phân bố KTTP (PDI).
Hình 3. Ảnh hưởng của thời gian cất quay đến hiệu suất niosome hóa (%EE) và khả năng nạp thuốc (%LC).
KTTP của mẫu S5 và S7 lớn hơn so với mẫu S6.
Nói cách khác, khi tăng thời gian cất quay từ 2 giờ lên
3 giờ thì KTTP, PDI đều giảm mạnh. Tuy nhiên tăng
thời gian lên 4 giờ thì giá trị KTTP, PDI tăng lên. Hiệu
suất niosome hóa (%EE) và khả năng nạp thuốc
(%LC) ở thời gian 2 giờ và 4 giờ đều thấp hơn so với
3 giờ. Nguyên nhân có thể do rutin là dược chất thân
dầu, nằm trong lớp màng kép. Do đó, quá trình cất
quay là thời gian rutin và các thành phần trong lớp
màng tạo các liên kết cần thiết. Như kết quả nghiên
cứu có thể thấy, thời gian 3 giờ là đủ để tạo các liên
kết này. Nếu thời gian cất quay ngắn hơn thì chưa đủ
để tạo liên kết, nếu dài hơn thì có thể gây phá vỡ các
liên kết giữa rutin, span 60 và cholesterol làm giảm
hiệu suất hoặc dược chất có thể bị phân hủy bởi nhiệt
do quá trình cất quay dài. Như vậy, thời gian phản
ứng 3 giờ có KTTP, PDI, hiệu suất niosome hóa và
khả năng nạp thuốc cao nhất, được lựa chọn để tiến
hành khảo sát các thông số tiếp theo.
3.3. Khảo sát và lựa chọn tỷ lệ mol dược chất/
tá dược
Niosome sử dụng Span60/cholesterol ở 2 tỉ lệ 7/3
và 6/4, tăng dần tỉ lệ mol dược chất như ở Bảng 4.
Đặc tính của các niosome được thể hiện ở Hình 4-6.
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0
50
100
150
200
250
300
S5 S6 S7
P
D
I
K
T
T
P
(n
m
)
KTTP PDI
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
S5 S6 S7
%EE %LC
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
52
Bảng 4. Thành phần các công thức khảo sát chọn tỷ lệ mol dược chất/tá dược
Công thức N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7
Span 60 (mmol) 0,7 0,7 0,7 0,7 0,6 0,6 0,6
Cholesterol(mmol) 0,3 0,3 0,3 0,3 0,4 0,4 0,4
Rutin (mmol) 0,1 0,2 0,3 0,4 0,1 0,2 0,3
Hình 4. Ảnh hưởng tỷ lệ mol dược chất/tá dược đến kích thước tiểu phân (KTTP) và
phân bố KTTP (PDI) của niosome.
Hình 5. Đồ thị KTTP của các mẫu N4.
-0.05
0.05
0.15
0.25
0.35
0.45
0
50
100
150
200
250
300
N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7
KTTP(nm)
PDI
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
53
Các mẫu hỗn dịch niosome thu được đồng nhất
màu xanh lục nhạt, có KTTP nhỏ, dao động từ 100
nm đến 300 nm, PDI từ 0,1 đến 0,3. KTTP và PDI
nhỏ nhất được xác định ở các mẫu niosome N4 và N7.
Đồ thị hình 5 cho thấy, niosome của công thức N4
nhỏ, phân bố hẹp và chỉ có 1 peak, không có peak
ngoại lai. Việc đánh giá KTTP của hệ nano chịu ảnh
hưởng rất nhiều bởi các tạp vật lý có thể ngẫu nhiên
lẫn trong mẫu. Trong nghiên cứu này, nhiều biện pháp
được áp dụng để loại được tối đa tạp vật lý ảnh hưởng
đến phép đo kích thước tiểu phân. Cụ thể, dịch chiết
lô hội được tách các hợp chất cao phân tử như chất
xơ, chất nhày bằng hỗn hợp các phương pháp như
đông lạnh – rã đông, ly tâm ở tốc độ cao 15000
vòng/phút và lọc qua màng lọc 0,45 µm. Nước tinh
khiết được xử lý bằng phương pháp siêu lọc, sau đó
được lọc qua màng 0,2 µm để loại bỏ tiểu phân bụi
mịn có thể lẫn vào mẫu. Hơn nữa, việc chuẩn bị và
phân tích kích thước được tiến hành trong phòng kín,
sạch. Kết quả phổ KTTP của mẫu (Hình 5) có thể
khẳng định, hỗn hợp các biện pháp áp dụng cho kết
quả tốt trong việc đánh giá KTTP của niosome rutin-
lô hội.
