Nghiên cứu bào chế viên nén diltiazem tác dụng kéo dài hệ cốt sơ nước

Hiện nay, tăng huyết áp là một bệnh phổ biến. Toàn thế giới có khoảng 1 tỷ người bị tăng huyết áp.Trong đó ở các nước phát triển có 20-25%, các nước đang phát triển là 11-15% [6]. Đây là một bệnh mạn tính có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như tai biến mạch máu não, chết cơ tim cấp tính, suy tim, suy thận Trong điều trị tăng huyết áp thì việc cải thiện lối sống và tuân thủ điều trị có ý nghĩa vô cũng to lớn, đóng vai trò quyết định trong việc kiểm soát bệnh. Diltiazem hydrochlorid - một dẫn chất của benzothiazepin, là một thuốc điều trị tăng huyết áp an toàn và hiệu quả với các ưu điểm : không có tác dụng không mong muốn trên thận, không gây rối loạn chuyển hóa. Tuy nhiên, diltiazem có thời gian bán thải trung bình khoảng 6 – 8h nên bệnh nhân khi dùng thuốc phải uống nhiều lần trong ngày. Do đó làm cho việc tuân thủ điều trị gặp khó khăn, ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị. Một giải pháp khắc phục nhược điểm này là dùng dạng thuốc tác dụng kéo dài nhằm giảm được số lần dùng thuốc, tăng sinh khả dụng, giảm tác dụng không mong muốn gây ra do hiện tượng đỉnh đáy. Hiện nay, trên thị trường đã có nhiều dạng bào chế diltiazem tác dụng kéo dài nhưng đều là của nước ngoài. Dạng viên nén giải phóng kéo dài dùng cốt sơ nước ăn mòn là một dạng bào chế đơn giản, nguyên liệu rẻ tiền, dễ kiếm phù hợp với điều kiện của nước ta. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài : “Nghiên cứu bào chế viên nén diltiazem giải phóng kéo dài sử dụng cốt sơ nước ăn mòn” với các mục tiêu : Xây dựng được công thức bào chế viên nén diltiazem cốt sáp giải phóng kéo dài ở quy mô phòng thí nghiệm.Khảo sát và đề xuất được tiêu chuẩn chất lượng cho viên nén diltiazem bào chế.

doc40 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 3744 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu bào chế viên nén diltiazem tác dụng kéo dài hệ cốt sơ nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ Hiện nay, tăng huyết áp là một bệnh phổ biến. Toàn thế giới có khoảng 1 tỷ người bị tăng huyết áp.Trong đó ở các nước phát triển có 20-25%, các nước đang phát triển là 11-15% [6]. Đây là một bệnh mạn tính có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm như tai biến mạch máu não, chết cơ tim cấp tính, suy tim, suy thận… Trong điều trị tăng huyết áp thì việc cải thiện lối sống và tuân thủ điều trị có ý nghĩa vô cũng to lớn, đóng vai trò quyết định trong việc kiểm soát bệnh. Diltiazem hydrochlorid - một dẫn chất của benzothiazepin, là một thuốc điều trị tăng huyết áp an toàn và hiệu quả với các ưu điểm : không có tác dụng không mong muốn trên thận, không gây rối loạn chuyển hóa. Tuy nhiên, diltiazem có thời gian bán thải trung bình khoảng 6 – 8h nên bệnh nhân khi dùng thuốc phải uống nhiều lần trong ngày. Do đó làm cho việc tuân thủ điều trị gặp khó khăn, ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị. Một giải pháp khắc phục nhược điểm này là dùng dạng thuốc tác dụng kéo dài nhằm giảm được số lần dùng thuốc, tăng sinh khả dụng, giảm tác dụng không mong muốn gây ra do hiện tượng đỉnh đáy. Hiện nay, trên thị trường đã có nhiều dạng bào chế diltiazem tác dụng kéo dài nhưng đều là của nước ngoài. Dạng viên nén giải phóng kéo dài dùng cốt sơ nước ăn mòn là một dạng bào chế đơn giản, nguyên liệu rẻ tiền, dễ kiếm phù hợp với điều kiện của nước ta. Do đó, chúng tôi tiến hành đề tài : “Nghiên cứu bào chế viên nén diltiazem giải phóng kéo dài sử dụng cốt sơ nước ăn mòn” với các mục tiêu : Xây dựng được công thức bào chế viên nén diltiazem cốt sáp giải phóng kéo dài ở quy mô phòng thí nghiệm. Khảo sát và đề xuất được tiêu chuẩn chất lượng cho viên nén diltiazem bào chế. Chương I : TỔNG QUAN THUỐC GIẢI PHÓNG KÉO DÀI DẠNG CỐT SƠ NƯỚC : 1.1.1. Khái niệm và ưu nhược điểm của dạng thuốc tác dụng kéo dài : Khái niệm : Thuốc TDKD là những chế phẩm có khả năng kéo dài quá trình giải phóng và hấp thu dược chất từ dạng thuốc nhằm duy trì nồng độ dược chất trong máu trong vùng điều trị trong một thời gian dài với mục đích kéo dài thời gian điều trị, giảm số lần dùng thuốc cho người bệnh, giảm tác dụng không mong muốn, nâng cao hiệu quả điều trị của thuốc. Theo Dược điển Mỹ thì thuốc TDKD ít nhất phải giảm được một nửa số lần dùng thuốc cho người bệnh. Theo các tài liệu về bào chế hiện đại, có thể chia thuốc TDKD thành các loại sau : Thuốc giải phóng kéo dài ( sustained release, prolong release, extended release, retard…). Thuốc giải phóng có kiểm soát ( controlled release). Thuốc giải phóng theo chương trình (programmed release, time release…). Thuốc giải phóng nhắc lại hay thuốc giải phóng theo nhịp ( repeat release, pulsatile release ). Thuốc giải phóng tại đích (targeted release, side – specific release). Ưu điểm : - Duy trì được nồng độ dược chất trong máu trong vùng điều trị, giảm được nồng độ máu của thuốc ( tránh được hiện tượng đỉnh - đáy) nên giảm được tác dụng không mong muốn của thuốc. - Giảm số lần dùng thuốc cho bệnh nhân, tránh quên thuốc, tránh phiền hà khi dùng thuốc giúp bảo đảm sự tuân thủ dùng thuốc từ đó góp phần nâng cao hiệu quả điều trị của thuốc. - Nâng cao sinh khả dụng của thuốc do thuốc được hấp thu đều đặn, triệt để hơn. - Kinh tế hơn, tuy giá thành của một liều đắt hơn dạng quy ước nhưng do giảm được lượng thuốc dùng cho cả đợt nên giá thành của cả liệu trình điều trị lại giảm. Nhược điểm : - Nếu có hiện tượng ngộ độc, tác dụng không mong muốn thì nguy hiểm hơn vì liều dùng cao hơn bình thường và không thể loại trừ ngay ra khỏi cơ thể. - Là dạng thuốc đòi hỏi kĩ thuật cao. Khi uống chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố trong đường tiêu hóa do đó khi có sai sót trong quá trình bào chế hay có thay đổi sinh học đặc biệt trong cá thể người bệnh có thể cho những đáp ứng lâm sàng nằm ngoài ý định thiết kế dạng thuốc. - Chỉ một số ít dược chất phù hợp với dạng bào chế này [2]. 1.1.2. Thuốc GPKD sử dụng cốt sơ nước ăn mòn : Bào chế hiện đại sử dụng nhiều dạng bào chế khác nhau để kiểm soát dược chất giải phóng từ dạng GPKD như : kiểm soát giải phóng theo cơ chế khuếch tán ( hệ màng bao, hệ cốt trơ), kiểm soát theo cơ chế hòa tan ( màng bao hòa tan, cốt sơ nước cốt thân nước ăn mòn), theo cơ chế trao đổi ion, theo cơ chế áp suất thẩm thấu… Trong khuôn khổ của khóa luận này chúng tôi chỉ đề cập đến hệ cốt sơ nước ăn mòn [2]. 