Nghiên cứu các biến đổi giải phẫu của động mạch thân tạng và mạc treo tràng trên trên chụp cắt lớp vi tính 64 dãy
Hạn chế của nghiên cứu này là chúng tôi không
có các khẳng định về phẫu thuật và chụp mạch thường
quy để đánh giá mức độ chính xác của CLVT. Tuy nhiên,
tỉ lệ các biến đổi giải phẫu trong nghiên cứu của chúng
tôi thì phù hợp với giải phẫu và chụp mạch thường quy
được mô tả trong y văn (3, 5). So sánh trực tiếp các dấu
hiện trên CLVT với chụp mạch thường quy không thực
hiện được do CLVT đã thay thế các chụp mạch xâm
lấn trong đánh giá giai đoạn tiền phẫu thuật và tạo ảnh
mạch máu. Chúng tôi cũng không có ý định đánh giá độ
nhạy và độ đặc hiệu của CLVT trong phát hiện các biến
đổi động mạch mà chỉ mong muốn đưa ra các loại biến
đổi hay gặp hoặc không hay gặp nhưng có ý nghĩa trên
lâm sàng. Mặc dù đã có các nghiên cứu trước kia mô
tả các biến đổi động mạch, nhưng theo hiểu biết của
chúng tôi, một số nghiên cứu có cỡ mẫu không lớn. Một
vài biến đổi không hay gặp nhưng có vai trò quan trọng
trong phẫu thuật chưa được mô tả. Ngoài ra, tầm quan
trọng của việc xác định các biến đổi động mạch trong
việc lập kế hoạch trước phẫu thuật đối với ung thư tụy
và gan chưa được đề cập đến một cách có hệ thống.
Hầu hết các bài báo về biến đổi động mạch mô tả sự
liên quan với lâm sàng của các biến đổi động mạch ở
những bệnh nhân ghép gan. Bởi vì CLVT trở nên được
sử dụng rộng rãi trong các bệnh nhân ung thư gan, tụy,
việc nhận biết các biến đổi này rất quan trọng trong
quản lý bệnh nhân.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các biến đổi giải phẫu của động mạch thân tạng và mạc treo tràng trên trên chụp cắt lớp vi tính 64 dãy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014104
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
* Bệnh viện Việt Đức
The purpose of this study was to determine the different
variants of celiac and superior mesenteric arteries identified at
abdominal 64-slice CT scanner performed in 910 patients.
Results: 282 patients (30.9%) had arterial variants identified.
The most common variant identified was a right hepatic artery
originating from the superior mesenteric artery, which was seen
in 77 (8.5%) patients. The second most common variant was a
left hepatic artery originating from the left gastric artery, seen in
47 (5.2%) patients. Variations in the origin of the common hepatic
artery were seen in 10 (1.1%) patients. The right hepatic artery
originated from the celiac axis in 13 (1.4%) patients and from the
aorta in 3 (0.3%) patient. The left hepatic artery originated from
the celiac axis in 4 (0.4%) patient. Accessory hepatic arteries were
identified in 53 (5.8%) patients.
