Đánh giá bồi lắng lòng hồ từ các số liệu đo sâu,
phân tích hạt nhân, phân tích địa chất kết hợp với
hệ thông tin địa lý là cách tiếp cận tương đối toàn
diện, có hiệu quả và tiết kiệm được chi phí. Đối với
hồ Trị An, kết quả đánh giá cho thấy:
- Trong vòng 23 năm qua từ 1987 đến 2010 hồ
Trị An bị bồi lắng trung bình dày khoảng 12cm,
cực đại đạt tới 132cm. Bồi tụ xảy ra mạnh ở nửa
phía thượng lưu đặc biệt là ở khu vực gần nơi các
sông Đồng Nai và La Ngà đổ vào hồ.
- Trong vòng 10 năm tới (2020) bề dày bồi
tích trung bình ở hồ Trị An là 17cm và cực đại là
189 cm. Phần diện tích bồi tụ mạnh trên 75cm chỉ
chiếm 3% diện tích hồ.
- Trong vòng 50 năm tới (2060) bề dày bồi
tích trung bình ở hồ Trị An là 38cm và cực đại đạt
417cm. Phần diện tích hồ có chiều dày bồi lắng
trên 150cm chỉ chiếm 3% diện tích và chỉ có 1%
diện tích có chiều dày bồi lắng trên 200cm.
- Quá trình bồi lắng đã dẫn tới giảm dung tích
hồ chứa (cả dung tích chết lẫn dung tích hữu ích)
làm ảnh hưởng tới việc khai thác vận hành hồ. Tuy
nhiên, ảnh hưởng này là không đáng kể vì dung
tích hữu hiệu tính đến năm các năm 2020 và 2060
còn tương ứng 98,8% và 97,0% so với dung tích
ban đầu.
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 559 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bồi lắng lòng hồ Trị An bằng phương pháp phân tích hạt nhân, địa chất kết hợp với hệ thông tin địa lý (gis), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51
36(1), 51-60 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2014
NGHIÊN CỨU BỒI LẮNG LÒNG HỒ TRỊ AN
BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH HẠT NHÂN,
ĐỊA CHẤT KẾT HỢP VỚI HỆ THÔNG TIN ĐỊA LÝ (GIS)
MAI THÀNH TÂN, ĐINH VĂN THUẬN, VŨ VĂN HÀ, NGUYỄN TRỌNG TẤN,
LÊ ĐỨC LƯƠNG, TRỊNH THỊ THANH HÀ, NGUYỄN VĂN TẠO, NGUYỄN CÔNG QUÂN
Email: maithanh_tan@yahoo.com
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 5 - 4 - 2013
1. Mở đầu
Hồ thủy điện Trị An được xây dựng trên sông
Đồng Nai và đưa vào hoạt động từ năm 1987. Đây
là hồ chứa điều tiết hằng năm với mục đích để phát
điện và có các thông số thiết kế như sau:
Mực nước dâng bình thường: 62m
Mực nước gia cường: 63,9m
Mực nước chết: 50m
Diện tích mặt hồ ứng với mực nước dâng bình
thường: 323,4km2
Diện tích mặt hồ ứng với mực nước chết:
63km2
Dung tích toàn bộ: 2,765km3
Dung tích chết: 0,218km3
Ở Việt Nam, trong những năm trước đây, việc
nghiên cứu bồi lắng lòng hồ bằng phương pháp
đồng vị môi trường, đồng vị 210Pb đã được tiến
hành và áp dụng cho một số hồ chứa [2-7]. Trong
đó, việc đánh giá bồi lắng lòng hồ Trị An đã được
tiến hành từ năm 1994 dựa trên các số liệu quan
trắc lượng bùn cát lơ lửng vào hồ và đo mức độ bồi
của nền đáy tại các mặt cắt đặc trưng bằng siêu âm.