1.1.2.1 Nguyên tắc cấu tạo và nguyên liệu tạo cốt: - Nguyên tắc cấu tạo : Dược chất được phối hợp với các TD tạo cốt mang thuốc có bản chất sơ nước và bị ăn mòn trong đường tiêu hóa dưới tác dụng của hệ enzym, pH. - Nguyên liệu tạo cốt : là các TD sơ nước bị ăn mòn trong đường tiêu hóa như các sáp ( sáp ong, sáp Carnaubar..), các alcol béo (alcol cetylic, alcol cetostearylic…), các acid béo (acid stearic…), các ester béo, dầu thực vật hydrogen hóa…[7]. 1.1.2.2. Phương pháp bào chế : Sử dụng phương pháp tạo hạt nóng chảy. Đây là phương pháp tạo hạt dùng TD nóng chảy như TD dính, do đó không phải sử dụng các TD dính thông thường ( thường là nước hoặc các dung môi hữu cơ) như trong tạo hạt ướt. Về cơ bản phương pháp này tương tự như phương pháp tạo hạt ướt nhưng đơn giản hơn do không cần giai đoạn bay hơi TD dính. * Ưu điểm của phương pháp tạo hạt nóng chảy : - Loại bỏ được ảnh hưởng của ẩm trong quá trình bào chế do không phải sử dụng tá dược dính. Do đó áp dụng tốt cho các dược chất nhạy cảm với ẩm. - Không sử dụng dung môi hữu cơ do đó an toàn đồng thời hạ thấp chi phí sản xuất. - Không có giai đoạn làm khô nên áp dụng tốt cho những chất dễ bay hơi, rút ngắn thời gian bào chế. - Tính chất lý hóa của hạt có thể dễ dàng thay đổi bằng cách thêm các TD thích hợp. - Dễ dàng áp dụng cho cả dạng bào chế giải phóng nhanh và giải phóng kéo dài bằng cách chọn TD béo thích hợp. * Nhược điểm của phương pháp : - Cần có nhiệt độ cao ( 50 – 100 0C) để làm nóng chảy TD do đó với các dược chất không bền với nhiệt thì không áp dụng được phương pháp này. - Một nhược điểm lớn nữa là khó kiểm soát quá trình. Quá trình tạo hạt thay đổi nhiều theo công thức, quy trình và thiết bị sử dụng. * Các bước tiến hành : Đun chảy TD dính sau đó phối hợp với dược chất và các TD khác rồi tạo hạt như các phương pháp tạo hạt ướt (bằng phương pháp rây hoặc là tạo pellet bằng đùn, đông tụ…). Nguyên liệu sử dụng có thể là các TD thân nước như polyethylen glycol, poloxamer.. hoặc các TD thân dầu như acid béo, alcol béo, sáp, glycerid… các TD thân nước thường được áp dụng cho dạng bào chế giải phóng nhanh còn TD thân dầu thì sử dụng cho các dạng giải phóng kéo dài [11],[23]. 1.1.2.3. Một số tá dược thường dùng để tạo cốt: * Sáp Ong : Có 2 loại sáp ong vàng và sáp ong trắng. Sáp ong trắng là sản phẩm tẩy màu của sáp ong vàng. Sáp ong vàng là sáp tự nhiên thu được bằng cách đun nóng chảy tổ ong mật Apis mellifare L. hoặc Apis cerana Fabr. hoặc các loài Ong mật khác thuộc chi Apis với nước nóng và loại tạp . Thành phần hóa học chủ yếu của sáp ong chứa khoảng 70 – 75 % hỗn hợp ester của các alcol mạch thẳng có số C từ 24 – 36 với các acid mạch thẳng có số C có thể lên đến 36 có C 18 – OH . Ester phổ biến nhất là myricyl palmitate, ngoài ra còn có alcol béo tự do, ester của stearic với acid béo . Thường có màu vàng hoặc màu nâu sáng dạng mảnh cục nhỏ không đều nhau, hình dáng không nhất định. Dùng tay bóp mềm và vặn ra được, thoảng mùi mật ong, không vị. Nóng chảy ở 62 – 66 oC. Tan trong cloroform, ether, cacbon disulfid nóng, dầu béo, tinh dầu, không tan trong nước, tan một phần trong cthanol 96% . Trong bào chế : Sáp ong thường dùng làm chất điều chỉnh thể chất trong thuốc mỡ, kem (nồng độ 5 – 20%); chất ổn định nhũ tương trong nhũ tương N/D; tá dược bóng trong viên bao đường; TD kiểm soát giải phóng trong các dạng bào chế kéo dài giải phóng [5],[16],[22]. * Sáp Carnaubar : Được lấy từ lá của cây Copernicia cerifera Mart. Thành phần hóa học chủ yếu là hỗn hợp ester của các hydroxyd acid béo như α – hydroxy ester, β – methoxycinamic, hỗn hợp diester của acid p-hydroxycinamic với một số alcol mạch thẳng trong đó hay gặp nhất là mạch C26 và C32. Ngoài ra còn có một số thành phần khác. Dạng bột, miếng mỏng, hoặc là khối cứng có màu vàng hoặc vàng nhạt. Tỷ trọng khoảng 0,97. Nóng chảy ở 80 – 86oC. Thực tế không tan trong nước, trong ethanol. Tan ít trong ethyl acetate nóng, xylen nóng. Trong bào chế : Sáp carnaubar là loại sáp cứng nhất và có nhiệt độ nóng chảy cao nhất trong các loại sáp được sử dụng. Thường được dùng làm TD bóng trong viên bao đường (dùng dưới dạng nhũ tương 10%(kl/tt) trong nước hoặc dùng trực tiếp dưới dạng bột mịn); TD kiểm soát giải phóng trong các dạng thuốc tác dụng kéo dài (dùng một mình hoặc kết hợp với các tá dược khác như HPC, HPMC, Eudragit…); sử dụng để chế tạo vi cầu bằng phương pháp phun nóng chảy để thay thế cho phương pháp phun lạnh thông thường [14],[16],[22]. * Alcol Cetylic : Hỗn hợp alcol rắn, chủ yếu là hexadecal – 1 – ol (C16H34O = 242,2), hơn 90% phần còn lại là các dẫn chất. Có nguồn gốc thực vật hoặc khoáng. Là khối hơi nhớt, bột, mảnh hoặc hạt, màu trắng hoặc gần trắng. Hơi có mùi đặc trưng. Nóng chảy ở 43 – 47oC. Không tan trong nước, tan trong alcol, ether độ tan tăng khi tăng nhiệt độ. Khi nóng chảy có thể trộn lẫn được với dầu khoáng, dầu thực vật, parafin lỏng, chất béo, isopropyl myristat. Trong bào chế : alcol cetyl được dùng làm mềm, chất nhũ hóa yếu trong các dạng thuốc dùng tại chỗ; TD tạo khuôn trong thuốc đạn; TD kiểm soát giải phóng trong các dạng thuốc kéo dài giải phóng[14],[16],[22]. * Acid stearic : Hỗn hợp của acid stearic và acid palmitic trong đó acid stearic chiếm hơn 40% và tổng 2 acid không dưới 90% , có nguồn gốc từ sự thủy phân các chất béo hoặc hydro hóa dầu bông hay dầu thực vật. Là chất rắn kết tinh hơi bóng màu trắng hoặc vàng nhạt, có thể là dạng bột màu trắng hoặc trắng hơi vàng, gần như không có mùi. Nóng chảy ở nhiệt độ hơn 54oC. Không tan trong nước, tan trong 20 phần alcol, 2 phần cloroform, 3 phần ether. Trong bào chế : acid stearic được dùng làm TD trơn trong bào chế viên nén và viên nang; chất nhũ hóa và làm tăng độ tan cho các thuốc dùng tại chỗ; chất mang trong các thuốc tác dụng kéo dài [14],[16]. * Gelucires : Là những polyethylen glycol tương đồng sinh học thành phần chứa các mono-, di-, triglycerid và mono, diester của polyethylen glycol (PEG). Bằng cách thay đổi thành phần hóa học có thể tạo ra một loạt các Gelucire có nhiệt độ nóng chảy và chỉ số HLB khác nhau. Các gelucire có nhiệt độ nóng chảy trong khoảng 33 – 640C ( phổ biến trong khoảng 35 – 550C), chỉ số HLB