NGHIÊN CỨU CÁC BIẾN ĐỔI GIẢI PHẪU
CỦA ĐỘNG MẠCH THÂN TẠNG VÀ MẠC
TREO TRÀNG TRÊN TRÊN CHỤP CẮT LỚP
VI TÍNH 64 DÃY
Bùi Quang Huynh*, Nguyễn Duy Huề*, Trịnh Hồng Sơn*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 105
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chụp CLVT đa dãy đầu dò cho phép thực hiện các
lớp cắt nhanh, thu được các hình ảnh có độ phân giải
cao của động mạch thân tạng và mạc treo tràng trên
ở thời điểm ngấm thuốc cản quang mạnh nhất. Chụp
CLVT có vai trò quan trọng trong việc xác định khả năng
cắt bỏ khối u ở những bệnh nhân có tổn thương ác tính
ở tụy và gan mật. Một vai trò quan trọng khác của CLVT
trong đánh giá các bệnh nhân có tổn thương ác tính ở
tụy và gan mật là mô tả các biển đổi về giải phẫu của
động mạch, đặc biệt là với các thế hệ máy đa dãy đầu
dò cho phép tạo ảnh không gian ba chiều. Các hiểu biết
trước phẫu thuật về biến đổi giải phẫu giúp cho việc
chọn lựa phương pháp điều trị và lập kế hoạch phẫu
thuật, giúp cho việc bóc tách trong phẫu thuật được
thuận lợi, tránh gây ra các thương tổn mạch máu. Mục
đích của nghiên cứu này là xác định tần suất các biến
đổi giải phẫu khác nhau của hệ động mạch thân tạng và
mạc treo tràng trên trên chụp CLVT 64 dãy.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Các dữ liệu CLVT ổ bụng có chụp thì động mạch
toàn bộ hệ động mạch thân tạng và mạc treo tràng trên
từ tháng 2/2012 đến tháng 3/2013 bao gồm chủ yếu
là các bệnh nhân có khối u ở gan mật hoặc tụy. Mỗi
một bệnh nhân có mặt trong nghiên cứu một lần. CLVT
được thực hiện để xác định khả năng cắt bỏ của khối u
và giúp việc lập kế hoạch phẫu thuật.
2. Kỹ thuật chụp CLVT
Tất cả các thăm khám CLVT được thực hiện trên
máy CLVT 64 dãy (LightSpeed, GE Healthcare). Các
lớp cắt được thực hiện sau tiêm thuốc cản quang
không chứa ion (Xenetix 350, Iopamirol 370) với máy
bơm dùng catheter cỡ 18G, vận tốc bơm 4-5ml/s. Sử
dụng kỹ thuật Smart Prep để xác định đỉnh ngấm thuốc
của động mạch chủ bụng đoạn cao. Các lớp cắt được
tái tạo mỏng 0,625mm ở thời điểm động mạch ngấm
thuốc cao nhất. Đối với các bệnh nhân có tổn thương
giàu mạch như ung thư biểu mô tế bào gan (CHC), ung
thư biểu mô nội tiết thần kinh, CLVT được thực hiện
thăm khám theo 3 phase, các lớp cắt 2,5mm ở thì động
mạch sớm và 5mm ở thì tĩnh mạch. Đối với các bệnh
nhân có tổn thương tụy, các lớp cắt 2,5mm ở thì động
mạch muộn, các lớp cắt 5mm toàn bộ ổ bụng sau tiêm
60 giây.
3. Thu thập và xử lý số liệu
Đọc các kết quả thăm khám CLVT trên efilm 2.1
và Worstation 4.1 nhằm đánh giá sự có mặt của các
biến đổi giải phẫu động mạch thân tạng, động mạch
mạc treo tràng trên. Đối với các bệnh nhân có biến đổi
giải phẫu, các type biến đổi được đánh giá dựa trên
tiêu chuẩn Michels (3). Tái tạo ảnh không gian 3 chiều
trong khi đọc.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tất cả các nghiên cứu được thực hiện đảm bảo
chất lượng chẩn đoán. 628 bệnh nhân (69%) trong tổng
số 910 BN có giải phẫu động mạch kinh điển xác định
trên CLVT. 228 bệnh nhân (25,1%) chỉ có một biến đổi
động mạch và 54 BN (5,9%) có nhiều hơn 1 biến đổi
giải phẫu. Biến đổi hay gặp nhất là động mạch gan phải
xuất phát từ động mạch mạc treo tràng trên, gặp ở 77
BN (8,5%). Biến đổi hay gặp thứ hai là động mạch gan
trái xuất phát từ động mạch vị trái gặp ở 47 BN (5,2%).
Các biến đổi nguyên ủy của động mạch gan chung gặp
ở 10 BN (1,1%). Ở 7 BN (0,8%) động mạch gan chung
xuất phát từ động mạch mạc treo tràng trên và 3 BN
(0,3%) động mạch gan chung xuất phát từ động mạch
chủ bụng. Hình ảnh “hai động mạch gan” được mô tả
bởi Covey và cs. (5): một hoặc cả hai động mạch gan
xuất phát từ động mạch thân tạng hoặc động mạch
chủ bụng, gặp ở 20 BN (2,2%) trong nhóm nghiên cứu.
