Độ phì tự nhiên của đất đỏ basalt ở Đắk Nông
qua thời gian dài canh tác nông nghiệp đã biến
động lớn giữa các loại hình sử dụng và bị suy giảm
mạnh so với đất đỏ basalt dưới rừng tự nhiên. Giá
trị dung trọng của đất canh tác nông nghiệp lớn
hơn nhiều so với đất dưới tán rừng tự nhiên và
rừng thông do đất bị nén chặt trong quá trình canh
tác, điều này cho thấy rõ, đất đỏ basalt dưới tán
rừng tự nhiên và rừng trồng tơi xốp hơn đất canh
tác nông nghiệp. Giá trị dung trọng ở tầng mặt (0 -
20cm) lớn nhất ở đất đỏ basalt trồng cà phê, tiếp
đến là đất trồng hồ tiêu và đất trồng cây ngắn ngày.
Quá trình rửa trôi theo phẫu diện đất các cation
kiềm, kiềm thổ và tích lũy sét ở các tầng dưới của
đất đỏ basalt diễn ra tương đối mạnh đã làm cho
môi trường đất tầng mặt có phản ứng chua. Cùng
với đó là quá trình tích tụ các secquioxit (R2O3) và
hình thành kết von (laterit) đặc trưng trên bề mặt
cao nguyên tuổi Pliocen - Pleistocen sớm (N2 -
Q11) ở Đắk Nông.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng cung cấp cho
cây trồng của đất đỏ basalt ở Đắk Nông đã bị suy
giảm mạnh theo chiều sâu phẫu diện. So với đất đỏ
basalt dưới tán rừng tự nhiên, hàm lượng chất hữu
cơ tầng mặt (0 - 20cm) ở đất trồng cây ngắn ngày
giảm 64,5%; đất trồng thông giảm 55,2%; đất trồng
hồ tiêu giảm 53,6%; đất trồng cà phê giảm 27,8%.
Hàm lượng chất hữu cơ, thành phần tổng số (N, P,
K) và dễ tiêu (P, K) trong đất nghiên cứu có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc vào chế độ
canh tác và khối lượng vật liệu hữu cơ rơi rụng,
lượng phân bón sử dụng trong canh tác. Hàm
lượng các chất tổng số và dễ tiêu có sự suy giảm
không đáng kể so với đất rừng do thường xuyên
được bổ sung lượng đáng kể phân bón.
Trong các loại hình sử dụng đất nghiên cứu, đất
đỏ basalt trồng cà phê có mức độ suy giảm tính
chất lý - hóa học đất thấp nhất so với đất trồng
thông, hồ tiêu và đất trồng cây ngắn ngày. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, hàm lượng chất hữu cơ của
đất có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cung cấp
chất dinh dưỡng cho cây trồng, lượng thành phần
dễ tiêu và điều kiện hấp thụ trao đổi chất của cây
trồng. Vì vậy, trong quá trình canh tác đất đỏ basalt
ở Đắk Nông cần chú ý bón phân một cách cân đối,
hướng tới sử dụng các loại phân hữu cơ, phân vi
sinh để duy trì và tăng độ phì tự nhiên của đất.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu biến động tính chất vật lý và hóa học cơ bản của đất đỏ basalt dưới các loại hình sử dụng khác nhau ở Đắk Nông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
411
35(4), 411-417 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 12-2013
NGHIÊN CỨU BIẾN ĐỘNG TÍNH CHẤT VẬT LÝ
VÀ HÓA HỌC CƠ BẢN CỦA ĐẤT ĐỎ BASALT
DƯỚI CÁC LOẠI HÌNH SỬ DỤNG KHÁC NHAU
Ở ĐẮK NÔNG
LƯU THẾ ANH, NGUYỄN ĐỨC THÀNH, DƯƠNG THỊ LỊM,
NGUYỄN LAN HƯƠNG, NGUYỄN THỊ HUẾ, NGUYỄN HOÀI THƯ HƯƠNG
E-mail: luutheanhig@yahoo.com
Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 5 - 9 - 2013
1. Mở đầu
Đất đai là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô
cùng quý giá đối với mỗi quốc gia. Trên quan điểm
sinh thái học, đất là một dạng tài nguyên tái tạo, là
một vật thể sống, một “vật mang” của các hệ sinh
thái trên Trái Đất. Đất là tư liệu sản xuất, là đối
tượng lao động, là vật mang được đặc thù bởi tính
chất độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có
được - đó là độ phì nhiêu [5]. Như vậy, khi tác
động vào đất, đồng thời là tác động vào các hệ sinh
thái mà đất “mang” trên mình nó. Tùy thuộc vào
nhận thức và phương thức đối xử của con người,
tài nguyên đất có thể phát triển theo chiều hướng
tốt hoặc theo hướng xấu. Trong sản xuất nông
nghiệp, độ phì nhiêu của đất đóng vai trò đặc biệt
quan trọng. Kinh nghiệm thực tế sản xuất cho thấy,
năng suất cao chỉ có thể đạt được khi sử dụng kỹ
thuật canh tác đúng và nắm được những yêu cầu về
dinh dưỡng của cây trồng và đặc điểm của đất canh
tác [1]. Vì vậy, việc nghiên cứu độ phì nhiêu thực
tế thông qua hàm lượng các chất dễ tiêu (đạm, lân,
kali) là cơ sở để sử dụng đất hợp lý, đầu tư theo
chiều sâu và thâm canh tăng năng suất cây
trồng [8].
Theo kết quả phân loại đất phát triển trên sản
phẩm phong hóa đá basalt tỉnh Đắk Nông theo hệ
thống phân loại của FAO-UNESCO/WBR tỷ lệ
1:100.000 của Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông
nghiệp năm 2005, các loại đất đỏ phát triển trên
sản phẩm phong hóa của đá basalt (đất đỏ basalt)
tỉnh Đắk Nông có 382.363,7 ha (chiếm 58,7% diện
tích tự nhiên của tỉnh) [7], đây là nhóm đất có ý
nghĩa trong sản xuất nông nghiệp. Hiện nay,
khoảng 165.826 ha diện tích của nhóm đất này đã
được khai thác để sản xuất nông nghiệp, chủ yếu
trồng các loại cây lâu năm (cà phê, sao su, hồ tiêu,
điều,...) [2]. Trong điều kiện đặc thù của khí hậu
nhiệt đới cao nguyên, nơi đây đã và đang diễn ra
các quá trình thoái hóa đất tự nhiên, cùng với các
tập quán canh tác không hợp lý trong một thời gian
dài đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến độ phì của các
loại đất đỏ basalt, làm giảm năng suất cây trồng, đe
dọa đến khai thác bền vững nguồn tài nguyên đất
này. Nghiên cứu nhằm cung cấp thông tin về thực
trạng chất lượng đất đỏ basalt dưới các loại hình
canh tác khác nhau ở Đắk Nông thông qua các tính
chất vật lý và hóa học cơ bản, góp phần quản lý và
sử dụng hiệu quả hơn nguồn tài nguyên đất đỏ
basalt ở đây. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cung
cấp tư liệu tham khảo cho các nghiên cứu tiếp theo
về đất basalt và ảnh hưởng của các loại hình sử
dụng đất đến tính chất đất.
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở dữ liệu
Dữ liệu phục vụ nghiên cứu là bản đồ đất phát
triển trên sản phẩm phong hóa của đá basalt theo
phân loại định lượng FAO-UNESCO/WRB tỉnh
Đắk Nông tỷ lệ 1:100.000 do Viện Quy hoạch và
Thiết kế Nông nghiệp thành lập năm 2005 [7]; bản
đồ hiện trạng sử dụng đất tỉnh Đắk Nông tỷ lệ
412
1:100.000 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đắk Nông công bố năm 2011 [9] để xác định các
diện phân bố của nhóm đất đỏ và các loại hình sử
dụng đất chính cần nghiên cứu.
Các số liệu phân tích các chỉ tiêu vật lý và hóa
học của các phẫu diện đặc trưng cho đất đỏ basalt
của 5 các loại hình canh tác (rừng tự nhiên, rừng
trồng thông, cà phê, hồ tiêu và cây ngắn ngày) ở
Đắk Nông sử dụng trong nghiên cứu này thuộc đề
tài “Nghiên cứu tổng hợp thoái hóa đất, hoang mạc
hóa ở Tây Nguyên và đề xuất giải pháp sử dụng đất
bền vững”, mã số TN3/T01 thuộc Chương trình
Tây Nguyên 3.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lấy mẫu đất ngoài thực địa: Xác
định các tuyến điều tra theo diện phân bố của nhóm
đất đỏ, trên cơ sở bản đồ hiện trạng sử dụng đất
thiết lập các điểm nghiên cứu đại diện. Tiến hành
đào 5 phẫu diện đất đỏ basalt đại diện cho 5 loại
hình sử dụng đất (rừng tự nhiên, rừng trồng thông
ba lá, vườn cà phê vối trên 20 năm tuổi, vườn trồng
hồ tiêu trên 7 tuổi, đất trồng cây ngắn ngày), mô tả
chi tiết các tầng đất phát sinh và lấy mẫu 02 tầng
(tầng mặt: 0 - 20cm và tầng dưới: 20 - 50cm). Các
mẫu đất được lấy theo thứ tự từ tầng dưới đến tầng
mặt, mẫu đất của mỗi tầng được trộn đều sao cho
đại diện các tầng phát sinh (TCVN 4046:1985).