từ 1 – 14 (phổ biến là từ 7 – 14,3) điều này thể hiện trong tên của các loại ví dụ như Gelucire 43/01 thì tonc = 430C và HLB = 01. Các loại Gelucire khác nhau về nhiệt độ nóng chảy và tính thân dầu, thân nước thì được sử dụng với các mục đích khác nhau. Loại có HLB cao thường được sử dụng trong các dạng bào chế giải phóng nhanh, loại có chỉ số HLB thấp thì dùng để giảm độ tan của dược chất trong các dạng bào chế giải phóng kéo dài . Khi sử dụng cho các dạng bào chế giải phóng kéo dài , Gelucire có một số ưu điểm : khi nóng chảy có độ nhớt thấp; không có các tạp chất độc như các xúc tác monomer thừa, các chất khơi mào; có khả năng tương đồng sinh học; phân rã sinh học và bảo vệ dược chất khỏi dịch dạ dày do tạo ra một lớp màng bao cách ly dịch dạ dày [12],[17],[23]. * Dầu thực vật hydrogen hóa : Hỗn hợp triglycerid của acid béo có nguồn gốc thực vật. Phần lớn có màu trắng dạng bột mịn ở nhiệt độ phòng, ở nhiệt độ 57 – 70oC dạng dầu lỏng màu vàng sáng. Trong US31- NF26 chia làm 2 loại : loại 1 là dạng bột mịn, mảnh hoặc hạt trắng tonc= 57 – 85 oC; loại 2 là dạng bán rắn, mềm hơn loại 1 có tonc= 20 – 50oC. Không tan trong nước, tan trong cloroform, isopropyl alcol nóng. Trong bào chế : dùng để điều chỉnh thể chất cho thuốc mỡ; tá dược trơn trong thuốc mỡ, viên nén đặt âm đạo [14],[16],[23]. 1.2. DILTIZEM : Công thức, tên khoa học: Công thức :  C22H26N2O4S.HCl ptl : 450,98 Tên khoa học : (2S, 3S) – 5 – [2 – (dimethylamino) ethyl] – 2 – (4 - methoxyphenyl) – 4 – oxo – 2,3,4,5 – tetrahydro – 1,5 – benzothiazepin – 3 – yl acetate hydroclorid [9]. Tính chất : Bột kết tinh màu trắng. Dễ tan trong nước, ethanol, cloroform. Dung dịch 1% trong nước có pH 4,3 – 5,3. Nóng chảy khoảng 2130C có kèm phân hủy. [3] Phương pháp định lượng : Nguyên liệu: theo USP 29 quy định định lượng DTZ bằng phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC). Theo BP 2005, DTZ được định lượng bằng phương pháp acid – base trong dung môi acid acetic khan, dung dịch chuẩn HClO4 0.1M, chỉ thị đo thế. Viên nén : USP 29 quy định định lượng DTZ trong viên nén bừng phương pháp HPLC với cách làm tương tự như định lượng DTZ nguyên liệu. Ngoài ra có thể định lượng DTZ trong viên nén bằng phương pháp đo quang trong môi trường thích hợp [8]. Dược động học : Thuốc hấp thu tốt, liên kết khoảng 70 – 80% protein huyết tương. DTZ ưa mỡ có thể tích phân bố cao khoảng 3 – 8 l/kg. Chuyển hóa chủ yếu chủ yếu ở gan. Chất chuyển hóa có tác dụng nhưng yếu hơn khoảng 20 -50%. Thuốc chuyển hóa chậm ở những người suy gan. Thải trừ khoảng 2 – 4% qua thận dưới dạng chất chuyển hóa, còn lại thải trừ qua phân. Thời gian bán thải trung bình khoảng 6 – 8h nhưng có thể dao động từ 2 – 11 h [4]. Tác dụng và cơ chế tác dụng : DTZ ức chế dòng calci đi qua các kênh calci phụ thuộc điện áp ở màng tế bào cơ tim và cơ trơn mạch máu nên làm giảm nồng độ calci trong những tế bào này, thuốc làm giãn động mạch vành và mạch ngoại vi. Thuốc làm chậm nhịp tim, giảm co bóp cơ tim và làm chậm dẫn truyền nút nhĩ thất. DTZ được sử dụng trong điều trị đau thắt ngực và tăng huyết áp [4]. Chỉ định : Điều trị và dự phòng cơn đau thắt ngực, đặc biệt với thể Prinzmetal; thể không ổn định. Điều trị tăng huyết áp nhẹ và vừa [4]. Liều lượng và cách dùng : Liều thông thường : uống 60mg x 3 lần/ ngày ngay trước khi ăn. Điều trị đau thắt ngực : uống 60mg x 3 lần/ ngày; hoặc khởi đầu bằng liều 30mg x 4 lần/ ngày tăng liều khi cần thiết trong 1 – 2 ngày sau. Thể không ổn định có thể dùng viên giải phóng chậm hàm lượng 360 – 480 mg. Điều trị tăng huyết áp : dùng viên giải phóng kéo dài với liều ban đầu 60 – 120 mg x 2 lần/ ngày; cứ 14 ngày/lần có thể tăng liều nếu cần thiết tới liều tối đa là 360mg. Nên giảm liều ở người cao tuổi người suy gan, suy thận. Chú ý với người có nhịp tim chậm <50 nhịp/phút thì không tăng liều [4]. Tác dụng không mong muốn : Rối loạn tiêu hóa ( đầy hơi, rát thượng vị, khô miệng, táo bón hoặc tiêu chảy). Phù cổ chân, đau đầu, chóng mặt, ngủ gà, ngứa ngáy, ban da. Mệt mỏi, tăng enzym gan [4]. Chống chỉ định : Rối loạn hoạt động nút xoang, blốc nhĩ thất độ 2 và độ 3. Mẫn cảm với DTZ. Suy thất trái kèm theo sung huyết phổi. Nhịp tim chậm dưới 50 nhịp/ phút [4]. 1.3. MỐT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ DTZ SỬ DỤNG CỐT ĂN MÒN : - S.Cheboyina và Christy M.Wyandt đã nghiên cứu bào chế pellet DTZ GPKD cốt sáp bằng phương pháp đông tụ : Nguyên liệu sử dụng để tạo cốt kiểm soát giải phóng là các TD béo gồm : glyceryl monostearat (GMS), sáp ong, alcol cetylic(CA), Precirol (glyceryl palmitostearat - GPS), cetyl ester wax (CEW). Bào chế bằng phương pháp phun đông tụ : TD kiểm soát giải phóng được đun nóng chảy rồi phun vào một cột chất lỏng trơ, không trộn lẫn với TD béo nóng chảy. Sự tạo thành pellet có thể diễn ra ở phía trên cột chất lỏng hoặc phía dưới tùy thuộc vào sự chênh lệch tỷ trọng của TD béo nóng chảy và chất lỏng trong cột. Thử hòa tan trong môi trường nước cất, tốc độ cánh khuấy 100vòng/phút, nhiệt độ 370C ± 0.50C, hút mẫu ở thời điểm 15 phút, 30 phút,1h, 2h , 4h, 6h,9h, 12h, đo quang ở λ=236nm với tỷ lệ pha loãng thích hợp. Kết quả thu được các pellet khá cầu, tương đối đồng đều, pellet thu được có kích thước phụ thuộc vào đường kính của đầu súng phun. DTZ được phân bố đồng nhất trong toàn bộ cốt. Các pellet đều có khả năng kéo dài giải phóng và có sự khác nhau giữa các loại sáp, phụ thuộc vào tính sơ nước của các loại sáp. Mức độ sơ nước tăng thì khả năng kiểm soát giải phóng tăng, khả năng kiểm soát giải phóng của sáp ong > Precirol > CEW > GMS > CA. Cơ chế giải phóng của DTZ là do sự khuếch tán kiểm soát. Như vậy có thể sử dụng phương pháp này để tạo pellet DTZ GPKD sử dụng cốt sơ nước ăn mòn [20]. - Chien N. Nguyen, J. Mark Christensen, Jame W. Ayres nghiên cứu khả năng giải phóng kéo dài của viên nang DTZ cốt bán rắn. Nguyên liệu tạo cốt : Gelucire 50/13, alcol cetylic, acid stearic. Mục đích của nghiên cứu này là đánh giá ảnh hưởng của Gelucire 50/13, acid stearic, alcol cetylic đến khả năng giải phóng DTZ từ viên nang cốt bán rắn. Dùng Dilacor XR làm viên đối chiếu. Bào chế viên nang : cân DTZ và các TD theo công thức, TD béo đun chảy hoàn toàn ở 600C, phối hợp DTZ (duy trì nhiệt độ 55 – 600C bằng nồi cách thủy). Rót hỗn dịch thu được vào nang số 1, chú ý giữ nang đứng thẳng khi làm nguội. Thử hòa tan bằng máy thử hòa tan cánh khuấy, tốc độ 50 vòng/phút, 37 ± 0,50C. Trong 2 giờ đầu thử trong 750ml dịch mô phỏng dịch dạ dày, sau đó thử trong đệm phosphat pH = 7,4. Hút mẫu tự động 24h, dịch hòa tan được lọc qua màng lọc 0,70μm, ly tâm với tốc độ 300 vòng trong 20 phút, lọc loại chất béo nổi lên rồi đưa đi đo quang ở λ = 236 nm. Kết quả : khi sử dụng Gelucire 50/13 : alcol cetylic = 1,5: 1 thì trong 12 giờ đầu, đồ thị giải phóng gần sát với viên đối chiếu, sau 12 giờ thì sự khác nhau tăng dần từ 8,8% - 30,6%. DTZ giải phóng từ cốt Gelucire 50/13 : acid stearic theo cơ chế ăn mòn và khuyếch tán, từ cốt Gelucire 50/13 : alcol cetylic theo cơ chế khuyếch tán là chủ yếu. Hỗn hợp Gelucire 50/13 : acid stearic ăn mòn nhanh hơn nhưng không hoàn toàn. Đặc tính giải phóng dược chất của cốt Gelucire 50/13 : alcolcetylic chậm hơn và thay đổi ít hơn. Như vậy, hệ Gelucire 50/13 : alcol cetylic sử dụng tốt để bào chế viên nang DTZ GPKD [12]. - Shimpi S, Chauhan B, Mahadik KR, Paradka P đã nghiên cứu bào chế và đánh giá hạt nổi DTZ – Gelucire 43/01 bằng phương pháp tạo hạt nóng chảy. Nguyên liệu: Gelucire 43/01và các TD khác: Glyceryl monostearat (GMS), hydropropylmethyl cellulose (HPMC), Ethyl cellulose (EC), Sterotez (dầu bông hyrogen hóa). Bào chế bằng phương pháp tạo hạt nóng chảy với các tỷ lệ DTZ/Gelucire sử dụng là : 1/1; 1/1,3; 1/1,5. Các TD khác được cho riêng vào từng công thức, với HPMC, EC thì thêm với tỷ lệ 0,5 phần, GMS và Sterotex là 0,25 phần. Đánh giá khả năng nổi, thử nghiệm hòa tan ( môi trường mô phỏng dịch vị pH = 1,2, tốc độ cánh khuấy : 100vòng/ phút, t0 = 37±0,50C, đo quang ở λ = 236,4 nm với tỷ lệ pha loãng thích hợp ) Kết quả : tất cả các hạt đều có khả năng nổi hơn 6h, tốc độ giải phóng dược chất giảm đáng kể khi tăng lượng Gelucire, các TD khác đã làm ngăn cản sự giải phóng ồ ạt ban đầu của hạt nổi. Riêng hạt chứa GMS thì không có khả năng nổi, do đó, ngoài tính sơ nước thì tỷ trọng cũng là một yếu tố quan trọng khi thiết kế dạng nổi. Như vậy , TD sơ nước – Gelucire 43/01 có thể là một chất mang hiệu quả để thiết kế hệ nổi cho các thuốc có độ tan lớn như Diltiazem HCl [19]. - Chang, Richard. R đã nghiên cứu công thức sơ bộ của viên nén DTZ GPKD hệ cốt sơ nước. Nguyên liệu tạo cốt : mono-, di- glycerin, ethyl cellulose, cellulose acetate và cellulose vi tinh thể. Lượng cốt có thể chiếm 40 – 90% khối lượng viên. Bào chế viên nhân bằng phương pháp tạo hạt ướt, viên nhân dược bao film để kéo dài giải phóng. Màng bao thường dùng các polymer hút nước trương nở là các ether cellulose như hydropropy methyl cellulose (HPMC), hydropropyl cellulose (HPC), muối Natri của carboxymethyl cellulose (Na-CMC).. hoặc hỗn hợp của chúng. Nghiên cứu đã đưa ra một công thức chung cho viên nén DTZ GPKD : viên nhân : DTZ 10 – 40%, GMS 20 – 50%, cellulose vi tinh thể 20- 50%, povidon 4 – 5%, Mg-St 0 – 2 %; tá dược độn 0 – 20%(vđ). màng bao : 1 – 2% HPMC-E5, 1- 2% HPMC-E50, polyethylen glycol 0.1 -1%, chất màu phân tán 2 – 3%. Trong màng bao có thể đưa thêm 1 – 2% DTZ để tạo liều ban đầu [10]. - M.C Gohel và M.K Panchal đã sử dụng hệ số tương tự f2 và Sd trong thiết kế thí nghiệm 32 cho viên nén giải phóng kéo dài DTZ. Trong nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng biến độc lập là khối lượng gôm Guar đã kiềm hóa và alcol cetylic. Biến phụ thuộc là hệ số tương tự f2 và Sd. Bào chế viên nén DTZ bằng phương pháp dập thẳng : đun nóng chảy alcol cetylic , phân tán đều DTZ vào alcol nóng chảy, làm nguội từ từ bằng khuấy trộn với tốc độ vừa phải, xát hạt qua rây 60. Hạt thu được đem trộn đều với gôm Guar và tá dược trơn (Mg-St, Talc) rồi dập viên bằng máy dập viên 16 chày, φ = 8mm. Thử hòa tan bằng thiết bị cánh khuấy, môi trường nước cất, tốc độ 50vòng/phút, lấy 5ml/giờ trong 12h, lọc qua màng lọc 0,45μm rồi đem đo quang ở λ = 237nm. Kết quả của nghiên cứu: bào chế được viên nén DTZ GPKD dạng cốt chứa gôm Guar và alcol cetylic với công thức tối ưu : DTZ 90mg gôm Guar kiềm hóa 80mg alcol cetylic 15mg. Xác định được động học giải phóng tuân theo mô hình động học Kormeyer và Peppes. Vậy có thể sử dụng giá trị f2 và Sd làm biến phụ thuộc khi lựa chọn công thức tối ưu.Việc sử dụng giá trị f2 và Sd là biến phụ thuộc có ưu điểm hơn việc sử dụng các giá trị Yx , tz và MDT thông thường là do 2 giá trị này đánh giá được toàn bộ quá trình hòa tan còn các giá trị thông thường chỉ đánh giá kết quả hòa tan tại một điểm [13]. - Yucun Zhu, Ketan A. Mehta, James W. MacGinity đã nghiên cứu ảnh hưởng của chất hóa dẻo đến sự giải phóng DTZ từ viên nén đùn nóng chảy và pellet bao. Nguyên liệu : acrylic polymer (Eudragit RSPO, Eudragit RD 100), triethyl citrat (TEC). Bào chế viên nén bằng phương pháp đùn nóng chảy; pellet nhân bào chế bằng phương pháp tạo hạt ướt, bao bằng máy bao tầng sôi. Định lượng bằng sắc kí lỏng hiệu năng cao (HPLC), thử hòa tan bằng thiết bị cánh khuấy, tốc độ cánh khuấy 50 vòng/ phút trong 900ml dung dịch đệm phosphat pH 7,2, lấy 2ml dịch hòa tan để định lượng bằng HPLC. Kết quả: với viên đùn nóng chảy khả năng giải phóng DTZ tăng khi tăng lượng TEC sử dụng, có TEC giải phóng ra trong quá trình thử hòa tan. Còn với pellet bao thì TEC tăng làm giảm khả năng giải phóng DTZ. Điều này có thể giải thích là do trong viên đùn nóng chảy, polymer tồn tại cấu trúc kiểu dạng kho chứa thuốc nên khi tăng lượng TEC làm giảm cấu trúc kho chứa thì giải phóng dược chất tăng. Với màng bao thì TEC với vai trò là chất hóa dẻo đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tiểu phân polymer kết dính tạo thành màng liên tục làm giảm tính thấm [24]. - T. Hekmatara, G. Regdon Jr, P. Sipos, I. Erós và K. Pintye- Hódi đã tiến hành phân tích nhiệt vi cầu chứa DTZ. Mục đích của nghiên cứu này là bào chế được vi cầu chứa DTZ , phân tích trạng thái nhiệt của vi cầu và các thành phần. Bào chế vi cầu Chitosan chứa DTZ với các tỷ lệ DTZ: Chitosan =1:1 ; 1:1,5 ; 1:2 bằng phương pháp phun sấy. Dùng phương pháp phân tích nhiệt vi sai (DSC) để đánh giá. Kết quả phân tích nhiệt vi sai cho thấy : + DTZ : bột kết tinh không đồng nhất, tinh thể hình lăng trụ, trên các tinh thể lớn có thể có vài tiểu phân nhỏ. Đường cong DSC cho thấy khi phun sấy ở 1600C thì không làm nóng chảy DTZ,tăng nhiệt độ đến nóng chảy thì