Động mạch gan phải xuất phát từ động mạch thân tạng
ở 13 BN (1,4%) và từ động mạch chủ bụng ở 3 BN
(0,3%). Động mạch gan trái xuất phát từ động mạch
thân tạng ở 4 BN (0,4%). Động mạch gan phụ gặp ở 53
BN (5,8%). Tần suất gặp các biến đổi động mạch khác
nhau được thể hiện trong bảng 1.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014106
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 1. Tần suất các biến đổi động mạch trên CLVT ở 910 bệnh nhân
Loại biến đổi Số lượng dấu hiệu
(n=961)
Tỉ lệ % bệnh nhân (n=910)
Giải phẫu ĐM thân tạng kinh điển 628 69
ĐM gan phải từ ĐM MTTT 77 8.5
ĐM gan trái từ ĐM vị trái 47 5.2
ĐM gan trái phụ từ ĐM vị trái 44 4,8
HPT IV từ gan P 39 4.3
ĐM vị trái từ ĐMCB 26 2,9
ĐM gan phải từ ĐM thân tạng 13 1,4
Vị tá tràng từ gan T 17 1,9
Thân chung 14 1,5
ĐM lách từ ĐMCB 11 1,2
ĐM vị trái từ ĐM lách 10 1.1
ĐM gan chung từ MTTT 7 0,8
ĐM gan chung từ ĐMCB 3 0,3
ĐM gan phải phụ từ ĐM MTTT 5 0,5
ĐM gan trái từ ĐM thân tạng 4 0,4
Vị tá tràng từ gan P 3 0,3
ĐM gan phải từ ĐM vị tá tràng 2 0,2
ĐM gan phải từ ĐMCB 3 0,3
ĐM gan phải phụ từ ĐM vị tá tràng 1 0,1
ĐM gan trái từ ĐM gan chung 4 0,4
Vị tá tràng từ MTTT 2 0,2
Vị tá tràng từ thân tạng 3 0,3
ĐM lách từ MTTT 1 0,1
Trong đó có 54 BN có từ 2 biến đổi trở lên.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 107
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
Biến đổi giải phẫu động mạch gan và động mạch
thân tạng đã được báo cáo ở 55% các bệnh nhân dựa
trên cơ sở đầu tiên trên phẫu tích xác chết của Michels
(3). Vào năm 1969, Redman và Reuter (1) cho thấy hầu
hết các biến đổi gặp ở khoảng 50% dân số có vai trò
quan trọng với phẫu thuật. Sự xuất hiện của các biến
đổi giải phẫu động mạch làm thay đổi phương pháp
quản lý bệnh nhân. Do đó, biết trước được các biến đổi
này trên CLVT và đánh giá vai trò trên lâm sàng của các
biến đổi này có tầm quan trọng lớn. CLVT đa dãy cho
phép thực hiện nhanh các lớp cắt mỏng, hình ảnh có
độ phân giải cao các động mạch trong ổ bụng vào thời
điểm thuốc cản quang đạt nồng độ cao nhất. Các dữ
liệu thể tích cho phép tái tạo hình ảnh, cung cấp cho các
phẫu thuật viên giải phẫu động mạch của bệnh nhân
trên ảnh không gian 3 chiều (7). Lợi ích lớn của CLVT
so với chụp mạch thường quy là mối tương quan giữa
các động mạch với các cơ quan lân cận và đường mật
được bộc lộ giúp xác định một cách chính xác đường đi
của mạch máu lạc chỗ. Điều này có giá trị lớn bởi vì khả
năng quan sát trực tiếp trên phẫu thuật thường hạn chế
ở những bệnh nhân có tổn thương ác tính ở gan mật
và tụy, đặc biệt ở những người có tiền sử phẫu thuật,
có tổn thương viêm khu trú như sau đặt stent đường
mật hoặc bệnh nhân béo phì. Việc hiểu biết trước phẫu
thuật các biến đổi giải phẫu động mạch có thể tránh
phải bộc lộ rộng rãi để quan sát mạch máu và tránh
được các tổn thương mạch. Tỉ lệ tử vong trong cắt gan
từ 3-5% mà nguyên nhân chính là do chảy máu (8, 9).