- Phương pháp phân tích các chỉ tiêu vật lý và
hóa học trong phòng thí nghiệm: Các mẫu đất được
xử lý sơ bộ theo "TCVN 6647:2000 (ISO l1464:
1994) Chất lượng đất - Xử lý sơ bộ đất để phân
tích lý - hóa" và phân tích vào tháng 4 năm 2013
tại Phòng Phân tích Thí nghiệm Tổng hợp Địa lý -
Viện Địa lý - Viện Hàn lâm Khoa học và Công
nghệ Việt Nam. Các phương pháp phân tích đã sử
dụng gồm:
+ pHKCl: đo bằng máy đo pH, dung dịch triết
theo tỷ lệ đất/KCl = 1/5;
+ Dụng trọng: phương pháp ống trụ kim loại
(dung trọng = P/V, trong đó P là khối lượng đất tự
nhiên trong ống trụ đóng sau khi đã được sấy khô
kiệt, V là thể tích của ống trụ);
+ Thành phần cơ giới: phương pháp ống hút
Robinson;
+ Chất hữu cơ (OC): phương pháp Walkley-
Black (TCVN 4050:1985);
+ N tổng số: phương pháp Kjeldahl cải biên
(TCVN 6498:1999);
+ P2O5 tổng số: phương pháp so màu (TCVN
4052:1985);
+ K2O tổng số và dễ tiêu: phương pháp quang
kế ngọn lửa (TCVN 4053:1985);
+ P2O5 dễ tiêu: phương pháp Oniani;
+ Ca2+, Mg2+: phương pháp Complexon;
+ CEC: phương pháp amoniaxetat với pH = 7.
Sử dụng các TCVN 7373:2004, TCVN
7374:2004, TCVN 7375:2004, TCVN 7376:2004,
TCVN 7377: 2004 quy định các giá trị chỉ thị lần
lượt về hàm lượng nitơ tổng số, phospho tổng số,
kali tổng số, carbon hữu cơ tổng số và độ pH trong
đất Việt Nam để đánh giá chất lượng đất đỏ basalt
của khu vực nghiên cứu.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Tính chất vật lý của đất đỏ trong các loại
hình sử dụng đất tỉnh Đắk Nông
Kết quả phân tích ở bảng 1 cho thấy, giá trị
dung trọng đất tầng mặt trong các loại hình sử
dụng đất dao động từ 0,85 - 1,05 g/cm3; thấp nhất
là ở đất rừng tự nhiên và cao nhất là ở đất trồng cà
phê trên 20 năm tuổi. Giá trị dung trọng tầng mặt
của đất trồng cà phê cao hơn so với các loại hình
sử dụng đất khác (hình 1), điều này cho thấy rõ tác
động của con người trong quá trình chăm sóc và
thu hoạch cà phê đã làm đất tầng mặt càng ngày
càng bị nén chặt so với các loại hình sử dụng đất
khác. Xét theo chiều sâu, giá trị dung trọng đất ở
các loại hình sử dụng đất có chiều hướng tăng, dao
động 0,92 - 1,15g/cm3.
Trong cùng một loại hình sử dụng đất, giá trị
dung trọng giữa các tầng đất có sự biến động không
đáng kể. Giá trị dung trọng của đất rừng tự nhiên và
rừng trồng thông thấp hơn rõ rệt so với đất trồng các
cây nông nghiệp, điều này cho thấy rõ tác động của
con người trong canh tác nông nghiệp đã làm cho
đất bị nén chặt hơn so với đất rừng. Ở tầng 20 - 50
cm, giá trị dung trọng của đất rừng tự nhiên < đất
rừng trồng < đất trồng tiêu < đất trồng cà phê < đất
trồng cây ngắn ngày (hình 2). Đối với đất trồng cà
phê và trồng tiêu, thường được tạo bồn và bổ sung
một lượng lớn phân hữu cơ nên dung trọng, độ xốp
đất được cải thiện đáng kể.
Kết quả phân tích cho thấy, trên các loại hình
sử dụng đất khác nhau không thấy có sự biến động
theo quy luật của thành phần cơ giới. Đất đỏ ở khu
413
vực nghiên cứu có thành phần cơ giới nặng, hàm
lượng sét (< 0,002 mm) tầng 0 - 20cm dao động
53,91 - 57,21 %; ở tầng 20 - 50cm dao động 58,45
- 60,04%. Theo chiều sâu phẫu diện, tỷ lệ sét tăng
dần và ngược lại hàm lượng cát có xu hướng giảm,
kết quả này phán ánh rõ quá trình rửa trôi theo
chiều sâu phẫu diện đã làm tích tụ sét ở các tầng
dưới trong đất đỏ basalt ở khu vực nghiên cứu.