có kèm phân hủy. + Chitosan : dạng bột gồm các mảnh giống bông tiểu phân lớn có bề mặt lớn. Trạng thái nhiệt của Chitosan được chia làm nhiều bước: giai đoạn thu nhiệt – chủ yếu là để bay hơi nước,khi phân tích ở 1600C thì không có sự thay đổi; giai đoạn tỏa nhiệt 295 – 3000C sự tỏa nhiệt có liên quan đến sự phân hủy. + Vi cầu tỷ lệ 1:1 có dạng cầu đẹp nhất, các tiểu phân kết tập nhiều hơn đơn lẻ. Vi cầu tỷ lệ 1:1,5 có nhiều sợi tiểu phân hơn vi cầu, bề mặt không mịn. Còn vi cầu tỷ lệ 1:2 chủ yếu là các sợi tiểu phân, cầu trúc rỗng. Đỉnh tỏa nhiệt của vi cầu thay đổi ở dải nhiệt độ thấp, thay đổi lớn ở đỉnh tỏa nhiệt có thể thấy rõ nhất khi nồng độ Chitosan thấp (1:1 là 2450C,1:1,5 là 2490C, 1:2 là 2520C) không phát hiện thấy điểm nóng chảy điển hình của DTZ trong vi cầu chứng tỏ không có DTZ tinh thể tự do, kết quả phân tích cho thấy diễn biến nhiệt của dạng vô định hình [15]. - M.S. Suleiman, M. E. Abdulhmeed, N. M. Najib, H. Y. Muti đã nghiên cứu về động học giải phóng của DTZ. Mục đích của nghiên cứu là xác định động học giải phóng DTZ trong các môi trường pH từ 1 đến 7. pH 1 ; 2 dùng đệm KCl – HCl, ở pH 3 ; 4 ; 5 dùng đệm McIlvaine (acid citric- Na2HPO4), ở pH 6 ; 7 dùng đệm phosphat Na2HPO4 - NaH2PO4 xác định bằng máy đo pH ở 250C. Ảnh hưởng bởi nhiệt độ được đánh giá trong môi trường pH = 2, đồ thị giải phóng DTZ theo thời gian là đường thẳng nên có thể tính toán theo phương trình động học bậc 1. Ở các môi trường khác nhau thì sự thủy phân của DTZ khác nhau, sự giải phóng của DTZ tuân theo động học bậc 1. Dựa vào phương trình hồi quy tuyến tính xác định được DTZ ổn định ở khoảng pH 3 – 6, tối ưu là pH = 5 [21]. Chương 2 : NGUYÊN LIỆU – THIẾT BỊ - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. NGUYÊN LIỆU VÀ THIẾT BỊ NGHIÊN CỨU : 2.1.1. Nguyên liệu : Bảng 2.1 : Nguyên liệu và hóa chất nghiên cứu Nguyên liệu  Nguồn gốc  Tiêu chuẩn   Diltiazem.HCl  Ấn Độ  USP 31   Sáp ong  Việt Nam  DĐVN III   Sáp Carnaubar  Đức  USP 24   Alcol cetylic  Trung Quốc  BP 2005   Lactose  Trung Quốc  BP 2005   Avicel  Đài Loan  BP 2005   Magie Stearat  Trung Quốc  USP 26   Talc  Trung Quốc  BP 93   2.1.2. Thiết bị nghiên cứu : - Máy dập viên tâm sai KROSCH ( Đức ). - Máy thử độ hòa tan ERWEKA DT 600( Đức ). - Máy nghiền bi RETCH MM220 ( Đức ). - Máy đo quang phổ UV – VIS HITACHI U-1800. - Tủ vi khí hậu . - Cân phân tích SARTORIUS BP 121S. - Máy đo tỷ trọng biểu kiến ERWEKA SVM. - Máy đo tốc độ trơn chảy ERWEKA GWF. - Cân kỹ thuật , tủ sấy, nồi cách thủy . 2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU : 2.2.1. Phương pháp bào chế viên nén : Viên nén DTZ GPKD được bào chế theo phương pháp tạo hạt nóng chảy : Dược chất, TD bột trong công thức ( trừ TD chống dính) rây qua rây 180μm, cân theo khối lượng trong công thức, trộn đều các TD với nhau. TD béo cân theo công thức, đun chảy trong bát sứ trên nồi cách thủy ở nhiệt độ khoảng 900C. Sau đó phối hợp dược chất, trộn đều cho đồng nhất. Phối hợp các TD khác được khối hạt , xát hạt qua rây 1,0mm và rây 0,8 mm. Trộn TD chống dính, dập viên m = 400g, φ = 10mm. 2.2.2. Phương pháp đáng giá chỉ tiêu chất lượng: 2.2.2.1. Chỉ tiêu cho hạt : Đo độ trơn chảy : Sử dụng máy đo tốc độ trơn chảy của hạt và bột ERWEKA GWF, với đường kính lỗ phễu 12mm. Tốc độ trơn chảy được tính theo công thức : v = tg φ Trong đó : v – tốc độ trơn chảy ( g/giây). φ – góc giữa đường thẳng biểu diễn sự phụ thuộc của khối lượng bột hay hạt chảy theo thời gian và trục hoành ( độ). Xác định tỷ trọng biểu kiến : Sử dụng máy đo tỷ trọng biểu kiến của hạt và bột ERWEKA SVM. Tỷ trọng của hạt và bột được tính theo công thức :  Trong đó : m – khối lượng hạt hay bột ( g ). V – thể tích khối hạt hay bột sau khi gõ ( cm3 ). D – tỷ trọng biểu kiến ( g/cm3 ). 2.2.2.2. Chỉ tiêu cho viên nén : Định lượng hàm lượng DTZ trong viên nén : Mẫu thử : cân chính xác khối lượng 20 viên, tính khối lượng trung bình viên. Nghiền thành bột mịn. Cân chính xác lượng bột viên tương ứng với khoảng 120mg DTZ cho vào cốc có mỏ, thêm khoảng 40ml nước cất. Khuấy đều rồi đem siêu âm trong 30 phút. Dùng đũa thủy tinh khuấy đều rồi cho vào bình định mức 100ml, tráng cốc có mỏ 3 lần bằng nước cất, dịch tráng cũng cho vào bình định mức. Thêm nước cất đủ thể tích. Lắc kỹ và lọc nhanh. Bỏ 20ml dịch lọc đầu, lọc đến hết. Hút chính xác 10ml dịch lọc cho vào bình định mức 100ml, thêm nước cất đủ thể tích, lắc kỹ đem đo quang. Mẫu chuẩn : Cân chính xác khoảng 120mg DTZ cho vào bình định mức 100ml, thêm nước cất đến vạch, lắc kỹ. Sau đó làm tương tự mẫu thử từ “hút chính xác 10ml…”. Mẫu trắng : nước cất. Đo mật độ quang của mẫu thử và mẫu chuẩn đã pha như trên ở bước sóng 287nm. Hàm lượng DTZ trong mẫu thử được tính bằng phương pháp so sánh với mẫu chuẩn có nồng độ đã biết. Thử nghiệm hòa tan : Tiến hành thử hòa tan theo test 1 trong chuyên luận về DTZ giải phóng kéo dài của USP 31- NF 26 bằng Máy thử độ hòa tan ERWEKA DT 600( Đức ) với các thông số được thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực nghiệm: Máy 2 ( thiết bị cánh khuấy ). Tốc độ cánh khuấy : 100 vòng/phút Môi trường : 900ml nước cất Nhiệt độ : 37 ± 0,50C Đo quang : λ = 287 nm, mẫu trắng : nước cất; mẫu chuẩn : pha tương tự như mẫu chuẩn để định lượng viên nén. Số liệu tính toán theo công thức :  Trong đó : – khối lượng DTZ trong viên thử hòa tan (mg). V – thể tích môi trường (trong trường hợp này V = 900ml).  - thể tích mỗi lần hút mẫu (trường hợp này ).  - nồng độ chưa hiệu chỉnh ở giờ thứ i (μg/ml) với , là nồng độ và mật độ quang của dung dịch chuẩn, Di – mật độ quang của dịch hòa tan ở giờ thứ i. - nồng độ đã hiệu chỉnh ở giờ thứ i – 1 (μg/ml). Đồng đều khối lượng : theo phụ lục 8.3 – DĐVN III. Cân chính xác khối lượng 20 viên bất kì, tính khối lượng trung bình. Cân riêng từng khối lượng từng viên, so sánh với khối lượng trung bình, tính độ lệch theo tỷ lệ phần trăm của khối lượng trung bình. Từ đó tính ra khoảng giới hạn của giá trị trung bình. Theo dõi độ ổn định : Bảo quản mẫu trong túi nilon hàn kín ở điều kiện lão hóa cấp tốc bằng tủ vi khí hậu ở 40 ± 2 0C và độ ẩm 75 ± 5%. Tiến hành lấy mẫu 15 ngày / lần để tiến hành định lượng và thử nghiệm hòa tan. 2.2.3 Phương pháp thiết kế thí nghiệm : - Thiết kế : sử dụng mặt hợp tử tại tâm với phần mềm MODDE 8.0.2 - Lựa chọn công thức tối ưu của viên nén DTZ GPKD bằng phần mềm INFORM 3.2. - So sánh 2 đường cong giải phóng in vitro: Chỉ số f2 thể hiện sự giống nhau giữa 2 đồ thị giải phóng dược chất, được quy định bởi Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ ( FDA ) và Cơ quan đánh giá các sản phẩm y học Châu Âu ( The Europaen Agency for the Evaluation of Medicinal Products – EMEA ) đưa ra như sau :  Trong đó : N : số điểm lấy mẫu Ri, Ti : % giải phóng dược chất tại thời điểm i của mẫu đối chiếu và mẫu thử. Giá trị f2 càng gần 100 thì 2 đồ thị càng giống nhau. f2 = 100 khi 2 đồ thị giống nhau hoàn toàn, f2 = 50 thì sự sai khác trung bình tại mỗi điểm là 10%, f2 nằm trong khoảng 50 – 100 thì 2 đồ thị được coi là giống nhau [18]. Chương 3 : KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM VÀ NHẬN XÉT 3.1. XÁC ĐỊNH MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA NỒNG ĐỘ DUNG DỊCH VÀ MẬT ĐỘ QUANG CỦA DUNG DỊCH DTZ TẠI λ=287nm : Để định lượng hàm lượng DTZ trong viên nén GPKD và định lượng DTZ trong môi trường hòa tan bằng phương pháp đo quang, trước hết phải khảo sát mức độ phụ thuộc tuyến tính giữa mật độ quang và nồng độ của dung dịch DTZ . 3.1.1. Trong môi trường nước cất : Pha dãy dung dịch DTZ có nồng độ chính xác khoảng : 20, 40, 60, 80, 100, 120, 140 μg/ml trong môi trường nước cất và đo quang ở λ=287nm. Kết quả mối tương quan được thể hiện ở bảng 3.1 và hình 3.1 : Bảng 3.1 : Mật độ quang của các dung dịch DTZ trong nước cất ở λ=287nm. Nồng độ (μg/ml)  20  40  60  80  100  120  140   Mật độ quang  0,068  0,130  0,202  0,265  0,337  0,411  0,483   Nhận xét : Giá trị R2 = 0,9993 ( ≈ 1 ) cho thấy có phụ thuộc tuyến tính của mật độ quang với nồng độ dung dịch tại λ = 287 nm trong khoảng nồng độ từ 20 – 140 μg/ml. Và do đó, có thể sử dụng bước sóng này để đo quang trong các thí nghiệm tiếp sau.  Hình 3.1 : Đồ thị biểu diễn mối tương quang giữa mật độ quang với nồng độ dung dịch DTZ trong nước cất ở λ=287nm. 3.1.2. Trong đệm phosphat pH 6,8 : Pha dãy dung dịch DTZ có nồng độ chính xác khoảng : 20, 40, 60, 80, 100, 120, 140 μg/ml trong môi trường đệm pH = 6,8 và đo quang ở λ=287nm. Kết quả mối tương quan được thể hiện ở bảng 3.2 và hình 3.2 : Bảng 3.2 : Mật độ quang của các dung dịch DTZ trong đệm pH 6.8 ở λ=287nm Nồng độ (μg/ml)  20  40  60  80  100  120  140   Mật độ quang  0,062  0,122  0,197  0,250  0,312  0,379  0,446   Nhận xét : Giá trị R2 = 0,9995 (≈1) cho thấy có sự phụ thuộc tuyến tính của mật độ quang và nồng độ dung dịch DTZ trong môi trường đệm pH 6,8 ở λ=287nm. Do đó có thể sử dụng bước sóng này để đo quang cho các phép định lượng trong các thí nghiệm tiếp theo.  Hình 3.2 : Đồ thị biểu diễn mối tương quang giữa mật độ quang với nồng độ dung dịch DTZ trong đệm pH 6,8 ở λ=287nm. 3.2. XÂY DỰNG CÔNG THỨC CƠ BẢN CHO VIÊN NÉN DTZ GPKD : DTZ là một dược chất bền với nhiệt ( nóng chảy ở 2130C có kèm phân hủy ) nên có thể sử phương pháp tạo hạt nóng chảy, đồng thời đây là một dược chất có độ tan lớn nên phù hợp để bào chế dạng GPKD dùng cốt sơ nước. Vì vậy chúng tôi quyết định sử dụng dạng cốt sơ nước này để bào chế viên nén DTZ giải phóng kéo dài 12h. Có nhiều loại TD béo có thể sử dụng được trong trường hợp này như sáp ong, sáp Carnaubar, alcol cetylic, alcol cetostearylic… Khi sử dụng TD béo với tỷ lệ lớn thì quá trình xát hạt rất khó khăn do TD nóng chảy rất dính. Mặt khác, dạng bào chế chỉ yêu cầu kéo dài tác dụng trong 12h nên chúng tôi chỉ sử dụng TD béo với tỷ lệ khoảng 30 – 40 % công thức. Khảo sát với 3 loại TD béo là : sáp ong (SO), sáp Carnaubar(SC), alcol cetylic(AC). Ngoài ra trong công thức sử dụng cho cốt thân dầu thường có thêm một lượng TD rắn dạng bột mịn để đảm bảo quá trình xát hạt dập viên cũng như sự giải phóng dược chất. Đó là các TD phân tán, TD tạo kênh góp phần kiểm soát giải phóng. Do đó qua tham khảo các tài liệu chúng tôi chọn công thức khảo sát sơ bộ như sau : Diltiazem 120mg Tá dược béo 30 – 40 % Avicel 10 – 20 % Lactose vđ Magne stearat 1 – 2% Talc 1 – 2% Trong đó : TD béo là TD tạo cốt kiểm soát giải phóng. Avicel là TD độn , hút nước, chống dính giúp tạo hạt dễ dập viên. Lactose là TD độn hòa tan thêm vào để đảm bảo khối lượng viên đồng thời để tạo kênh khuếch tán. Mg-st và talc là TD chống dính. 3.2.1 Lựa chọn TD kiểm soát giải phóng : Tiến hành khảo sát với 3 loại TD béo là : sáp ong, sáp Carnaubar, alcol cetylic với tỷ lệ 30% công thức. Bảng 3.3 : Công thức tạo cốt với các TD béo khác nhau. Công thức  M1(SC)  M2(SO)  M3(AC)   DTZ  120mg  120mg  120mg   TD béo  120mg  120mg  120mg   Avicel  100mg  100mg  100mg   Lactose  60mg  60mg  60mg   Bào chế viên nén theo mục 2.2.1. Mỗi công thức làm 100 viên. Thử hòa tan cả 3 công thức. Kết quả thu được được biểu diễn trong bảng 3.4 và hình 3.3. Bảng 3.4 : % giải phóng DTZ từ các viên chứa TD béo khác nhau. Thời gian(h)  HL(%)  1  2  3  4  5  6  7  8   M1( SC )  105,51  42,40  77,83  81,02  91,86  92,50  92,74  94,75  95,57   M2( SO )  101,16  37,13  49,91  60,89  66,42  70,61  76,72  81,03  91,14   M3( AC )  100,66  43,01  55,93  65,92  75,23  84,27  85,41  89,05  95,83    Hình 3.3 : Đồ thị giải phóng DTZ của các viên chứa TD béo khác nhau Nhận xét : Công thức M1 sử dụng sáp Carnauba rất khó xát hạt, TD đông cứng nhanh dính bết vào rây. Công thức M2, M3 khi xát hạt thì duy trì được trạng thái nóng chảy nhưng khối bột hơi nhão và khi dập viên thì viên thu được mềm, không đảm bảo độ cứng. Kết quả thử hòa tan cho thấy khả năng kiểm soát giải phóng của cả 3 loại TD lần lượt xếp theo thứ tự : sáp ong > alcol cetylic > sáp carnaubar. Sáp carnaubar đã giải phóng hơn 80% sau 3h, alcol cetylic giải phóng hơn 80% sau 5giờ và sự giải phóng không đều. Sáp ong kiểm soát giải phóng và giải phóng đều đặn nhất trong 3 loại TD khảo sát. Vì vậy, chúng tôi chọn sáp ong làm TD kiểm soát giải phóng. Tuy nhiên trong quá trình xát hạt và đập viên, sáp ong làm cho khối bột nhão, bết rây và viên không đủ độ cứng cần thiết nên chúng tôi quyết định sử dụng thêm sáp carnaubar để đảm bảo quá trình xát hạt và đập viên. 3.2.2. Khảo sát ảnh hưởng tỷ lệ sáp Carnaubar và sáp ong : Khảo sát 3 tỷ lệ khác nhau của sáp ong và sáp Carnaubar trong công thức chứa 30% TD béo: Bảng 3.5 : Công thức lựa chọn tỷ lệ sáp Carnaubar và sáp ong Công thức  M4(1: 2)  M5(1:1)  M6(2:1)   DTZ  120mg  