Nghiên cứu bước đầu về giải pháp chống thấm cho các đảo san hô bằng phương pháp trộn san hô – xi măng
          
        
            
            
              
            
 
            
                
                    Dòng thấm của nước dưới đất trên các đảo
san hô là rất phức tạp do chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố, ở đây để đơn giản hoá tính toán,
một cách tương đối chúng tôi coi dòng thấm là ổn
định. Đây mới là nghiên cứu bước đầu bằng
phương pháp thí nghiệm trong phòng trên các
mẫu chế bị. Định hướng nghiên cứu tiếp theo là
công nghệ thi công trộn san hô – xi măng đến độ
sâu hợp lý; với điều kiện địa tầng trên các đảo
san hô thì tường chống thấm cần thi công trên độ
sâu vượt qua lớp san hô bở rời. Tiến hành thí
nghiệm xác định các thông địa chất thủy văn trên
hiện trường; kết hợp lấy mẫu nước thí nghiệm
xác định thành phần hóa học so sánh trước và
sau khi xây dựng tường chống thấm bằng
phương pháp trộn san hô – xi măng
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 4 trang
4 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 690 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bước đầu về giải pháp chống thấm cho các đảo san hô bằng phương pháp trộn san hô – xi măng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
48 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
NGHIÊN CỨU BƯỚC ĐẦU VỀ GIẢI PHÁP CHỐNG THẤM CHO CÁC 
ĐẢO SAN HÔ BẰNG PHƯƠNG PHÁP TRỘN SAN HÔ – XI MĂNG 
ThS. NGUYỄN QUÝ ĐẠT 
Học viện Kỹ thuật Quân sự 
Tóm tắt: Bài báo trình bày đặc điểm địa chất 
thủy văn khu vực đảo san hô, từ đó kiến nghị giải 
pháp chống thấm bằng phương pháp trộn san hô – 
xi măng dựa trên kết quả của thí nghiệm thấm trong 
phòng. Kết quả của bài báo bước đầu góp phần làm 
sáng tỏ về quy luật biến đổi tính thấm của đất đá 
san hô ở Việt Nam và có ý nghĩa thực tiễn giúp cho 
việc lựa chọn các giải pháp chống thấm hợp lý khi 
xây dựng công trình trong môi trường san hô. 
Mở đầu: Đất đá trên các đảo san hô có cấu 
trúc địa chất đặc biệt, chủ yếu là các trầm tích 
san hô, quy luật biến đổi địa chất thủy văn theo 
đó cũng biến đổi phức tạp. Nước dưới đất trên 
các đảo san hô được hình thành chủ yếu từ nước 
mưa và nước biển ngấm vào, dẫn đến hình thành 
nguồn nước lợ và càng xuống sâu thì độ mặn 
tăng dần. Tầng nước này cũng có mối quan hệ 
với thủy triều sẽ gây khó khăn trong sinh hoạt và 
bất lợi trong xây dựng: ăn mòn kết cấu, ảnh 
hưởng tới độ bền của đất đá,... Để cải thiện 
nguồn nước này phục vụ cho sinh hoạt và giảm 
tác hại trong xây dựng, thì một trong những giải 
pháp là làm ngọt hóa, giảm độ mặn tầng nước 
ngầm bằng giải pháp kéo dài đường thấm của 
nước biển vào trong đảo bởi các tường chắn 
chống thấm xung quanh đảo được thi công đến 
độ sâu hợp lý. 
Xuất phát từ nhu cầu thực tế và điều kiện đặc 
biệt như vậy, trên cơ sở kết quả điều tra khảo sát 
và thí nghiệm hút nước hiện trường kết hợp với 
thí nghiệm trong phòng, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu tổng hợp đặc điểm địa chất công trình 
và địa chất thủy văn của các trầm tích san hô trên 
một số đảo san hô với mục đích đánh giá tác 
động của nước ngầm đến công trình cũng như 
sinh hoạt của người dân. Từ đó, chúng tôi kiến 
nghị giải pháp chống thấm bằng phương pháp 
trộn san hô xi măng. Nghiên cứu bước đầu được 
thực hiện bằng phương pháp thí nghiệm thấm 
trong phòng trên mẫu chế bị san hô với các tỷ lệ 
xi măng khác nhau; kết quả cho thấy hệ số thấm 
giảm đáng kể khi sử dụng giải pháp này. 