Các kết quả đánh giá này còn nhiều hạn chế do số
liệu quan trắc không được liên tục, lượng bùn cát
di đáy không được đo mà chỉ ước lượng. Bồi lắng
lòng hồ Trị An tiếp tục được nghiên cứu vào năm
2003 bằng kỹ thuật hạt nhân 210Pb [1] và năm 2004
bằng mô hình chuyển tải phù sa lơ lửng và dòng
bùn cát đáy [8]. Như vậy, từ năm 2004 đến nay, đã
có nhiều thay đổi, cần phải có những đánh giá mới
để kiểm chứng các nghiên cứu trước và dự báo bồi
lắng với các điều kiện mới. Đánh giá bồi lắng bằng
kỹ thuật hạt nhân là phương pháp hiện đại, tuy
nhiên để đánh giá chính xác theo diện cần phải lấy
mẫu với số lượng tương đối nhiều mà chi phí phân
tích tương đối tốn kém. Hơn nữa, đánh giá theo
phương pháp này có thể có những sai lầm nếu như
không có kết hợp tham khảo tài liệu địa chất. Đánh
giá bằng mô hình chuyển tải phù sa lơ lửng và
dòng bùn cát đáy có thuận lợi là dễ dàng xây dựng
được các kịch bản dự báo, song phương pháp này
đòi hỏi phải có chuỗi số liệu quan trắc liên tục
trong thời gian dài. Trên thực tế nghiên cứu trước
đây bằng mô hình này mới chỉ dựa trên số liệu thủy
văn và bùn cát vào tháng 7 và tháng 9 năm 1995
nên các kết quả còn có hạn chế do số liệu còn rời
rạc và chưa đủ độ tin cậy. Trong bài báo này, bồi
lắng lòng hồ Trị An được đánh giá và dự báo dựa
trên các nghiên cứu tổng hợp phân tích địa chất, đo
sâu sonar, kỹ thuật hạt nhân phân tích tuổi Pb-Ra
và kết hợp với hệ thông tin địa lý GIS.
Các công việc chính thực hiện ở đây là: đo sâu
xây dựng địa hình đáy hồ; lấy mẫu đáy và phân
tích xác định chiều dày bồi tích lắng đọng; đánh
giá hiện trạng bồi lắng theo không gian; xác định
tốc độ lắng đọng; dự đoán biến đổi chiều dày lắng
đọng và địa hình trong 10 năm và 50 năm tới; và
đánh giá ảnh hưởng của bồi lắng lòng hồ tới hoạt
động của nhà máy thủy điện Trị An. Công tác đo
sâu và lấy mẫu được thực hiện vào tháng 10 năm
52
2010, do vậy đánh giá hiện trạng được hiểu là cho
năm 2010 và đánh giá cho 10 năm và 50 năm tới
được hiểu là đánh giá dự báo cho các năm tương
ứng 2020 và 2060.
2. Các phương pháp sử dụng
2.1. Đo địa hình đáy hồ
Phần dưới mực nước tại thời điểm khảo sát
được thực hiện bằng 2 thiết bị Sonar quét sườn
HDS5 của hãng Lowrance. Thiết bị này có 2 băng
tần số 200 kHz và 50 kHz cho phép đo sâu tương
ứng tới 200m và 1.500m. Ngoài đo sâu, máy còn
được trang bị định bị vệ tinh (GPS) nên có thể xác
định được vị trí tọa độ và độ sâu của các điểm trên
hồ. Sơ đồ khảo sát địa hình đáy hồ được thể hiện
tại hình 1.
Do thời gian khảo sát vào mùa khô, mực nước
hồ xuống thấp chỉ còn ở cao trình trên dưới 54m
trong khi cao trình thiết kế cho mực nước dâng
bình thường là 62m, nên phần lòng hồ bị cạn được
xác định độ cao bằng thiết bị GPS Etrex Garmin
(Đài Loan).
Các giá trị đo sâu dưới nước bằng sonar được
hiệu chỉnh có tính đến độ sâu vị trí đặt thiết bị đo so
với mặt nước và dao động của mực nước hồ ghi
được tại trạm thủy văn trên hồ Trị An và các giá trị
đo cao trên cạn bằng GPS được đưa về độ sâu so với
mực nước dâng bình thường theo thiết kế (62m).
Cuối cùng, các giá trị đo được dưới dạng dữ liệu có
các giá trị: kinh độ, vỹ độ và độ sâu. Đây là cơ sở để
xây dựng mô hình đáy hồ thủy điện Trị An.