Bảng 1. Một số tính chất vật lý của đất đỏ dưới các loại hình sử dụng đất
Thành phần cơ giới
Ký hiệu Địa điểm Loại hình sử dụng đất Tầng đất (cm) Dung trọng (g/cm3)
Cát Limon Sét
0 - 20 0,85 20,11 22,68 57,21
ĐN01 Đắk Glong Rừng tự nhiên
20 - 50 0,92 19,02 22,49 58,49
0 - 20 0,89 16,49 29,60 53,91
ĐN02 Đắk Song Rừng trồng thông 3 lá (trên 10 năm) 20 - 50 0,97 15,87 27,36 56,77
0 - 20 1,05 21,04 22,15 56,81
ĐN03 Đắk Mil Vườn cà phê (trên 20 tuổi) 20 - 50 1,07 20,89 21,56 57,55
0 - 20 1,02 20,45 24,41 55,17
ĐN04 Gia Nghĩa Vườn hồ tiêu (trên 7 tuổi) 20 - 50 1,08 18,86 22,69 58,45
0 - 20 1,01 17,56 26,15 56,29
ĐN05 Đắk Wil Cây ngắn ngày
20 - 50 1,15 15,14 24,82 60,04
0 - 20 0,96 19,13 25,00 55,88
Giá trị trung bình
20 - 50 1,04 17,96 23,78 58,26
Hình 1. Biến động dung trọng ở tầng 0 - 20cm
dưới các loại hình sử dụng đất
Hình 2. Biến động dung trọng ở tầng 20 - 50cm
dưới các loại hình sử dụng đất
3.2. Tính chất hóa học của đất đỏ dưới các loại
hình sử dụng đất tỉnh Đắk Nông
- Độ chua đất: giá trị pHKCl chỉ thị cho độ chua
trao đổi của môi trường đất. Kết quả phân tích cho
thấy, độ chua trao đổi của đất đỏ tỉnh Đắk Nông
dao động 4,86 - 5,39 và đều nằm trong khoảng giá
trị quy định chất lượng đất đỏ của Việt Nam của
TCVN 7377:2004. So sánh với thang phân cấp độ
chua của S.N. Tartrinov (thông qua giá trị pHKCl),
đất đỏ khu vực nghiên cứu có phản ứng chua vừa
đến chua và cao hơn giới hạn giá trị độ chua (pHKCl
= 4,5) báo động dấu hiệu thoái hóa về hóa học của
đất đỏ basalt làm mất sức sản xuất [6].
Xét theo chiều sâu phẫu diện, giá trị pHKCl có
xu hướng tăng dần từ tầng trên xuống tầng dưới;
giá trị pH của đất rừng tự nhiên tăng không đáng
kể; ở đất trồng cà phê tăng 5,15 - 5,29; đất rừng
trồng thông 5,19 - 5,46 và đối với đất trồng cây
ngắn ngày tăng 5,12 - 5,30. Như vậy, chứng tỏ các
kim loại kiềm và kiềm thổ đã bị rửa trôi từ tầng
mặt và tích lũy ở các tầng dưới, làm cho độ chua
của tầng mặt giảm đáng kể so với tầng dưới. Quá
trình rửa trôi các kim loại kiềm và kiềm thổ xảy ra
yếu ở đất rừng tự nhiên, tương đối mạnh ở đất
trồng thông và đất trồng điều, trung bình đối với
đất trồng cà phê và đất trồng màu.
- Hàm lượng hữu cơ (OC): kết quả phân tích
cho thấy, hàm lượng chất hữu cơ tầng mặt của đất
rừng tự nhiên cao (OC = 5,47%) và được xếp vào
loại đất giàu hữu cơ; ở các loại hình sử dụng đất
khác dao động 1,94 - 3,95% và được xếp loại trung
bình đến khá giàu (theo Tiêu chuẩn Việt Nam
414
TCVN 7376:2004 quy định chất lượng đất - giá trị
chỉ thị về hàm lượng các bon hữu cơ tổng số trong
đất đỏ Việt Nam). Theo chiều sâu phẫu diện từ trên
xuống, hàm lượng OC suy giảm rất nhanh ở tất cả
các loại hình sử dụng đất, đặc biệt là ở đất rừng tự
nhiên giảm từ 5,45% xuống đến 2,81% (giảm
48,6%); ở đất rừng trồng thông giảm từ 2,45 xuống
1,69% (giảm 31,0%); ở đất trồng hồ tiêu giảm từ
2,54% xuống 1,78% (giảm 29,5%); ở đất trồng cà
phê giảm từ 3,95% xuống 2,82% (giảm 28,6%) và
ở đất trồng cây ngắn ngày giảm từ 1,94% xuống
1,50% (giảm 22,7%).