1. Đặc điểm địa chất thủy văn trên các đảo 
san hô 
1.1 Sự hình thành nước dưới đất 
Xét về cấu trúc địa chất nói chung, từ dưới lên 
trên ta thấy: 
- Phía dưới là đá vôi san hô và phần móng 
các đảo, tuy có kết cấu khá vững chắc, nhưng do 
hiện tượng cactơ nên có nhiều hang hốc; 
- Tiếp theo là lớp san hô vụn rời gồm cành, 
nhánh, cuội, sỏi, cát san hô đóng vai trò chủ yếu. 
Do kích thước, hình dáng hạt vụn rất khác nhau 
và mức độ gắn kết yếu nên lớp này có rỗng rất 
lớn; 
- Trên cùng là lớp cát san hô. 
Với cấu trúc địa chất như vậy, các trầm tích 
san hô tạo nên một môi trường thấm rất tốt, tạo 
điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp nguồn nước 
dưới đất. Do đó, có thể khẳng định rằng, nguồn 
nước ngầm trên các đảo san hô được hình thành 
từ nước mưa tích tụ trong các tầng nông gần bề 
mặt. Nước mưa rơi trên mặt đảo lập tức thẩm 
thấu qua các lớp trầm tích bở rời, chèn đẩy nước 
mặt trong các khe nứt, lỗ hổng ở tầng cát san hô, 
san hô phong hoá và lưu trữ ở đó trong trạng thái 
cân bằng thuỷ lực với nước biển. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 49 
Dựa vào số liệu khoan khảo sát, ta có thể 
chia mặt cắt địa chất thuỷ văn đảo san hô thành 
các đới như sau (bảng 1): 
Đới 1: Đới thông khí 
 Có bề dày tính từ mặt đảo đến độ sâu 1.8 m. 
Thành phần đất đá chủ yếu ở đới này gồm cát, 
sạn và cành nhánh san hô vụn, nhỏ rời rạc, đôi 
chỗ xen kẹp lớp phân chim màu xám đen. Đất đá 
có độ rỗng lớn (35 ÷ 45%), thông thoáng có quan 
hệ mật thiết với bề mặt. Nước mưa, nước mặt 
qua đới này thấm sâu xuống lòng đất nên ở đới 
này không chứa tầng nước này. 
Đới 2: Đới dao động của mực nước ngầm 
Nằm ở độ sâu 1.8 ÷ 2.7m dưới mặt đảo. 
Thành phần đất đá ở đới này chủ yếu là cành, 
nhánh san hô lẫn sạn và cát hạt thô, có độ rỗng 
lớn (40 ÷ 45%). Mực nước trong đới này thường 
xuyên dao động do tác động của nước thuỷ triều. 
Đới 3: Đới bão hoà nước 
 Nằm ở độ sâu từ 2.7m trở xuống. Trong đới 
này, theo kết quả khoan khảo sát địa chất công 
trình, địa chất thuỷ văn thì thành phần chủ yếu 
bao gồm: phần trên của đới là cành, nhánh san 
hô lẫn ít cát, sạn, đôi chỗ còn gặp cục, tảng san 
hô, có kết cấu rời rạc, xốp và có độ rỗng lớn (30 - 
35%). Trong phần này của đới có chứa tầng 
nước nhạt phong phú, có bề dày dao động từ 11 
- 12.8m. Phần dưới của đới này là tầng đá vôi, 
gắn kết tương đối vững chắc, độ rỗng dao động 
trong khoảng 10 - 20%. Ở phần này của đới có 
chứa nước trong các khe nứt, độ rỗng của đất đá 
và nước ở đây có nồng độ muối cao hơn, độ tổng 
khoáng tăng dần theo độ sâu. 