Hình 1. Sơ đồ khảo sát đo địa hình đáy hồ bằng thiết bị Sonar quét sườn HDS5
2.2. Phân tích địa chất
Các mẫu được lấy trong phạm vi vùng lòng hồ
bao gồm cả trên cạn và dưới nước được mô tả sơ
bộ ngoài thực địa (đối với mẫu trên cạn) và đem về
phòng thí nghiệm để mô tả lại, phân tích thành
phần độ hạt, phân tích thành phần khoáng vật, xây
dựng các thiết đồ ống phóng, các mặt cắt,... Đây là
cơ sở quan trọng để phân ra các thể trầm tích có
điều kiện lắng đọng khác nhau và xác định quan hệ
không gian, trình tự lắng đọng của chúng. Kết quả
phân tích địa chất kết hợp với phân tích 210Pb và
226Ra cho phép xác định được lớp trầm tích mới
được lắng đọng sau khi hình thành hồ thủy điện
53
trong các mẫu ống phóng. Đây là cơ sở quan trọng
để xây dựng bản đồ đánh giá hiện trạng bồi lắng
trong hồ. Sơ đồ các điểm và các tuyến đo lấy mẫu
ống phóng địa chất được thể hiện tại hình 2.
Hình 2. Sơ đồ các điểm và các tuyến đo lấy mẫu ống phóng địa chất (các điểm lấy mẫu này đều được định vị bằng GPS
và đo sâu bằng thiết bị Sonar quét sườn HDS5)
2.3. Phân tích 210Pb và 226Ra
Do đòi hỏi của tiêu chuẩn lấy mẫu và kinh phí
thực hiện nên chỉ có một số mẫu được lấy phân
tích 210Pb và 226Ra. Tại mỗi vị trí lấy mẫu, đối với
phân tích 210Pb và 226Ra cần phải lấy đồng thời mẫu
dưới sâu và mẫu bề mặt để so sánh khoảng cách
thời gian hình thành của trầm tích dưới sâu so với
bề mặt. Nếu coi trầm tích bề mặt là mới hình thành
thì khoảng cách thời gian này chính là tuổi của
mẫu trầm tích lấy dưới sâu. Cách suy luận này có
thể không đúng trong một số trường hợp mẫu trầm
tích bề mặt không phải mới hình thành mà cổ hơn
do lấy mẫu ở một số vị trí như gò nổi ngầm, vách
sông suối cũ trước khi có hồ, những nơi không
thuận lợi cho lắng đọng trầm tích hoặc những nơi
bị dòng ngầm làm xói mòn lộ trầm tích cổ hơn.
Hơn nữa, tuổi theo phân tích 210Pb và 226Ra chỉ xác
định cho từng mẫu lấy ở độ sâu cụ thể, nó không
đại diện cho toàn bộ thực thể địa chất đồng nhất
trong các ống mẫu. Chính vì vậy các kết quả phân
tích này cần được kết hợp với số liệu phân tích địa
54
chất mới có được các số liệu đáng tin cậy về độ
dày lớp bồi lắng trong hồ.
2.4. Công cụ GIS
Phần mềm hệ thông tin địa lý ArcGIS được sử
dụng để thành lập mô hình độ sâu lòng hồ, phân bố
độ dày lớp bồi tích lắng đọng cho hiện tại, 10 năm
và 50 năm khu vực lòng hồ từ các kết quả đo đạc
độ sâu và số liệu về bề dày bồi tích có được bằng
phân tích địa chất và phân tích 210Pb và 226Ra. Các
mô hình nêu trên được thể hiện dưới dạng raster có
kích thước ô lưới thống nhất là 30m × 30m =
900m2 để phục vụ các tính toán theo không gian
trên bản đồ và chiết xuất các thông tin đánh giá bồi
lắng lòng hồ.
3. Kết quả
Các số liệu đo sâu và GPS sau khi đã hiệu
chỉnh và loại bỏ các dữ liệu lỗi được sử dụng để
thành lập bản đồ độ sâu lòng hồ. Trước khi tiến
hành thành lập bản đồ độ sâu cần phải giới hạn
lòng hồ, tức đường mực độ sâu 0m. Giới hạn của
lòng hồ Trị An được xác định theo bản đồ địa hình
1:50.000 đã được công bố, đường bờ giới hạn này
được coi là đường mực nước thiết kế (62m) và
cũng là đường đẳng sâu 0m của hồ. Từ đường độ
sâu 0m có thể chuyển thành các điểm có giá trị độ
sâu là 0. Các điểm này không bao gồm các điểm tại
vị trí các đập vì những chỗ này thể hiện vách dốc
đứng và độ sâu của hồ là lớn.