120mg  120mg   SO  50mg  75mg  100mg   SC  100mg  75mg  50mg   Avicel  80mg  80mg  80mg   Lactose  50mg  50mg  50mg   Tiến hành bào chế viên nén theo phương pháp trong mục 2.2.1. mỗi công thức làm 100 viên. Thử hòa tan với cả 3 công thức, kết quả thu được bảng 3.6và hình 3.4 : Bảng 3.6 : % giải phóng DTZ từ các viên chứa tỷ lệ sáp Carnaubar và sáp ong khác nhau Thời gian (h)  HL(%)  1  2  3  4  5  6  7  8   M4(1:2)  100,41  46,07  71,20  87,81  93,24  98,93  100,85  102,17  102,44   M5(1:1)  100,91  35,41  46,40  55,44  61,74  73,06  80,89  88,49  92,22   M6(2:1)  100,58  32,14  39,27  48,85  53,33  61,27  66,29  67,09  68,77    Hình 3.4 : Đồ thị giải phóng của các viên chứa tỷ lệ sáp ong và sáp Carnaubar khác nhau. Nhận xét: Công thức M5, M6 xát hạt và dập viên dễ, đảm bảo độ cứng cần thiết. Công thức M4 khó xát hạt. Từ kết quả thử hòa tan cho thấy khi tăng lượng sáp ong thì khả năng kiểm soát giải phóng tăng lên. Khi sử dụng SO : SC là 1: 2 (M4) thì chỉ sau 3h gần như đã giải phóng hết (87.81%), tỷ lệ 2 : 1 thì sau 8h chỉ mới giải phóng gần 70%. Với tỷ lệ 1: 1 thì sự giải phóng được kiểm soát khá tốt, và đều dặn. Do đó chúng tôi sẽ sử dụng công thức M5 (tỷ lệ 1:1) này trong các thí nghiệm tiếp theo.Tuy nhiên trong M5 từ giờ thứ 6 thì thuốc giải phóng nhanh nên chúng tôi quyết định tăng lượng sáp ong để đảm bảo kiểm soát giải phóng theo mong muốn. 3.2.3. Khảo sát ảnh hưởng của Avicel : Avicel có khả năng hút nước mạnh và trương nở tạo kênh khuếch tán, nên trong công thức nó sẽ ảnh hưởng đến sự giải phóng thuốc từ hệ cốt. Khảo sát ảnh hưởng của Avicel ở các tỷ lệ khác nhau: Bảng 3.7 : Công thức tạo cốt với tỷ lệ Avicel khác nhau Công thức  M7  M8   DTZ  120mg  120mg   TD béo (1:1)  140mg  140mg   Avicel  40mg(10%)  80mg (20%)   Lactose  100mg  60mg   Kết quả thử hòa tan của 2 công thức thể hiện ở bảng 3.8 và hình 3.5 : Bảng 3.8 : % giải phóng DTZ từ các viên chứa tỷ lệ Avicel khác nhau Thời gian (h)  HL(%)  1  2  3  4  5  6  7  8   M7( 10%)  100,08  25.19  35.41  40.70  46.64  49.65  53.87  55.45  57.92   M8 (20%)  100,58  35.54  43.26  49.04  53.45  60.55  64.29  69.24  74.52    Hình 3.5 : Đồ thị giải phóng DTZ từ các viên chứa tỷ lệ Avicel khác nhau. Nhận xét : Cả 2 công thức đều có thể xát hạt và dập viên dễ dàng,viên bóng, đẹp. Từ kết quả hòa tan, thấy tỷ lệ Avicel trong công thức có ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát giải phóng. M7 (10% Avicel) sau 8h chỉ mới giải phóng được 57.92%, M8 (20% Avicel) giải phóng đều đặn , sau 8h giải phóng được 74.52% Vì vậy, chúng tôi quyết định sử dụng lượng Avicel 20% công thức. 3.2.4. Khảo sát ảnh hưởng của các TD chống dính: TD chống dính sử dụng có bản chất sơ nước nên có thể ảnh hưởng đến khả năng giải phóng của thuốc nên cần chọn tỷ lệ thế nào vừa đảm bảo khả năng chống dính đồng thời không làm ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát giải phóng. Khảo sát ảnh hưởng của TD chống dính (gồm Mg –St : talc = 1: 1) ở 2 tỷ lệ : Công thức  M9  M10   TD chống dính  2%  4%   (các thành phần khác tương tự công thức M8)   Kết quả thử hòa tan của 2 công thức thể hiện ở bảng 3.9 và hình 3.6 : Bảng 3.9 : % giải phóng DTZ từ các viên chứa tỷ lệ TD chống dính khác nhau. Thời gian (h)  HL(%)  1  2  3  4  5  6  7  8   M 9 (2%)  95,83  25.19  35.41  40.70  46.64  49.65  58.30  64.22  69.17   M 10 (4%)  97,50  29.17  37.75  44.17  48.85  53.17  62.76  65.91  70.07    Hình 3.6:Đồ thị giải phóng DTZ từ các viên chứa tỷ lệ TD chống dính khác nhau. Nhận xét : Khi dập viên ở cả 2 tỷ lệ này đều không xuất hiện hiện tượng dính chày cối, hạt trơn chảy tốt. Kết quả hòa tan cho thấy khi sử dụng TD chống dính với tỷ lệ 2% và 4% thì ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát giải phóng là khác nhau không nhiều. Mặt khác, với viên sử dụng tỷ lệ 2% viên dập tốt, bề mặt bóng. Do đó, chúng tôi quyết định sử dụng tỷ lệ TD chống dính là 2%. Xây dựng công thức cơ bản : Với kết quả khảo sát sơ bộ trên, chúng tôi tiến hành thiết kế thí nghiệm với công thức cơ bản : DTZ 120mg Sáp ong thay đổi Sáp Carnaubar thay đổi Avicel thay đổi Lactose vừa đủ Mg – St 1% Talc 1% 3.3. LỰA CHỌN CÔNG THỨC TỐI ƯU : 3.3.1. Thiết kế thí nghiệm : Biến đầu vào: Kết quả các thí nghiệm khảo sát sơ bộ cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát giải phóng dược chất có : sáp ong, sáp carnaubar, Avicel. Do đó các biến đầu vào được lựa chọn như bảng 3.10 : Bảng 3.10: Biến đầu vào và các mức giá trị Biến đầu vào  Kí hiệu  Mức dưới (-1)  Mức cơ sở (0)  Mức trên (+1)   Sáp ong  X1  55 mg  70 mg  85 mg   Sáp carnaubar  X2  60 mg  70 mg  80 mg   Avicel  X3  60 mg  80 mg  100mg   Lactose được thêm vào để đảm bảo khối lượng viên. Biến đầu ra : Dựa vào một số tài liệu tham khảo và yêu cầu chung của dạng thuốc các biến đầu ra được lựa chọn như bảng 3.11 : Bảng 3.11: Biến đầu ra và yêu cầu. Biến đầu ra  Ký hiệu  Khoảng biến thiên   % giải phóng sau 1h  Y1  25 – 35 %   % giải phóng sau 3h  Y3  52,5 – 62,5 %   % giải phóng sau 8h  Y8  ≥ 80%   Thiết kế thí nghiệm : Sử dụng thiết kế mặt hợp tử tại tâm với phần mềm MODDE 8.0.2 chúng tôi đã thiết lập được 17 công thức viên nén DTZ GPKD được trình bày trong bảng 3.9 : Bảng 3.12 : Bảng thiết kế thí nghiệm Công thức  DTZ (mg)  sáp ong (mg)  sáp carnaubar (mg)  Avicel (mg)  Lactose (mg)          M 11  120  55  60  60  105   M 12  120  85  60  60  75   M13  120  55  80  60  85   M 14  120  85  80  60  55   M 15  120  55  60  100  65   M 16  120  85  60  100  35   M 17  120  55  80  100  45   M 18  120  85  80  100  15   M 19  120  55  70  80  75   M 20  120  85  70  80  45   M 21  120  70  60  80  70   M 22  120  70  80  80  50   M 23  120  70  70  60  80   M 24  120  70  70  100  40   M 25  120  70  70  80  60   M 26  120  70  70  80  60   M 27  120  70  70  80  60   3.3.2. Bào chế viên theo thiết kế : Tiến hành bào chế 17 công thức viên nén như trên theo mục 2.2.1 mỗi mẻ làm 100 viên và thực hiện thử nghiệm hòa tan theo phương pháp trình bày ở mục 2.2.2.2. Kết quả thử hòa tan được thể hiện trong bảng 3.13 : Bảng 3.13 : % giải phóng DTZ từ các công thức theo thiết kế Công thức  HL (%)  Y1 (%)  Y3 (%)  Y8 (%)   M 11  102,16  48,44  68,93  103,03   M 12  102,25  31,12  43,3  60,83   M13  98,08  39,66  59,66  95,24   M 14  99,25  29,7  45,3  64,1   M 15  96,41  