Chụp mạch trên CLVT đa dãy được báo cáo là
có độ chính xác 97 - 98% so với chụp mạch thường
quy trong phát hiện các biến đổi giải phẫu (8). Vai trò
của CLVT trong đánh giá tiền phẫu thuật ở những bệnh
nhân ung thư gan (2, 8) và tụy (7) cũng đã được mô
tả. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu đó, số lượng bệnh
nhân được đánh giá còn nhỏ. Chúng tôi thực hiện báo
cáo này mô tả khả năng của CLVT trong việc xác định
các biến đổi giải phẫu động mạch khác nhau với cỡ
mẫu lớn hơn.
Chúng tôi đánh giá các động mạch chính quanh
vùng đầu tụy bởi vì đây là các mạch máu có mối tương
quan lớn với lâm sàng trong phẫu thuật tụy. Các biến
đổi của vòng cung tá-tụy, động mạch vị mạc nối thường
không có vai trò lắm trong phẫu thuật gan mật và tụy.
Biến đổi của hợp lưu lách-cửa thì khá hiếm và vì đó
không bàn đến trong nghiên cứu này. Các biến đổi chia
nhánh của hệ thống tĩnh mạch cửa trong gan và tĩnh
mạch gan cũng thường gặp.
Biến đổi giải phẫu động mạch gặp ở 30,9% các
bệnh nhân chụp CLVT. Biến đổi hay gặp nhất trên CLVT
là động mạch gan phải xuất phát từ động mạch MTTT
chiếm 8,5% các bệnh nhân. Nhận biết động mạch gan
phải rất quan trọng khi cắt khối tá tụy và bóc tách tĩnh
mạch cửa trong quá trình cắt gan. Trong khi động mạch
gan phải bình thường chạy trước tĩnh mạch cửa phải
thì động mạch thay thế xuất phát từ ĐM mạc treo tràng
trên chạy phía sau thân tĩnh mạch cửa trong khoảng
cửa-chủ và đi lên phía sau bên của ống gan chung. Dấu
hiệu sờ thấy động mạch trên phẫu thuật không đáng
tin cậy trong trường hợp có viêm tĩnh mạch cửa, tĩnh
mạch cửa giãn, hạch to hoặc có stent đường mật. Ở
những bệnh nhân có ung thư đầu hoặc móc tụy, động
mạch gan thay thế này có thể bị xâm lấn bởi u, khiến
khối u không thể cắt bỏ được. Trường hợp động mạch
gan không bị xâm lấn, cần thận trọng trong khu vực này
để tránh việc sơ ý làm tổn thương động mạch trong quá
trình bóc tách. Điều này đặc biệt quan trọng bởi vì bệnh
nhân có u đầu tụy thường bị vàng da. Không giống với
các bệnh nhân không vàng da, lưu lượng máu từ tĩnh
mạch cửa có thể duy trì sự sống của gan, gan ở bệnh
nhân vàng da dễ bị hoại tử nếu có tổn thương động
mạch (1). Vì vậy, phẫu thuật viên có thể lựa chọn dẫn
lưu đường mật đối với bệnh nhân vàng da có động
mạch gan phải thay thế để làm giảm vàng da trước khi
cắt khối tá tụy.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014108
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biến đổi giải phẫu động mạch hay gặp thứ hai là
động mạch gan trái xuất phát từ động mạch vị trái, gặp
ở 5,2% bệnh nhân. Tỉ lệ này phù hợp với báo cáo của
Michels (3). Động mạch gan trái thay thế xuất phát từ
động mạch vị trái và chạy sang phải qua mạc nối nhỏ,
rãnh dây chằng liềm vào thùy gan trái. Trước khi thực
hiện cắt gan trái, phải xác định và thắt mạch máu này.