Bản đồ phân bố độ sâu (hình 3) được thành lập
từ 207.107 điểm số liệu bao gồm các kết quả đo
sâu (186.155 điểm) và giá trị tại đường bờ có độ
sâu 0m (20.952 điểm) theo phương pháp nội suy
lấy trọng số tỷ lệ nghịch với khoảng cách (IDW).
Bản đồ này được thể hiện dưới dạng raster với kích
thước ô lưới là 30m× 30m. Kết quả cho thấy độ sâu
lòng hồ hiện tại dao động trong khoảng 0m đến
37m so với mực nước dâng bình thường theo thiết
kế. Hồ có độ sâu trung bình 7m, trong đó có 34%
diện tích đáy có độ sâu dưới mực nước chết và
66% diện tích đáy có độ sâu trên mực nước chết.
Các kết quả đo vẽ đã thể hiện được những đường
nét hình thái địa hình chính trước khi có đập như
các dạng nổi cao gò đồi, các trũng, các dòng chảy,
đặc biệt là lòng sông Đồng Nai trước khi đắp đập
với đường trục sâu nhất. Sông Đồng Nai được tái
dựng bằng đo vẽ theo sonar rất phù hợp với tài liệu
đã có trước khi có đập Trị An như bản đồ địa hình
năm 1965 và ảnh vệ tinh Landsat 1973. Điều này
cho thấy là kết quả đo vẽ là tương đối chính xác,
đồng thời cũng thấy rằng quá trình bồi xói trong
lòng hồ về cơ bản chưa làm thay đổi hình thái địa
hình nguyên thủy ban đầu.
Hình 3. So sánh kết quả đo sâu năm 2010 với ảnh
Landsat năm 1973 và lòng sông năm 1965
(Trên: Bản đồ phân bố độ sâu lòng hồ Trị An năm 2010;
giữa: Ảnh Landsat thể hiện sự trùng khớp của lòng sông năm
1973 với lòng sông năm 1965; dưới: Bản đồ chập kết quả đo sâu
năm 2010 với lòng sâu năm 1973 và 1965)
Các kết quả phân tích địa chất, phân tích 210Pb
và 226Ra cho phép xác định được chiều dày lớp bồi
tích được lắng đọng trong các mẫu ống phóng lấy
55
tại 42 vị trí trong hồ. Đây là cơ sở để nội suy xây
dựng bản đồ chiều dày trầm tích trong hồ tương tự
như cách làm đối với bản đồ phân bố độ sâu nêu
trên. Bản đồ hiện trạng phân bố chiều dày trầm tích
(hình 4) cho thấy nhìn chung chiều dày lớp trầm
tích lắng đọng có xu thế phù hợp với quy luật
chung là giảm dần từ thượng nguồn (phần đông
bắc) về hạ nguồn (phần tây nam), từ bờ hồ về trung
tâm. Hoạt động bồi lắng kể từ khi có đập thủy điện
Trị An xảy ra mạnh ở nửa phía thượng lưu đặc biệt
là ở khu vực gần nơi các sông Đồng Nai và La Ngà
đổ vào hồ trong khi ở phần phía hạ nguồn, nơi gần
các đập ngăn hoạt động này là không đáng kể. Như
vậy có thể thấy các sông Đồng Nai và La Ngà là
hai sông chính cung cấp vật liệu gây bồi lắng cho
hồ. Trong vòng 23 năm qua, từ 1987 đến 2010, hồ
Trị An bị bồi lắng trung bình dày khoảng 12cm,
cực đại đạt tới 132cm. Các mẫu phân tích có chiều
dày trên 100cm phần lớn tập trung ở phía đông hồ,
gần nơi sông Đồng Nai và La Ngà đổ vào. Các kết
quả nghiên cứu này về cơ bản phù hợp với các kết
quả tính toán theo mô hình chuyển tải phù sa lơ
lửng và dòng bùn cát đáy của Lương Văn
Thanh [8].