47,03  66,61  97,83   M 16  97,08  32,81  53,76  77,99   M 17  94,83  41,17  63,98  98,14   M 18  91,58  29,48  42,73  65,06   M 19  96,16  40,99  70,13  96,77   M 20  93.91  33,74  52,06  67,08   M 21  89.25  41,23  50,61  76,99   M 22  97,33  37,8  43,87  71,63   M 23  97,00  34,93  53,43  80,64   M 24  95,66  37,55  56,46  87,23   M 25  95,50  37,28  54,26  79,77   M 26  101,25  33,3  48,02  73,36   M 27  97,33  36,64  51,82  76,89   3.3.3. Đánh giá ảnh hưởng của biến đầu vào tới giá trị của biến đầu ra : Đánh giá ảnh hưởng của các biến đầu vào tới giá trị của các biến đầu ra chúng tôi sử dụng phần mềm INFORM 3.2 để xử lý số liệu thu được. Khi tiến hành luyện với các kết quả thử hòa tan của 17 công thức theo thiết kế thí nghiệm thì chỉ số R2 của test data quá thấp không đạt độ tin tưởng nên chúng tôi quyết định đưa thêm các thí nghiệm khảo sát sơ bộ ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào. Sự ảnh hưởng của các yếu tố đầu vào khi kết hợp tới giá trị biến đầu ra được thể hiện qua các mặt đáp. 3.3.3.1. Ảnh hưởng của sáp ong : Ảnh hưởng của sáp ong tới % giải phóng DTZ từ viên GPKD được thể hiện trong mặt đáp hình 3.7 và mặt đáp hình 3.8a,b,c. Khi sử dụng lượng sáp ong tăng thì % giải phóng giảm. Với lượng lớn sáp ong > 20% (80mg) thì giảm dần lượng sáp không làm ảnh hưởng đến % giải phóng dược chất từ dạng bào chế, sau đó nếu tiếp tục giảm lượng sáp thì %giải phóng dược chất tăng lên, phù hợp với quy luật. Điều này có thể giải thích do sáp ong là TD chính kiểm soát giải phóng , khi sử dụng với lượng lớn thì cấu trúc cốt tạo ra dày đặc, khả năng môi trường hòa tan thấm vào để hòa tan dược chất và dung dịch dược chất khuếch tán ra ngoài gặp khó khăn. DTZ là một dược chất dễ tan nên cơ chế giải phóng là do sự khuếch tán kiểm soát. Do đó %giải phóng DTZ giảm khi lượng sáp ong tăng. 3.3.3.2. Ảnh hưởng của sáp Carnaubar : Ảnh hưởng của sáp Carnauba tới khả năng giải phóng DTZ từ viên GPKD được thể hiện ở mặt đáp hình 3.7. Khi lượng sáp Carnaubar sử dụng tăng dần thì % giải phóng giảm dần. Điều này có thể giải thích tương tự như sáp ong vì trong công thức sáp Carnaubar được sử dụng phối hợp với sáp ong để tạo cốt ăn mòn kiểm soát giải phóng. Khi sử dụng tăng dần lượng sáp Carnaubar với lượng ít hơn 17,5% (75mg) hoặc nhiều hơn 22,5% (90mg) thì việc thay đổi này không ảnh hưởng đến khả năng giải phóng. Khi tăng từ khoảng từ mức 17,5% - 22,5% thì có sự giải phóng DTZ giảm rõ rệt điều này có thể là ở mức nồng độ này thì sự phối hợp 2 sáp tạo nên sự thay đổi rõ rệt trong cấu trúc cốt tạo ra một bước nhảy về khả năng giải phóng.  Hình3.7 : Mặt đáp thể hiện ảnh hưởng của sáp ong và sáp Carnaubar đến %giải phóng DTZ sau 3h. 3.3.3.3. Ảnh hưởng của Avicel : Ảnh hưởng của Avicel tới % giải phóng dược chất thể hiện ở mặt đáp hình 3.8 a,b,c tương ứng. Qua 3 mặt đáp thấy lượng Avicel sử dụng chỉ ảnh hưởng ít đến khả năng giải phóng dược chất. Tuy nhiên, ở thời điểm 1h thì sự giải phóng dược chất không ổn định so với thời điểm 3h và 8h. Điều này có thể giải thích do Avicel có khả năng hút nước để tạo kênh khuếch tán. Ở thời điểm 1h sự hút nước chưa hoàn toàn, có sự khác nhau ở các công thức nên % giải phóng khác nhau. Còn đến thời điểm 3h và 8h thì sự hút nước đã hoàn toàn, cấu trúc cốt đã ổn định nên sự giải phóng dược chất từ các công thức không khác nhau nhiều.  Hình 3.8a: Mặt đáp thể hiện ảnh hưởng của sáp ong và Avicel đến %giải phóng DTZ sau 1h.   Hình 3.8c. : Mặt đáp thể hiện ảnh hưởng của sáp ong và Avicel đến %giải phóng DTZ sau 8h. 3.3.4. Lựa chọn công thức tối ưu : Dùng phần mềm INFORM 3.2 để xử lý kết quả chúng tôi thu được công thức tối ưu : DTZ  120,0 mg  Lactose  38,0 mg   Sáp ong  63,8 mg  Mg-St  1%   Sáp carnaubar  100,0 mg  Talc  1%   Avicel  78,3 mg     Tiến hành bào chế theo công thức tối ưu, mẻ 200 viên . Thử hòa tan cho kết quả như trong bảng 3.14 và hình 3.9. Bảng 3.14 : % giải phóng DTZ từ công thức tối ưu và dự đoán của phần mềm. Thời gian (h)  1  3  8   Công thức tối ưu  32,56%  53,49%  83,57%   Dự đoán  32,93%  56,23%  83,49%    Hình 3.9: Đồ thị giải phóng DTZ từ công thức tối ưu và dự đoán của phần mềm. Nhận xét : So sánh %giải phóng dược chất của công thức tối ưu và kết quả do phần mềm dự đoán thấy các giá trị biến đầu ra của công thức tối ưu đều nằm trong khoảng mong muốn. Mặt khác khi so sánh đồ thị giải phóng của công thức tối ưu và dự đoán của phần mềm thu được giá trị f2 =83,98 chứng tỏ 2 đồ thị được coi là giống nhau. Như vậy, công thức tối ưu có khả năng kéo dài giải phóng dược chất và đạt yêu cầu về kiểm soát giải phóng . 3.3.5. Thử hòa tan trong môi trường đệm phosphat pH 6,8: Khi sử dụng qua đường uống, hệ cốt sơ nước cùng với việc hút nước tạo cácc kênh khuếch tán thì nó sẽ bị ăn mòn trong đường tiêu hóa dưới tác dụng của dịch tiêu hóa, pH và các enzym để giải phóng dược chất. Do đó, chúng tôi tiến hành thử hòa viên nén DTZ GPKD bào chế theo công thức tối ưu trong môi trường đệm phosphat pH 6,8 là môi trường gần với điều kiện thực hơn so với nước cất để đánh giá sự ảnh hưởng của môi trường tới giải phóng dược chất. Điều kiện thử hòa tan : Máy 2 ( thiết bị cánh khuấy ). Tốc độ cánh khuấy : 100 vòng/phút Môi trường : 900ml dung dịch đệm phosphat pH 6,8 Nhiệt độ : 37 ± 0,50C Đo quang : λ = 287 nm, mẫu trắng : dung dịch đệm pH 6,8; mẫu chuẩn pha tương tự như khi thử hòa tan trong môi trường nước cất. Kết quả thử hòa tan trong môi trường đệm phosphat pH 6.8 thể hiện trong bảng 3.15 và hình 3.10. Bảng 3.15 : % giải phóng DTZ từ viên tối ưu trong môi trường đệm pH 6.8 và trong nước cất Thời gian (h)  1  2  3  4  5  6  7  8   Đệm pH 6,8  38,69  50,62  61,83  68,57  75,26  80,23  83,45  86,36   Nước cất  32,56  42,33  53,49  58,23  67,02  73,77  77,74  81,57    Hình 3.10 : Đồ thị giải phóng DTZ từ viên tối ưu trong môi trường đệm pH 6,8 và trong nước cất Nhận xét : Trong môi trường đệm pH 6,8, viên bào chế được vẫn đạt các yêu cầu về giải phóng dược chất, nhưng so với môi trường nước cất thì sự giải phóng xảy ra nhanh hơn. Điều này có thể lý giải là do môi trường đệm pH đã ảnh hưởng đến cơ chế giải phóng thuốc, lúc này không chỉ có sự hút nước tạo kênh khuếch tán mà còn có một phần cốt bị ăn mòn nên sự giải phóng dược chất tăng lên.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoidung.doc