Bảng 1. Mặt cắt địa chất thủy văn đảo san hô 
STT Các đới nước dưới đất Thành phần thạch học 
Bề dày 
(m) Đặc điểm ĐCTV 
1 Đới thông khí Cát, sạn lẫn cành vụn san hô 1.8 Thấm nước tốt, không trữ nước 
2 Đới dao động 
mực nước 
Cành nhánh lẫn ít cát, sạn 0.9 Mực nước ngầm dao động theo thuỷ triều và theo mùa 
3 Đới bão hoà 
nước 
- Phần trên gồm cành, nhánh san 
hô, xen kẽ gặp san hô dạng cục, 
tảng, độ rỗng lớn. 
- Phần dưới là đá vôi san hô, gắn 
kết tương đối vững chắc, độ rỗng 
nhỏ. 
> 37.3 
Đất đá bão hoà nước; phần trên 
chứa tầng nước nhạt (M < 1g/l), có 
bề dày 11 ÷ 12.8m; Từ độ sâu 13.5 
÷ 14.6m trở xuống chứa nước có 
nồng độ muối cao hơn, càng 
xuống sâu càng mặn. 
1.2 Nghiên cứu dao động mực nước ngầm 
Để nghiên cứu sự dao động mực nước 
ngầm, đã tiến hành quan trắc và đo đạc sự 
thay đổi mực nước trong các giếng đào và giếng 
khoan trên các đảo theo thời gian trong mối 
quan hệ với mực nước biển [2]. Kết quả đo đạc 
cho thấy: 
Phụ thuộc vào vị trí, khoảng cách của các 
giếng đến bờ đảo và ở các hướng đảo khác nhau 
mà mức độ ảnh hưởng của thuỷ triều với mực 
nước ở các giếng khác nhau. Dao động của mực 
nước ngầm thường lệch pha, chậm hơn với dao 
động của mực nước thuỷ triều: 1 ÷ 2 giờ, có khi 
đến 4 giờ. Ở thời điểm triều cường, biên độ thuỷ 
triều đạt 1.9 ÷ 2.0m thì biên độ nước dưới đất 
cũng đạt tới 1.47 ÷ 1.48m. Từ các số liệu về độ 
cao mực nước trong các giếng cho thấy bề dày 
tầng nước trong các giếng dao động trong 
khoảng từ 0.43 ÷ 1.48m. Nhìn chung, dao động 
của nước dưới đất trên đảo quan hệ chặt chẽ với 
dao động của mực nước thuỷ triều trong ngày. 
1.3 Nghiên cứu xác định các thông số địa chất 
thủy văn bằng phương pháp hút nước thí 
nghiệm trên hiện trường 
Để xác định một số thông số địa chất thủy văn 
chủ yếu của nước dưới đất, chúng tôi đã tiến 
hành khoan giếng nước và tiến hành hút nước thí 
nghiệm. Từ đó, xây dựng các biểu đồ hạ thấp mực 
nước theo thời gian, tính toán các thông số địa 
chất thủy văn [1]. 
Sử dụng phương pháp Jacob để xác định các 
thông số địa chất thuỷ văn, dựa trên phương trình 
mực nước hạ thấp: 
S = Algt + B (1) 
trong đó: 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
50 Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 
 A - Hệ số góc của phương trình; 
T
QA
pi4
.30,2
= ; 2
25,2lg
4
.30,2
r
a
T
QB
pi
=
Q - lưu lượng của giếng, m3/ngày; 
s - độ hạ mực nước, m; 
T - hệ số dẫn nước của tầng chứa nước, 
m2/ng; 
t - thời gian tính toán, s; 
a - hệ số dẫn áp, m2/ng; 
 r - bán kính giếng khi tính mực nước hạ thấp 
tại giếng hút nước hay khoảng cách từ điểm tính 
mực nước hạ thấp tới giếng hút nước. 