Mức độ suy giảm hàm lượng OC theo chiều sâu
phẫu diện từ trên xuống của đất rừng (rừng tự
nhiên và trồng thông) lớn hơn so với đất sản xuất
nông nghiệp (trồng cây ngắn ngày và trồng cây dài
ngày). Điều này có thể giải thích là do tầng mặt của
đất rừng đã nhận được lượng lớn vật liệu rơi rụng
từ cây rừng (cành, lá, thân). Đối với các loại hình
đất sản xuất nông nghiệp, mức suy giảm hàm
lượng hữu cơ trong phẫu diện không lớn là do
lượng vật liệu hữu cơ rơi rụng không nhiều. Như
vậy, nếu không có các biện pháp bảo vệ, phục hồi
và bổ sung lượng hữu cơ vào đất sản xuất nông
nghiệp thì nguy cơ đất đỏ ở Đắk Nông bị bạc màu
dẫn đến mất khả năng canh tác là điều không thể
tranh khỏi.
- Hàm lượng nitơ tổng số (NTS): kết quả nghiên
cứu cho thấy, hàm lượng NTS trong đất đỏ ở Đắk
Nông giảm dần theo chiều sâu phẫu diện. Giá trị
NTS ở tầng mặt dưới các loại hình sử dụng đất dao
động 0,12 - 0,19% (trung bình đạt 0,152%); ở tầng
dưới dao động 0,07 - 0,11% (trung bình đạt
0,094%). Như vậy, hàm lượng nitơ tổng số của
nhóm đất đỏ tỉnh Đắk Nông ở mức trung bình đến
giàu và nằm trong giới hạn giá trị trung bình quy
định tại TCVN 7373:2004 đối với nhóm đất đỏ của
Việt Nam (hình 3).
Hàm lượng NTS của đất rừng tự nhiên giảm từ
0,19% ở tầng mặt xuống 0,11% ở tầng dưới (giảm
42,1%); đất trồng thông giảm từ 0,14% xuống
0,09% (giảm 35,7%); đất trồng cà phê giảm từ
0,16% xuống 0,10% (giảm 37,5%); đất trồng cây
ngắn ngày giảm từ 0,14% xuống 0,08% (giảm
42,9%). Hàm lượng NTS ở tầng mặt của đất trồng
cây hàng năm và đất trồng thông thấp hơn so với
đất rừng tự nhiên, đất trồng cà phê và đất trồng hồ
tiêu. Như vậy, lượng phân đạm sử dụng bón bổ
sung trong canh tác cây hàng năm ở đây là rất thấp
so với canh tác cây công nghiệp dài ngày (cà phê,
hồ tiêu).
Hình 3. Biến động hàm lượng tổng số tầng 0 - 20cm
dưới các loại hình sử dụng đất
- Hàm lượng phospho tổng số (P2O5TS): theo
kết quả công bố năm 1996 của tác giả Trần Khải và
Nguyễn Tử Siêm, đất nâu đỏ phát triển trên đá
basalt ở Đắk Nông có hàm lượng P2O5TS khá cao,
dao động trong khoảng 0,2 - 0,3% [4]. Kết quả
phân tích ở bảng 2 cho thấy, hàm lượng P2O5TS của
đất đỏ dưới các loại hình sử dụng đất khác nhau
tỉnh Đắk Nông ở mức khá và giảm dần theo chiều
sâu phẫu diện. Giá trị P2O5TS của tầng đất mặt dao
động 0,184 - 0,251% (trung bình đạt 0,21%); tầng
dưới dao động 0,171 - 0,217% (trung bình đạt
0,19%). Như vậy, hàm lượng P2O5TS trung bình của
đất đỏ basalt ở Đắk Nông thấp hơn TCVN:2004
quy định chất lượng đất - giá trị chỉ thị hàm lượng
P2O5TS trong đất đỏ Việt Nam (P2O5TS = 0,30%)
(hình 3).
Tuy nhiên trong thực tế, hàm lượng P2O5TS
không có ý nghĩa đối với độ phì nhiêu thực tế của
đất và hầu hết chúng ở dạng khó tiêu đối với cây
trồng, P2O5TS chỉ phản ánh tiềm năng về lân trong
đất. Do đó, trong quá trình khai thác, sử dụng cần
áp dụng các biện pháp canh tác hợp lý để khai thác
được tiềm năng này.