Việc hiểu biết trước phẫu thuật giúp cho quá trình bóc
tách tĩnh mạch cửa bởi vì nhánh động mạch chính cho
gan trái không cần phải tìm ở vị trí tĩnh mạch cửa.
Hình ảnh hai động mạch gan: động mạch gan phải
hoặc trái xuất phát từ động mạch thân tạng hoặc động
mạch chủ bụng gặp trong 2,2% các bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi, so với báo cáo của Covey
và cs. (5) là 3,7% trên chụp mạch số hóa xóa nền. Vị trí
bất thường của động mạch gan phải xuất phát từ động
mạch thân tạng hoặc động mạch chủ bụng và chạy sau
đường mật có thể bị tổn thương do phẫu thuật viên
không nhìn thấy.
Động mạch gan trái phụ và động mạch gan phải
phụ gặp tương ứng là 5,2% và 0,6%. Động mạch gan
trái phụ thường xuất phát từ động mạch vị trái (4,7) và
có hướng đi giống với động mạch gan trái thay thế.
Động mạch phụ này cung cấp thêm nguồn máu động
mạch cho thùy gan trái và có thể loại bỏ mà không ảnh
hưởng đến cấp máu gan trái. Đường đi của động mạch
gan phải phụ giống với động mạch gan phải thay thế.
Phân biệt giữa động mạch gan phụ và động mạch thay
thế rất quan trọng, giúp tránh các tổn thương các mạch
này và gây chảy máu.
Hình 2. BN. Ngô Lương Đ. 70T
ĐM gan trái từ ĐM vị trái
Động mạch gan chung xuất phát từ động mạch
mạc treo tràng trên gặp 0,8%. Khi tiến hành cắt khối tá
tụy, cần phải bảo tồn động mạch gan chung và do đó
Hình 1. BN. Trần Quang T. 54T
ĐM gan phải từ ĐM MTTT
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014 109
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
phải bóc tách ra khỏi động mạch mạc treo tràng trên.
Đường đi bất thường của động mạch gan chung gần
với đầu tụy và có thể bị xâm lấn bởi khối u khiến cho
việc cắt bỏ không thực hiện được. Trường hợp mạch
máu biến đổi này không bị ảnh hưởng, nếu không nhận
biết được, nó có thể bị tổn thương trong quá trình phẫu
thuật.
Hạn chế của nghiên cứu này là chúng tôi không
có các khẳng định về phẫu thuật và chụp mạch thường
quy để đánh giá mức độ chính xác của CLVT. Tuy nhiên,
tỉ lệ các biến đổi giải phẫu trong nghiên cứu của chúng
tôi thì phù hợp với giải phẫu và chụp mạch thường quy
được mô tả trong y văn (3, 5). So sánh trực tiếp các dấu
hiện trên CLVT với chụp mạch thường quy không thực
hiện được do CLVT đã thay thế các chụp mạch xâm
lấn trong đánh giá giai đoạn tiền phẫu thuật và tạo ảnh
mạch máu. Chúng tôi cũng không có ý định đánh giá độ
nhạy và độ đặc hiệu của CLVT trong phát hiện các biến
đổi động mạch mà chỉ mong muốn đưa ra các loại biến
đổi hay gặp hoặc không hay gặp nhưng có ý nghĩa trên
lâm sàng. Mặc dù đã có các nghiên cứu trước kia mô
tả các biến đổi động mạch, nhưng theo hiểu biết của
chúng tôi, một số nghiên cứu có cỡ mẫu không lớn. Một
vài biến đổi không hay gặp nhưng có vai trò quan trọng
trong phẫu thuật chưa được mô tả. Ngoài ra, tầm quan
trọng của việc xác định các biến đổi động mạch trong
việc lập kế hoạch trước phẫu thuật đối với ung thư tụy
và gan chưa được đề cập đến một cách có hệ thống.
Hầu hết các bài báo về biến đổi động mạch mô tả sự
liên quan với lâm sàng của các biến đổi động mạch ở
những bệnh nhân ghép gan. Bởi vì CLVT trở nên được
sử dụng rộng rãi trong các bệnh nhân ung thư gan, tụy,
việc nhận biết các biến đổi này rất quan trọng trong
quản lý bệnh nhân.