 Hệ số thấm có thể xác định theo công thức: 
 K = T/h (2) 
trong đó: 
T - hệ số dẫn nước, 
A
QT
..4
30,2
pi
= ; 
K - hệ số thấm, m/ng; 
T - hệ số dẫn nước, m2/ng; 
h - chiều dày tầng chứa nước, m; 
Kết quả tính toán: 
 Để xác định các thông số K dựa theo số liệu 
thí nghiệm, ta xây dựng đồ thị quan hệ mực nước 
hạ thấp trong lỗ khoan s với logarit của thời gian 
lgt theo phương trình (1). Dựa vào đồ thị trên ta 
xác định các hệ số A và B. Từ đó xác định được 
hệ số dẫn nước T và thay vào phương trình (2) 
xác định được hệ số thấm K. 
Theo tài liệu hút nước thí nghiệm đợt 1: 
T1 = 703 m2/ng; h1 = htb = 11.0 m; 
Vậy: 
K1 = T1/h1 = 703/11 = 63.9 m/ng 
Theo tài liệu hút nước thí nghiệm đợt 2: 
T2 = 263 m2/ng; h2 = 11.0 m; 
Vậy: 
K2 = T2/h2 = 263/11 = 23.9 m/ng. 
 Từ đó ta có giá trị trung bình của các thông số 
như sau: 
1 2 63.9 23.9 43.9
2 2tb
K KK + += = = m/ng. 
Nhận xét: 
Hệ số thấm trung bình của lớp cành nhánh 
san hô ở các đảo là Ktb = 43.9 m/ng. Kết quả này 
cũng cho thấy khả năng thấm nước rất lớn của 
các lớp phần trên các đảo, tạo điều kiện cho khả 
năng thu nhận nước mưa thấm xuống, cung cấp 
cho nguồn nước ngầm trên các đảo nổi. 
2. Nghiên cứu bước đầu về giải pháp chống 
thấm cho các đảo san hô bằng phương pháp 
trộn san hô – xi măng 
Để nghiên cứu giải pháp chống thấm trên các 
đảo san hô, bước đầu chúng tôi tiến hành thí 
nghiệm thấm trên mẫu chế bị nhằm mục đích xác 
định hệ số thấm của mẫu tương ứng với hàm 
lượng xi măng khác nhau trong hỗn hợp chế tạo 
mẫu. Từ kết quả thí nghiệm mẫu có thể lựa chọn 
phối liệu chế tạo màn chống thấm với hàm lượng 
xi măng thích hợp. 
Mẫu chế bị được chế tạo từ cát và cành 
nhánh san hô lấy tại các đảo san hô. Hàm lượng 
xi măng được tính theo phần trăm trọng lượng 
cát và cành nhánh lần lượt là 5.0; 10.0 và 15.0%. 
Sử dụng xi măng Pooc lăng P300, Hoàng Thạch, 
dùng nước sạch cấp cho sinh hoạt. Mẫu được 
đúc trong ống nhựa có đường kính 90mm, chiều 
cau 185mm. 
Tiêu chuẩn áp dụng: TCVN 9403:2012 Gia cố 
đất nền yếu – Phương pháp trụ đất xi măng. Mẫu 
chế tạo trong phòng được thực hiện theo phương 
pháp trộn ướt. Thời gian thí nghiệm sau 7, 14 và 
28 ngày. Phương pháp thí nghiệm thấm cột nước 
không đổi. 
Để thí nghiệm xác định hệ số thấm của mẫu 
chế bị, dùng thiết bị thí nghiệm thông thường như 
thí nghiệm thấm với đất cát. Mô hình thí nghiệm 
như hình 1 [3]. Vận tốc thấm v được xác định 
theo công thức: 
QV = (3)
Ft
trong đó: Q – thể tích nước đo được, cm3; 
F – diện tích tiết diện mẫu, cm2; 
t – thời gian đo, s. 
