Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian mắc bệnh
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với sai sót trong
kỹ thuật sử dụng MDI (p < 0,05), người bệnh có thời
gian mắc bệnh càng lâu thì kỹ thuật sử dụng MDI
kém hơn so với người bệnh mới mắc bệnh. Điều này
cũng dễ hiểu vì những người bệnh có thời gian mắc
bệnh trên 10 năm thuộc nhóm đối tượng trên 70 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ người bệnh
tham gia câu lạc bộ Hen phế quản và COPD từ 1-3
năm chiếm tỷ lệ 45,9%, tham gia trên 3 năm chiếm
tỷ lệ 20%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Nguyễn Hoài Thu (2016), người bệnh tham gia
chương trình từ 1-3 năm chiếm tỷ lệ 43,6%; tham
gia từ 3 đến 5 năm là 26,1% [2]. Qua đây cho thấy
hầu hết đối tượng có thời gian mắc bệnh tương đối
dài nhưng tỷ lệ đối tượng tham gia nghiên cứu có ý
thức tham gia câu lạc bộ và theo dõi tình trạng sức
khoẻ của bản thân trên 3 năm tương đối thấp. Vì
vậy, phòng quản lý COPD cần đẩy mạnh công tác
truyền thông, giáo dục sức khỏe nhằm khuyến khích
người bệnh tích cực tham gia hoạt động câu lạc bộ.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức
độ tắc nghẽn với sai sót trong kỹ thuật sử dụng
MDI (p < 0,05). Chúng tôi chưa tìm được y văn
về mối liên quan này. Điều này được giải thích là
trong số người bệnh có mức độ tắc nghẽn nhẹ, họ
có ý thức về tình trạng bệnh của mình hơn, mong
muốn tình trạng bệnh cải thiện và trở về trạng thái
bình thường, ngoài ra những người bệnh này có thời
gian mắc bệnh ngắn hơn so với nhóm có mức độ tắc
nghẽn nặng.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thuốc
hít sử dụng với sai sót trong kỹ thuật sử dụng MDI
(p<0,05). Kết quả phân tích trong nghiên cứu cho
thấy, người bệnh sử dụng một loại thuốc hít có tỷ lệ
sai sót cao so với nhóm sử dụng cả hai loại. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Joshua Batterink
và cs (2012), nghiên cứu đã chỉ ra người bệnh
dùng các bình xịt định liều (MDI) thường gặp sai
sót hơn so với các dụng cụ khác như Turbuhaler
hay Handihaler [5]. Điều này cũng dễ hiểu vì người
bệnh sử dụng cả hai loại thuốc hít khi đã có kinh
nghiệm trong việc sử dụng một loại thuốc nên việc
sử dụng thuốc còn lại sẽ thuận lợi hơn. Hơn nữa, họ
được hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc nhiều hơn
nên đây là yếu tố thuận lợi giúp cho người bệnh
trong quá trình sử dụng thuốc.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít của người bệnh mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại bệnh viện C Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật sử dụng...
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KỸ THUẬT SỬ DỤNG
CÁC THUỐC DẠNG HÍT CỦA NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH PHỔI TẮC
NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN C ĐÀ NẴNG
Phan Thị Tâm1, Nguyễn Thị Thu Triều1
DOI: 10.38103/jcmhch.2020.63.14
TÓM TẮT
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ mắc sai sót theo mức kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít và các yếu tố liên
quan đến sai sót trong kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít.
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thu thập số liệu bằng cách quan sát trực tiếp
170 người bệnh COPD thực hiện kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện C Đà
Nẵng từ tháng 01/2019 đến tháng 05/2019.
Kết quả: Người bệnh có kỹ thuật kém và không biết kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít chiếm tỷ lệ
77,1% với thuốc dạng hít MDI và 70,5% với thuốc dạng hít DPT. Tuổi, thời gian mắc bệnh, thời gian tham
gia câu lạc bộ Hen và COPD, mức độ tắc nghẽn đường thở, thuốc hít đang sử dụng có liên quan đến sai
sót trong kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Bệnh viện cần duy trì thường xuyên các buổi sinh hoạt câu lạc bộ Hen phế quản và COPD, tổ
chức gặp gỡ, nói chuyện và hướng dẫn kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít cho người bệnh và người nhà.