V. KẾT LUẬN
Các biến đổi giải phẫu động mạch gan và thân tạng
trên CLVT là thường gặp, xảy ra ở 30,9% bệnh nhân
trong nhóm nghiên cứu. CLVT có thể được sử dụng để
nhận biết các biến đổi thường gặp và hiếm gặp. Vai trò
của CLVT ở những bệnh nhân có tổn thương ác tính
tụy, gan mật bao gồm việc đánh giá giai đoạn, lập bản
đồ mạch máu có vai trò quan trọng với phẫu thuật. Việc
hiểu biết trước phẫu thuật các biến đổi giải phẫu này có
thể giúp cho việc chọn lựa phương pháp điều trị, giúp
cho việc bóc tách trên phẫu thuật thuận lợi hơn và tránh
các tổn thương mạch máu gây ra do phẫu thuật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Winston CB, Lee NA, Jarnagin WR et al (2007).
CT angiography for delineation of celiac and superior
mesenteric artery variants in patients undergoing
hepatobiliary and pan creatic surgery. AJR; 188: p13–
19.
2. Song SY, Chung JW, Yin YH et al (2010). Celiac
axis and common hepatic artery variations in 5002
patients: systematic analysis with spiral CT and DSA.
Radiology; Vol 255, No.1: p278-288.
3. Michels NA. Blood supply and anatomy of
the upper abdominal organs with a descriptive atlas.
Philadelphia, PA: Lippincott, 1955; 64-69.
4. Özbülbül NI et al (2011). CT angiography of the
celiac trunk: anatomy, variants and pathologic findings.
Diagn Interv Radiol 17:150–157.
5. Covey AM, Brody LA, Maluccio MA et al (2002).
Variant hepatic arterial anatomy revisited: digital
subtraction angiography performed in 600 patients.
Radiology 224:542–547.
6. Sztika D, Zăhoi DE, Motoc A et al (2011).
Anatomical variations of the hepatic portal vein
associated with incomplete celiac trunk. Rom J Morphol
Embryol 52(2):695–698.
7. Egorov VI, Yashina NI, Fedorov AV et al (2010).
Celiaco-mesenterial arterial aberrations in patients
undergoing extended pancreatic resections: Correlation
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 15 - 4 / 2014110
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
of CT angiography with findings at surgery. JOP. J
Pancreas (Online) Jul 5; 11(4):348-357.
8. Sahani D, Mehta A, Blake M (2004). Preoperative
hepatic vascular evaluation with CT and MR
angiography: implications for surgery. RadioGraphics
24:1367-1380.
9. Lavelle MT, Lee VS, Rofsky NM (2001). Dynamic
contrast-enhanced three-dimensional MR imaging of
liver parenchyma: source images and angiographic
reconstructions to define hepatic arterial anatomy.
Radiology 218: 389–394.
TÓM TẮT
Nghiên cứu xác định tần suất các biến đổi giải phẫu của hệ động mạch thân tạng và mạc treo tràng trên trên
chụp cắt lớp vi tính 64 dãy.
Kết quả, trong số 910 bệnh nhân nghiên cứu có 282 bệnh nhân có biến đổi động mạch (chiếm 30,9%), trong
đó hay gặp nhất là động mạch gan phải xuất phát từ động mạch mạc treo tràng trên, gặp ở 77 BN (8,5%). Hay gặp
thứ hai là động mạch gan trái xuất phát từ động mạch vị trái gặp ở 47 BN (5,2%). Các biến đổi nguyên ủy của động
mạch gan chung gặp ở 10 BN (1,1%). Động mạch gan phải xuất phát từ động mạch thân tạng ở 13 BN (1,4%) và
từ động mạch chủ bụng ở 3 BN (0,3%). Động mạch gan trái xuất phát từ động mạch thân tạng ở 4 BN (0,4%). Động
mạch gan phụ gặp ở 53 BN (5,8%).
NGƯỜI THẨM ĐỊNH:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_cac_bien_doi_giai_phau_cua_dong_mach_than_tang_va.pdf