- Hàm lượng kali tổng số (K2OTS): Hàm lượng
K2OTS của đất đỏ dưới các loại hình sử dụng đất
khác nhau khu vực nghiên cứu ở mức nghèo, thấp
hơn giá trị giới hạn của TCVN 7375:2004 quy định
về chất lượng đất - giá trị chỉ thị về K2OTS trong
nhóm đất đỏ của Việt Nam (hình 3). Giá trị K2OTS
trong tầng đất mặt dao động 0,07 - 0,13%; tầng
dưới dao động 0,04 - 0,10%. Hàm lượng K2OTS
415
giữa các loại hình sử dụng đất không có sự chênh
lệch lớn. Đất đỏ phát triển trên sản phẩm phong
hóa đá basalt chủ yếu là khoáng kaolinit nên khả
năng hấp thụ kali kém so với các loại khoáng sét
(dao động trong khoảng 0,2 - 0,7%; Goocbunov,
1963). Điều này giải thích tại sao tỷ lệ sét trong đất
đỏ basalt nghiên cứu cao nhưng hàm lượng K2OTS
lại ở mức nghèo.
Bảng 2. Kết quả phân tích một số tính chất hóa học cơ bản của đất trên các loại hình sử dụng khác nhau
Thành phần tổng số (%) Thành phần dễ tiêu (mg/100g đất) Ca
2+ Mg2+ CEC Ký
hiệu
Tầng đất
(cm) pHKCl OC (%)
NTS P2O5TS K2OTS P2O5DT K2ODT me/100g đất
0 - 20 4,97 5,47 0,19 0,251 0,13 9,43 18,44 0,28 0,21 20,18
ĐN01
20 - 50 5,01 2,81 0,11 0,217 0,10 7,82 14,42 0,25 0,18 22,18
0 - 20 5,39 2,45 0,14 0,184 0,07 5,54 8,25 0,23 0,10 11,10
ĐN02
20 - 50 5,46 1,69 0,09 0,175 0,05 4,37 5,03 0,18 0,13 12,31
0 - 20 5,15 3,95 0,16 0,218 0,09 8,31 16,50 0,22 0,15 14,18
ĐN03
20 - 50 5,29 2,82 0,10 0,197 0,08 5,89 5,89 0,19 0,14 18,72
0 - 20 4,86 2,54 0,15 0,201 0,07 5,62 9,46 0,22 0,17 11,25
ĐN04
20 - 50 5,02 1,78 0,10 0,190 0,06 4,41 5,57 0,14 0,12 13,09
0 - 20 5,12 1,94 0,12 0,206 0,07 6,16 10,88 0,35 0,21 12,54
ĐN05
20 - 50 5,30 1,50 0,07 0,171 0,04 5,48 6,22 0,21 0,09 14,01
0 - 20 5,10 3,27 0,152 0,210 0,09 7,01 12,71 0,26 0,17 13,85
Trung bình
20 - 50 5,22 2,12 0,094 0,190 0,07 5,59 7,43 0,19 0,13 16,06
- Hàm lượng phospho dễ tiêu (P2O5DT): Kết quả
phân tích ở bảng 2 cho thấy, mặc dù đất đỏ ở Đắk
Nông có hàm lượng P2O5TS giàu nhưng hàm lượng
P2O5DT ở mức trung bình (4,41 - 9,43mg/100g đất).
Đất rừng tự nhiên có hàm lượng P2O5DT cao nhất
(7,82 - 9,43mg/100g đất); tiếp đến là ở đất trồng cà
phê (5,89 - 8,31mg/100g đất); thấp nhất là đất rừng
trồng thông và đất trồng hồ tiêu (4,37 - 5,62
mg/100g đất) (hình 4). Kết quả nghiên cứu này cho
thấy, đối với đất trồng cà phê có suất đầu tư lớn,
lượng phân bón nhiều và hợp lý thì lượng P2O5TD
cao; đối với những đất trồng cây hàng năm có suất
đầu tư thấp thì hàm lượng P2O5DT thấp. Ngoài ra,
hàm lượng P2O5DT trong đất trồng cà phê và đất
rừng tự nhiên cao còn do hàm lượng OC trong các
loại hình sử dụng đất này cao đã hạn chế đáng kể
quá trình cố định lân. Kết quả nghiên cứu này cũng
phù hợp với các nghiên cứu trước đây khi cho rằng
lượng phản hấp thụ tương quan thuận với P2O5DT,
chất hữu cơ và tỷ lệ SiO2/R2O3 [3].