Hình 4. Bản đồ phân bố chiều dày trầm tích lắng đọng từ khi có đập đến năm 2010
Trên cơ sở các mô hình độ sâu năm 2010 (hình
3) và bản đồ phân bố chiều dày trầm tích giai đoạn
1987 - 2010 (hình 4), sử dụng các phép toán trong
phân tích không gian đối với các raster (các bản
đồ) cho phép thành lập được:
- Mô hình độ sâu nguyên thủy ở thời điểm
trước khi có đập vào năm 1987: là kết quả của hiệu
giữa mô hình độ sâu năm 2010 và bản đồ phân bố
chiều dày trầm tích giai đoạn 1987 - 2010.
- Bản đồ phân bố tốc độ bồi lắng lòng hồ: là
kết quả của bản đồ phân bố chiều dày trầm tích giai
đoạn 1987 - 2010 chia cho thời gian lắng đọng
23 năm.
Tương tự như vậy, các bản đồ chiều dày lắng
đọng trầm tích cho 10 năm tới (2020) và 50 năm
tới (2060) được xây dựng là kết quả thu được khi
thực hiện phép nhân bản đồ tốc độ bồi lắng với
thời gian tương ứng từ 1987 đến 2020 và từ 1987
56
đến 2060. Cách làm này đã coi tốc độ bồi lắng là
không đổi, không tính đến khả năng thay đổi tốc độ
bồi lắng do các yếu tố bên ngoài tác động như thay
đổi lớp phủ thực vật, khai thác tài nguyên, sử dụng
đất, xây dựng hệ thống đập thủy điện, trong
phạm vi lòng hồ. Chính vì vậy các bản đồ chiều
dày lắng đọng trầm tích cho năm 2020 (hình 5) và
năm 2060 (hình 6) có dạng tương tự như nhau chỉ
khác về giá trị. Các bản đồ đều phản ánh khu vực
được tích tụ mạnh chủ yếu vẫn là phần phía đông
bắc của hồ và có xu hướng giảm dần về tây nam
(phía đập) tương tự như kết quả từ mô hình chuyển
tải phù sa lơ lửng và dòng chảy bùn cát đáy của
Lương Văn Thanh [8].
Theo kết quả chiết xuất thông tin từ các bản đồ
này thì đến năm 2020 bề dày bồi tích trung bình ở
hồ Trị An là 17cm và cực đại là 189cm. Phần diện
tích bồi tụ mạnh dày trên 50cm chiếm 11% diện
tích hồ, dày trên 75cm chiếm 3% và dày trên
100cm chỉ có 1% diện tích hồ.
Đến năm 2060 bề dày bồi tích trung bình ở hồ
Trị An là 38 cm và cực đại đạt 417cm. Phần diện
tích hồ có chiều dày bồi lắng trên 100 cm chỉ
chiếm 14% diện tích hồ, bồi lắng trên 150 cm chỉ
chiếm 3% diện tích và chỉ có 1% diện tích có chiều
dày bồi lắng trên 200cm.
Các bản đồ địa hình đáy cho các năm 2020 và
2060 được thành lập trên cơ sở thực hiện phép
cộng mô hình độ sâu nguyên thủy (1987) với các
bản đồ chiều dày lắng đọng trầm tích tương ứng
năm 2020 (hình 5) và năm 2060 (hình 6). Các
thông tin chiết xuất từ bản đồ trên cho thấy độ sâu
của hồ Trị An vào những năm này dao động trong
khoảng 0 đến 37m, trung bình là 7m, không khác
gì nhiều so với hiện tại. Các địa hình trước khi bị
chìm ngập do có đập, lòng sông cũ vẫn còn được
thể hiện rõ nét trên địa hình. Năm 2020 có 31%
diện tích đáy hồ nằm dưới mực nước chết, trong
khi đó đến năm 2060 giá trị này chỉ còn 27%, thể
hiện xu thế bồi tụ lòng làm giảm phần diện tích đáy
hồ dưới mực nước chết.
Hình 5. Bản đồ phân bố chiều dày trầm tích lắng đọng từ khi có đập đến năm 2020
57
Hình 6. Bản đồ phân bố chiều dày trầm tích lắng đọng từ khi có đập đến năm 2060
Đánh giá ảnh hưởng của hoạt động bồi tụ đến
hoạt động vận hành hồ thủy điện được dựa trên cơ
sở các mô hình độ sâu cho các năm 1987, 2010,
2020 và 2060 đã thành lập. Từ các mô hình này, dữ
liệu độ sâu của từng ô lưới với kích cỡ 30m × 30m
= 900m2 được chiết xuất để đánh giá dung tích hồ.