Hiệu suất niosome hóa (%EE) và khả năng nạp
dược chất (%LC) đều tăng khi tăng tỉ lệ mol dược
chất/tá dược. Công thức N4 có hiệu suất niosome hóa
(95,57%) và khả năng nạp thuốc (32,06 %) cao nhất
trong 7 công thức khảo sát. Điều này có thể giải thích
là do khi tăng dần lượng mol dược chất, số lượng
phân tử rutin nằm xen kẽ giữa Span và cholesterol
tăng dần để lớp màng bền chặt và cấu trúc niosme ổn
định hơn từ đó làm tăng hiệu suất niosome hóa rutin
trong niosome. Vì vậy, lựa chọn công thức N4 để tiếp
tục nghiên cứu đánh giá đặc tính lý hóa và đặc tính
thấm của tiểu phân niosome rutin-lô hội.
Hình 6. Ảnh hưởng của tỷ lệ mol dược chất/tá dược đến hiệu suất niosome hóa (%EE)
và khả năng nạp thuốc (%LC) của niosome.
4. Kết luận
Đã bào chế được niosome rutin – lô hội bằng
phương pháp hydrat hóa màng film sử dụng Span 60,
cholesterol và rutin với tỉ lệ mol 7:3:4 và dịch chiết
gel lô hội làm dung dịch hydrat hóa. Hỗn hợp dung
môi methanol-chloroform (tỉ lệ thể tích 1:1) được sử
dụng để hòa tan các thành phần của màng, sau đó cất
quay bốc hơi dung môi trong 3 giờ. Niosome rutin-lô
hội bào chế được có kích thước nhỏ khoảng 160 nm,
hiệu suất niosome hóa đat 95,57% và khả năng mang
thuốc đạt 32,06%. Nghiên cứu đã có những kết quả
bước đầu về bào chế nano niosome rutin- lô hội, để
tiếp tục đánh giá các đặc tính lý hóa và đặc tính thấm
của niosome trong các nghiên cứu tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
[1] A. Ganeshpurkar, A.K. Saluja, The
Pharmacological Potential of Rutin, Saudi
pharmaceutical journal 2 (2017) 149-164.
https://doi.org/10.1016/j.jsps.2016.04.025.
[2] N.B. Mahale, P.D. Thakkar, Niosomes: novel
sustained release nonionic stable vesicular
systems—an overview, Advances in colloid and
0
20
40
60
80
100
120
N1 N2 N3 N4 N5 N6 N7
%
%EE %LC
T.T.H. Yen et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 36, No. 1 (2020) 46-54
54
interface science 183 (2012) 46-54.
https://doi.org/10.1016/j.cis.2012.08.002
[3] V.B. Junyaprasert, P. Singhsa, Physicochemical
properties and skin permeation of Span 60/Tween
60 niosomes of ellagic acid, International journal
of pharmaceutics 2 (2012) 303-311.
https://doi.org/10.1016/j.ijpharm.2011.11.032.
[4] A. Manosroi, P. Jantrawut et al, In vitro and in
vivo skin anti-aging evaluation of gel containing
niosomes loaded with a semi-purified fraction
containing gallic acid from Terminalia chebula galls,
Pharmaceutical biology 11 (2011) 1190-1203.
https://doi.org/10.3109/13880209.2011.576347.
[5] A. Surjushe, R. Vasani et al, Aloe vera: a short
review, Indian journal of dermatology 4 (2008) 163
- 166. https://doi.org/10.4103/0019-5154.44785.
[6] M. Takahashi, D. Kitamoto et al, Liposomes
encapsulating Aloe vera leaf gel extract
significantly enhance proliferation and collagen
synthesis in human skin cell lines, Journal of oleo
science 12 (2009) 643-650.
https://doi.org/ 10.5650/jos.58.643.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_bao_che_nano_niosome_mang_rutin_va_dich_chiet_gel.pdf