- Hàm lượng kali dễ tiêu (K2ODT): hàm lượng
K2ODT của các loại hình canh tác khác nhau dao
động 5,03 - 18,44mg/100g đất và cũng có xu
hướng giảm dần theo chiều sâu phẫu diện và ở mức
nghèo đến trung bình. Đất rừng tự nhiên có hàm
lượng K2ODT lớn hơn nhiều so với các loại hình sử
dụng đất khác; giá trị thấp nhất ghi nhận ở đất rừng
trồng thông (5,23 - 8,25mg/100g đất), tiếp đến là ở
đất trồng hồ tiêu (5,57 - 9,46mg/100g đất). Như
vậy, hàm lượng K2ODT của đất đỏ khu vực nghiên
cứu dưới các loại hình sử dụng đất có sự biến động
lớn, phụ thuộc vào chế độ bón phân và lượng chất
hữu cơ bổ sung vào đất.
Hình 4. Biến động hàm lượng dễ tiêu tầng 0 - 20cm
dưới các loại hình sử dụng đất
- Dung tích hấp thụ cation (CEC): dung tích hấp
thụ là tổng lượng cation có khả năng trao đổi hay
còn gọi là khả năng trao đổi cation (Cation
Exchange Capacity - CEC). Giá trị của CEC là một
chỉ tiêu quan trọng của đất chỉ thị cho khả năng
chứa và điều hòa dinh dưỡng có liên quan đến chế
độ bón phân hợp lý hay không. Kết quả nghiên cứu
cho thấy, đất đỏ dưới rừng tự nhiên có dung tích
hấp thụ ở mức khá (20,18 - 22,27me/100g đất); đất
dưới các loại hình sử dụng khác ở mức trung bình
(đất trồng cà phê: 14,18 - 18,72me/100g đất; đất
trồng hồ tiêu và đất rừng trồng thông: 11,10 -
13,09me/100g đất). Như vậy, có thể khẳng định,
416
đất đỏ basalt ở Đắk Nông sau khi đưa vào canh tác
nông nghiệp đã làm suy giảm đáng kể dung tích
hấp thụ so với ban đầu (đất rừng tự nhiên).
- Calci và magie trao đổi (Ca2+ và Mg2+): nhìn
chung, đất đỏ basalt dưới tán rừng tự nhiên có hàm
lượng Ca2+ trao đổi dao động trong khoảng 0,25 -
0,28me/100g đất trong toàn phẫu diện và đạt mức
khá; ở các loại hình sử dụng đất khác có
hàm lượng Ca2+ dao động trong khoảng 0,17 -
0,23me/100g đất và đạt mức trung bình đến khá.
Hàm lượng Mg2+ trao đổi của đất đỏ basalt dưới
các loại hình sử dụng đất khác nhau đều thấp hơn
hàm lượng Ca2+. Khi so sánh lượng Ca2+ và Mg2+ ở
các loại hình sử dụng đất khác nhau thấy rõ, đất đỏ
trồng cà phê có hàm lượng Ca2+ và Mg2+ trao đổi
lớn hơn đất rừng trồng thông, trồng hồ tiêu và đất
trồng cây ngắn ngày; đất rừng trồng thông và trồng
hồ tiêu có hàm lượng Ca2+ và Mg2+ trao đổi là thấp
nhất (Ca2+ đạt 0,14 - 0,23me/100g đất; Mg2+ đạt từ
0,10 - 0,17 me/100g đất).
4. Kết luận
Độ phì tự nhiên của đất đỏ basalt ở Đắk Nông
qua thời gian dài canh tác nông nghiệp đã biến
động lớn giữa các loại hình sử dụng và bị suy giảm
mạnh so với đất đỏ basalt dưới rừng tự nhiên. Giá
trị dung trọng của đất canh tác nông nghiệp lớn
hơn nhiều so với đất dưới tán rừng tự nhiên và
rừng thông do đất bị nén chặt trong quá trình canh
tác, điều này cho thấy rõ, đất đỏ basalt dưới tán
rừng tự nhiên và rừng trồng tơi xốp hơn đất canh
tác nông nghiệp. Giá trị dung trọng ở tầng mặt (0 -
20cm) lớn nhất ở đất đỏ basalt trồng cà phê, tiếp
đến là đất trồng hồ tiêu và đất trồng cây ngắn ngày.
Quá trình rửa trôi theo phẫu diện đất các cation
kiềm, kiềm thổ và tích lũy sét ở các tầng dưới của
đất đỏ basalt diễn ra tương đối mạnh đã làm cho
môi trường đất tầng mặt có phản ứng chua. Cùng
với đó là quá trình tích tụ các secquioxit (R2O3) và
hình thành kết von (laterit) đặc trưng trên bề mặt
cao nguyên tuổi Pliocen - Pleistocen sớm (N2 -
Q11) ở Đắk Nông.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng cung cấp cho
cây trồng của đất đỏ basalt ở Đắk Nông đã bị suy
giảm mạnh theo chiều sâu phẫu diện. So với đất đỏ
basalt dưới tán rừng tự nhiên, hàm lượng chất hữu
cơ tầng mặt (0 - 20cm) ở đất trồng cây ngắn ngày
giảm 64,5%; đất trồng thông giảm 55,2%; đất trồng
hồ tiêu giảm 53,6%; đất trồng cà phê giảm 27,8%.