Do theo thiết kế mực nước dâng bình thường là 62
m, mực nước chết là 50m, nên giá trị mực nước
chết trong các mô hình độ sâu được lấy là 62m -
50m = 12m. Như vậy, phần thể tích hồ từ độ sâu
12m trở lên là phần dung tích hữu ích và phần từ
12m trở xuống sẽ là phần dung tích chết. Các thông
số dung tích hồ năm 1987 có được từ mô hình độ
sâu có khác biệt so với các thông số theo thiết kế
(bảng 1). Điều này có thể là do hai cách tiếp cận
tính toán khác nhau, hơn nữa số liệu đo đạc, lấy
mẫu ngoài thực địa chưa đủ dày, ngoài ra còn có
các sai số trong quá trình phân tích xử lý mẫu, chia
kích cỡ ô lưới trên mô hình và trong các tính toán
phân tích không gian. Tuy nhiên, các số liệu lấy từ
mô hình độ sâu hồ các năm 1987, 2010, 2020 và
2060, do cùng sử dụng trên số liệu khảo sát và
phân tích đầu vào nên cùng một hệ thống sai số và
có thế so sánh được với nhau.
Bảng 1. Thống kê các thông số dung tích hồ
qua các năm
Thông số Thiết kế 1987 2010 2020 2060
Dung tích toàn bộ (km3) 2,765 2,251 2,232 2,202 2,144
Dung tích chết (km3) 0,218 0,283 0,272 0,257 0,234
Dung tích hữu ích (km3) 2,547 1,968 1,960 1,945 1,910
So sánh các thông số dung tích hồ Trị An các
năm 1987 - thời điểm vận hành hồ, 2010 - thời
điểm hiện tại khảo sát, 2020 - thời điểm sau 10
năm so với hiện tại và 2060 - thời điểm sau 50 năm
so với hiện tại, cho thấy có xu thế giảm rõ ràng về
cả dung tích toàn bộ, dung tích chết và dung tích
hữu ích (bảng 1). Như vậy ở đây có thể nói, quá
trình bồi lắng lòng hồ đã làm giảm dung tích hồ và
ảnh hưởng tới việc vận hành hồ. Tính theo tỷ lệ
phần trăm (hình 7), dung tích chết có mức độ giảm
nhiều nhất, tính đến thời điểm đo đạc 2010 dung
tích này giảm đi gần 4% và đến năm 2060 giảm đi
hơn 17% so với thời điểm ban đầu. Dung tích hữu
ích và dung tích toàn bộ giảm không đáng kể, tính
đến năm 2060 cũng mới chỉ giảm đi chưa tới 5%
58
so với ban đầu. Dung tích hữu hiệu tính đến năm
2010 còn 99,6%, đến các năm 2020 và 2060 còn
tương ứng 98,8% và 97,0% so với dung tích ban
đầu. Có thể nói quá trình bồi lắng lòng hồ không
ảnh hưởng đáng kể tới vận hành hồ thủy điện
Trị An.
Hình 7. Thay đổi dung tích hồ Trị An
4. Một số nhận xét
Việc đánh giá bồi lắng lòng hồ Trị An ở đây
được sử dụng từ các phương pháp đo sâu, đo cao,
phân tích hạt nhân, phân tích địa chất và hệ thông
tin địa lý. Kết quả đánh giá vẫn còn có một số hạn
chế do số liệu đầu vào, sai số trong tính toán xử lý
và chưa tính hết các điều kiện ảnh hưởng.
Số liệu đầu vào là số liệu đo sâu, đo cao, lấy
mẫu chưa nhiều và chưa đều. Ở phần hồ phụ dẫn
vào nhà máy thủy điện và vị trí xung quanh đập
trên dòng Đồng Nai công việc đo sâu không được
tiến hành vì nhiều lý do khách quan. Thêm vào đó,
sự phát triển dày đặc cây Mai Dương ở hồ Trị An
đặc biệt là ở phần phía bắc, không những gây khó
khăn cho việc đi lại, đo vẽ mà còn gây sai lạc thậm
chí là mất tín hiệu đo sâu. Tuy có những hạn chế
song mô hình độ sâu thành lập từ kết quả đo thực
địa đã phản ánh tương đối chính xác các địa hình
cổ, hệ thống sông suối trước khi có đập như các tài
liệu bản đồ địa hình năm 1965 và ảnh vệ tinh
Landsat 1973 nên có thể chấp nhận được.