Cán bộ y tế khi hướng dẫn người bệnh sử dụng các dụng cụ dạng hít cần thực hiện thao tác chậm và giải
thích rõ ràng trên mô hình cho người bệnh quan sát và sử dụng bảng kiểm để đánh giá mức độ sử dụng
các dụng cụ hít của người bệnh.
ABSTRACT
RESEARCH FACTORS RELATED TO TECHNIQUES FOR USING OF
INHALED DRUGS OF PATIENTS TREATING CHRONIC OBSTRUCTIVE
PULMONARY DISEASE (COPD) AT C HOSPITAL
Phan Thi Tam1, Nguyen Thi Thu Trieu1
Objective: To determine the rate of wrong - using of inhaled drugs and factors related to the techniques.
Methods: This was a descriptive study. Researchers observed and collected data from a group of
170 patients who were using inhaled drugs to treat chronic obstructive pulmonary disease (COPD) at the
Examination Department of C Hospital from January to May 2019.
Results: The number of patients who had a poor technique and were unknown how to use inhaled drugs
accounted for 77.1% for MDI inhalers and 70.5% for DPT inhalers perspectively. There was a statistical
significance between age, the period of illness, duration of joining the Asthma and COPD club, level of
airway obstruction, prescription, and errors in the techniques for using inhaled drugs.
1. Trường Đại học Kỹ thuật
Y – Dược Đà Nẵng
- Ngày nhận bài (Received): 12/5/2020; Ngày phản biện (Revised): 30/05/2020;
- Ngày đăng bài (Accepted): 01/07/2020
- Người phản hồi (Corresponding author): Nguyễn Thị Thu Triều
- Email: nguyenthithutrieu@dhktyduocdn.edu.vn; ĐT: 0932522 805
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 91
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong các khuyến cáo điều trị COPD giai đoạn
ổn định, các thuốc dạng hít được ưu tiên sử dụng.
Việc sử dụng các thuốc dạng hít giúp đưa trực tiếp
thuốc vào đường dẫn khí, cho tác dụng tại chỗ, do
đó giúp nâng cao hiệu quả điều trị và giảm các tác
dụng không mong muốn [4]. Trên thế giới đã có
nhiều nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kỹ
thuật sử dụng các dụng cụ hít trên người bệnh, kết
quả đã cho thấy, tỷ lệ mắc sai sót trong kỹ thuật
sử dụng các dạng thuốc hít hiện nay rất phổ biến,
có thể lên đến 90%. Sai sót này ảnh hưởng nghiêm
trọng đến hiệu quả điều trị của phác đồ thuốc dạng
hít [3],[7]. Tại Việt Nam, cho đến nay chỉ có vài
nghiên cứu công bố về thực trạng sử dụng các thuốc
dạng hít và các yếu tố liên quan đến sử dụng thuốc.
Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường kết hợp với
việc tuân thủ với dùng thuốc của người bệnh [2],[1].
Xuất phát từ những thực tế đó, chúng tôi thực hiện
đề tài “Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ
thuật sử dụng các thuốc dạng hít của người bệnh
mắc Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính - Bệnh viện C
Đà Nẵng” với 2 mục tiêu: Xác định tỷ lệ mắc sai sót
theo mức kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít và các
yếu tố liên quan đến sai sót trong kỹ thuật sử dụng
các thuốc dạng hít.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Những người bệnh được tuyển chọn bằng
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản thoả
mãn các tiêu chí: Đã được chẩn đoán xác định
COPD; Tham gia vào câu lạc bộ Hen phế quản và
COPD ít nhất 1 tháng; Đang được sử dụng các dụng
cụ dạng hít; Người bệnh có thể nghe, hiểu, nói được
bằng Tiếng Việt, không mắc các bệnh lý về tâm thần
kinh và đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại
trừ: Người bệnh không thể tự sử dụng các dụng cụ
dạng hít và không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2019 đến tháng
05/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu của nghiên
cứu là 170 đối tượng.