Hàm lượng chất hữu cơ, thành phần tổng số (N, P,
K) và dễ tiêu (P, K) trong đất nghiên cứu có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, phụ thuộc vào chế độ
canh tác và khối lượng vật liệu hữu cơ rơi rụng,
lượng phân bón sử dụng trong canh tác. Hàm
lượng các chất tổng số và dễ tiêu có sự suy giảm
không đáng kể so với đất rừng do thường xuyên
được bổ sung lượng đáng kể phân bón.
Trong các loại hình sử dụng đất nghiên cứu, đất
đỏ basalt trồng cà phê có mức độ suy giảm tính
chất lý - hóa học đất thấp nhất so với đất trồng
thông, hồ tiêu và đất trồng cây ngắn ngày. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, hàm lượng chất hữu cơ của
đất có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cung cấp
chất dinh dưỡng cho cây trồng, lượng thành phần
dễ tiêu và điều kiện hấp thụ trao đổi chất của cây
trồng. Vì vậy, trong quá trình canh tác đất đỏ basalt
ở Đắk Nông cần chú ý bón phân một cách cân đối,
hướng tới sử dụng các loại phân hữu cơ, phân vi
sinh để duy trì và tăng độ phì tự nhiên của đất.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Đỗ Ánh, 2003: Độ phì nhiêu của đất và
dinh dưỡng cây trồng. Nhà xuất bản Nông nghiệp,
Hà Nội. 88 tr.
[2] Lưu Thế Anh, 2012: Nghiên cứu xây dựng
bản đồ thoái hóa đất tỉnh Đắk Lắk và Đắk Nông
phục vụ sử dụng bền vững tài nguyên đất. Luận án
Tiến sỹ Địa lý, Hà Nội.
[3] Hoàng Văn Huây, 1995: Hấp thụ, phản hấp
thụ và cố định anion phosphat trong đất vùng nhiệt
đới ẩm. Tạp chí Khoa học Đất, số 4/1995, Hà Nội.
[4] Trần Khải, Nguyễn Tử Siêm, 1996: Những
đặc điểm đất Việt Nam trong mối quan hệ với phân
bón. Hội thảo Quốc gia Chiến lược phân bón. Liên
hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội.
[5] Lê Văn Khoa, Nguyễn Xuân Cự, Lê Đức,
Trần Khắc Hiệp, Trần Cẩm Cân, 2000: Đất và môi
trường đất. Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội. 196 tr.
[6] Nguyễn Đình Kỳ, Lưu Thế Anh, 2006: Thực
trạng thoái hóa đất basalt Tây Nguyên và các giải
pháp sử dụng hợp lý bảo vệ tài nguyên - môi
trường đất. Tuyển tập các công trình nghiên cứu,
Hội nghị khoa học Địa lý toàn quốc lần thứ II,
tr.468 - 482.
[7] Nguyễn Văn Toàn, 2005: Giải pháp tổng
thể sử dụng hợp lý và bảo vệ đất basalt Tây
417
Nguyên. Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội. 316tr.
[8] Nguyễn Vy, 2003: Độ phì nhiêu thực tế.
Nhà xuất bản Nghệ An, Tp. Vinh. 146tr.
[9] Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk
Nông, 2011: Kết quả kiểm kê đất đai tỉnh Đắk
Nông năm 2010.
SUMMARY
Study on the changes in physical and chemical properties of red basalt soils
under different utilization types of Daknong province
Rational use of soil resources is one of measures for agricultural sustainable development. In recent years, the
unplanned and unreasonable development of long-term industrial trees and annual crops has lead to red basalt soil
fertility decline and physical and chemical deterioration in Daknong province. The research results shown that the
nutrient content of red basalt soil under different land utilization types has been declined sharply. The decline level of
organic matter content of topsoil (0 - 20cm) in annual crop land is 64.5%, pine plantation land is 55.2%, pepper
cultivation land is 53.6% and coffee cultivation land is 27.8% in comparison with natural forest land. Value of cation
exchange capacity (CEC), the concentration of total substances and easily digestible nutrients under land utilization
types have also significantly reduced as compared to natural forest land.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4127_14635_1_pb_4354_2107856.pdf