Các số liệu về bề dày lớp trầm tích lắng đọng
còn ít, khu vực phần hồ phụ dẫn và nhà máy thủy
điện và vị trí xung quanh đập trên dòng Đồng Nai
không được lấy mẫu nên các bản đồ về chiều dày
trầm tích còn có những hạn chế. Đánh giá hiện
trạng phân bố chiều dày trầm tích dựa trên cơ sở
phân tích mẫu ống phóng là tương đối hợp lý, song
sử dụng nó để xác định tốc độ lắng đọng và coi tốc
độ lắng đọng là không đổi từ đó để đánh giá cho
các năm sau này 2020 và 2060 là chưa thực tế. Tốc
độ lắng đọng có thể thay đổi do điều kiện thủy lực,
biến động lớp phủ thực vật, khai thác tài nguyên,
59
sử dụng đất, xây dựng hệ thống đập thủy điện,...
Tuy nhiên, bản đồ về chiều dày trầm tích được
thành lập bằng phương pháp nêu trên có kết quả
tương tự như ở mô hình chuyển tải phù sa lơ lửng
và dòng chảy bùn cát đáy của nghiên cứu trước đây
[8] cho thấy các mô hình này có thể tin cậy được.
Sự khác biệt về thông số dung tích hồ lúc ban
đầu hình thành đập (1987) và theo thiết kế có thể là
do cách tiếp cận tính toán, số lượng, mật độ mẫu
đo, mẫu phân tích, và các sai số trong quá trình
phân tích xử lý mẫu, tính toán phân tích không
gian. Tuy nhiên các số liệu lấy từ mô hình độ sâu
hồ các năm 1987, 2010, 2020 và 2060, do cùng sử
dụng trên số liệu khảo sát và phân tích đầu vào nên
cùng một hệ thống sai số và có thế so sánh được
với nhau.
Mặc dù có những hạn chế, song các kết quả
đánh giá là chấp nhận được. Các kết quả chính xác
hơn sau này cần có số liệu đo và lấy mẫu trong hồ
đều hơn và dày hơn.
5. Kết luận
Đánh giá bồi lắng lòng hồ từ các số liệu đo sâu,
phân tích hạt nhân, phân tích địa chất kết hợp với
hệ thông tin địa lý là cách tiếp cận tương đối toàn
diện, có hiệu quả và tiết kiệm được chi phí. Đối với
hồ Trị An, kết quả đánh giá cho thấy:
- Trong vòng 23 năm qua từ 1987 đến 2010 hồ
Trị An bị bồi lắng trung bình dày khoảng 12cm,
cực đại đạt tới 132cm. Bồi tụ xảy ra mạnh ở nửa
phía thượng lưu đặc biệt là ở khu vực gần nơi các
sông Đồng Nai và La Ngà đổ vào hồ.
- Trong vòng 10 năm tới (2020) bề dày bồi
tích trung bình ở hồ Trị An là 17cm và cực đại là
189 cm. Phần diện tích bồi tụ mạnh trên 75cm chỉ
chiếm 3% diện tích hồ.
- Trong vòng 50 năm tới (2060) bề dày bồi
tích trung bình ở hồ Trị An là 38cm và cực đại đạt
417cm. Phần diện tích hồ có chiều dày bồi lắng
trên 150cm chỉ chiếm 3% diện tích và chỉ có 1%
diện tích có chiều dày bồi lắng trên 200cm.
- Quá trình bồi lắng đã dẫn tới giảm dung tích
hồ chứa (cả dung tích chết lẫn dung tích hữu ích)
làm ảnh hưởng tới việc khai thác vận hành hồ. Tuy
nhiên, ảnh hưởng này là không đáng kể vì dung
tích hữu hiệu tính đến năm các năm 2020 và 2060
còn tương ứng 98,8% và 97,0% so với dung tích
ban đầu.