Hệ số thấm của mẫu được xác định theo 
công thức: K = V/I (4) 
trong đó: 
I - gradient áp lực; I = h/L 
h - chênh cao cột nước, cm; 
L - chiều dài mẫu chế bị, cm. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng – số 2/2016 51 
Hình 1. Mô hình thí nghiệm thấm trong mẫu san hô cột nước không đổi 
L – chiều dài mẫu chế bị; h – chênh cao cột nước 
Kết quả thí nghiệm xác định hệ số thấm của mẫu chế bị được thể hiện trong bảng 2. 
Bảng 2. Giá trị trung bình hệ số thấm của mẫu chế bị (m/ng) 
STT Mẫu 
chế bị 
Hàm lượng xi măng (%) 
0.0 
5.0 10.0 15.0 
7 ngày 14 
ngày 
28 
ngày 7 ngày 
14 
ngày 
28 
ngày 7 ngày 
14 
ngày 
28 
ngày 
1 Cát 
san hô 20.968 1.328 1.123 1.043 0.147 0.088 0.028 0.064 0.047 0.031 
2 
Cành 
nhánh 
san hô 
21.978 1.327 1.122 1.042 0.364 0.159 0.079 0.091 0.054 0.032 
3. Kết luận 
Dòng thấm của nước dưới đất trên các đảo 
san hô là rất phức tạp do chịu ảnh hưởng của 
nhiều yếu tố, ở đây để đơn giản hoá tính toán, 
một cách tương đối chúng tôi coi dòng thấm là ổn 
định. Đây mới là nghiên cứu bước đầu bằng 
phương pháp thí nghiệm trong phòng trên các 
mẫu chế bị. Định hướng nghiên cứu tiếp theo là 
công nghệ thi công trộn san hô – xi măng đến độ 
sâu hợp lý; với điều kiện địa tầng trên các đảo 
san hô thì tường chống thấm cần thi công trên độ 
sâu vượt qua lớp san hô bở rời. Tiến hành thí 
nghiệm xác định các thông địa chất thủy văn trên 
hiện trường; kết hợp lấy mẫu nước thí nghiệm 
xác định thành phần hóa học so sánh trước và 
sau khi xây dựng tường chống thấm bằng 
phương pháp trộn san hô – xi măng. 
Giải pháp chống thấm này mang lại nhiều ý 
nghĩa tích cực như: giảm độ mặn, làm ngọt hóa 
nguồn nước ngầm vốn đã ít ỏi trên các đảo san 
hô, giảm tác hại ăn mòn vật liệu xây dựng, cải tạo 
cường độ chịu tải của nền đá san hô, giữ ổn định 
ranh giới mặn ngọt, hạn chế tác hại của dòng 
thấm tới đất đá, hạn chế nhiễm bẩn của chất thải 
từ biển ngấm trở lại đảo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Thái Doãn Hoa (2011), “Một số kết quả bước đầu 
về xác định các thông số địa chất thuỷ văn bằng 
phương pháp hút nước thí nghiệm trên hiện trường 
ở đảo Trường Sa lớn”, Tạp chí Khoa học và Kỹ 
thuật Học viện Kỹ thuật quân sự, 144, tr. 103 - 
109. 
[2] Viện Kỹ thuật Công trình đặc biệt (2012), Điều tra 
khảo sát về môi trường nước và rác thải hữu cơ 
trên các đảo nổi thuộc quần đảo Trường Sa, Dự 
án điều tra biển ĐTB 11.3, Học viện KTQS, Hà 
Nội. 
[3] Braja M.Das, Khaled Sobhan (2013). “Principles of 
Geotechnical Engineering”. Cengage Learning, U.S.A. 
Ngày nhận bài: 22/03/2016. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 9/7/2016. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 1469415938nguyenquydat_4485.pdf 1469415938nguyenquydat_4485.pdf