- Kết quả đánh giá còn có những hạn chế do số
liệu đầu vào, sai số trong tính toán xử lý song các
kết quả đánh giá là chấp nhận được. Các kết quả
chính xác hơn sau này cần có số liệu đo và lấy mẫu
trong hồ đều hơn và dày hơn.
Bài báo này là kết quả của đề tài KHCN độc lập
cấp nhà nước ĐTĐL 2009T/04./.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Phan Sơn Hải, 2004: Khảo sát bồi lắng lòng
hồ thủy điện Trị An bằng kỹ thuật hạt nhân. Thông
tin KHCNHN số 2.
[2] Nguyễn Văn Phổ và Nguyễn Trung Minh,
1995: Một số kết quả tính toán tốc độ bồi lắng hồ
chứa Thác Bà bằng phương pháp đồng vị môi
trường. Viện Thông tin tư liệu địa chất “thông tin
khoa học kỹ thuật địa chất”. Tập IV, số 2-4, tr.46-
56. Hà Nội.
[3] Nguyễn Văn Phổ và Nguyễn Trung Minh,
1996: Một số kết quả tính toán tốc độ bồi lắng hồ
chứa Thác Bà bằng phương pháp đồng vị môi
trường. Thông tin Khoa học kỹ thuật địa chất,
số 2-4.
[4] Nguyễn Văn Phổ, Hoàng Thị Tuyết Nga,
Nguyễn Trung Minh, 1996: Ứng dụng phương
pháp đồng vị môi trường trong nghiên cứu bồi lắng
một số hồ chứa khu vực Điện Biên. Thông tin
Khoa học kỹ thuật địa chất, số 3-5.
[5] Nguyễn Văn Phổ, 1997: Phương pháp
nghiên cứu bồi lắng ven biển và hồ chứa bằng
đồng vị phóng xạ chì 210. Thông báo khoa học:
Các khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà
Nội), số 4, trang 72-78.
[6] Nguyễn Văn Phổ và Hoàng Tuyết Nga,
1997: Kết quả nghiên cứu bồi lắng lòng hồ ở một
số vùng miền núi phía Bắc bằng phương pháp đồng
vị chì 210. Thông báo khoa học: Các khoa học tự
nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội), số 4, tr.79-85.
[7] Nguyễn Văn Phổ, 1998: Khả năng ứng dụng
phương pháp đồng vị chì 210 trong nghiên cứu bồi
lắng hồ chứa ở Việt Nam. Hội nghị Khoa học Đại
học Mỏ - Địa chất lần thứ 13, số 3, tr.165-168.
[8] Lương Văn Thanh, 2006: Nghiên cứu đánh
giá mức độ bồi lắng hồ Trị An phục vụ công tác
bảo vệ an toàn hồ chứa. Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, số 18, tr.91-94.
60
SUMMARY
Assessment of sedimentation in Tri An reservoir by nuclear technique, geological analyses and GIS
Assessment of sedimentation in Tri An reservoir herein is based on sounding data and sedimentary thickness data,
obtained by nuclear technique and geological analyses of samples taken from the reservoir. From these data, using GIS
tools, the digital depth models and sediment thickness maps are built for the years of 1987 (moment of putting reservoir
in operation), 2010 (the present, moment of fieldwork for sounding and sampling), 2020 (10 years in future) and 2060 (50
years in future). The conclusion is made from these models, maps and their data extractions as follows:
- During the past 23 years, from 1987 to 2010, Tri An has been deposited with a thickness approximately of 12 cm
in average and 132 cm maximum. The sedimentation occurs largely in the upper part (the northeast) of the reservoir,
especially in the area near the position where the Dong Nai and La Nga River flows in.
- In the next 10 years (2020) the thickness would reach averagely 17 cm and maximally 189 cm. The area with
thickness over 75 cm occupies only 3% of total lake.
- In the next 50 years (2060) the average and maximal thickness would respectively be 38 cm and 417 cm. The
thickness over 150 cm accounts for 3% of total area and those over 200 cm occupies only 1% total.
- Sedimentation has led to reduced reservoir volume (in both inactive and active) affecting the operation activity.
However, this effect is negligible because the active volumes in 2020 and 2060 would respectively remain 98.8% and
97.0% of its the initial volume.
Despite some limitations due to insufficient input data and calculation errors, the assessment is still acceptable.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4141_34303_1_pb_8653_2100706.pdf