Bộ câu hỏi của nghiên cứu:
+ Bộ câu hỏi thông tin cơ bản về đối tượng tham
gia: được thiết kế bởi tác giả
+ Bộ câu hỏi về kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng
hít: Sử dụng bảng kiểm của tác giả Nguyễn Hoài
Thu (2016) [2]. Gồm hai bảng kiểm:
++ Bảng kiểm bình xịt định liều MDI gồm 8
bước, trong đó có 5 bước quan trọng.
++ Bảng kiểm dụng cụ bình hít bột khô DPI gồm
có 8 bước, trong đó có 6 bước quan trọng.
Mỗi bước thực hiện đúng được đánh giá là “Có”,
thực hiện sai là “Không”. Có 4 mức độ kỹ thuật: Từ
không biết cách dùng đến kỹ thuật tối ưu.
Bảng 1: Phân loại mức kỹ thuật sử dụng
dụng cụ hít của người bệnh
Mức độ sử dụng Định nghĩa
Không biết cách
dùng
Người bệnh sử dụng sai tất
cả các bước quan trọng hoặc
trả lời tôi không biết cách sử
dụng
Kỹ thuật kém
Thực hiện sai ít nhất một bước
quan trọng
Kỹ thuật vừa đủ
Thực hiện đúng tất cả các
bước quan trọng nhưng không
thực hiện đầy đủ các bước
trong quy trình
Kỹ thuật tối ưu
Đúng tất cả các bước như
bảng kiểm
Phương pháp phân tích số liệu: SPSS 23 được
sử dụng để phân tích số liệu với độ tin cậy 0,05. Sử
dụng test kiểm định Chi-Square và khoảng tin cậy
95% để tìm mối liên quan giữa các yếu tố với mức
độ sai sót trong kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít.
Conclusions: The hospital needs to maintain asthma and COPD club activities regularly to share and instruct
face-to-face about the techniques of using inhaled drugs for patients and their relatives. When instructing the
patient to use inhaled devices, medical staff should perform slowly and explain clearly on the model for patients
observing, together with using a checklist to assess a skill level of the patients when they use the devices.
92 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật sử dụng...
III. KẾT QUẢ
Bảng 2: Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Tuổi:
50-70 tuổi
> 70 tuổi
n (%)
34,7
65,3
Giới:
Nam
Nữ
91,8
8,2
Thời gian tham gia câu lạc bộ Hen và COPD:
< 1 năm
1-3 năm
>3 năm
34,1
45,9
20,0
Thời gian mắc bệnh:
< 5 năm
5-10 năm
>10 năm
10,0
52,9
37,1
Mức độ tắc nghẽn đường thở:
Giai đoạn I
Giai đoạn II
Giai đoạn III
Giai đoạn IV
4.1
48.2
38.8
8.8
Thuốc hít đang sử dụng:
Chỉ dùng MDI
Dùng MDI+ DPI
44,1
55,9
Bảng 3: Tỷ lệ mắc sai sót theo mức kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít
Mức kỹ thuật sử dụng
các thuốc dạng hít
MDI DPI
(n=170) % (n=95) %
Kỹ thuật tối ưu 29 17,0 20 21,1
Kỹ thuật vừa đủ 10 5,9 8 8,4
Kỹ thuật kém 129 75,9 65 68,4
Không biết cách sử dụng 2 1,2 2 2,1
Do đặc điểm tại Bệnh viện C Đà Nẵng, phần lớn người bệnh sử dụng bình xịt định liều MDI, nhóm bệnh
dùng bình hít bột khô DPI trong nghiên cứu nhỏ. Nên nghiên cứu chỉ thực hiện phân tích hồi quy với kỹ
thuật sử dụng bình xịt định liều MDI.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 93
Bảng 4: Mối liên quan giữa tuổi, thời gian mắc bệnh, thời gian tham gia câu lạc bộ Hen và COPD,
mức độ tắc nghẽn đường thở, thuốc dạng hít đang sử dụng với sai sót trong kỹ thuật sử dụng MDI
Biến
Không sai sót
n (%)
Sai sót
n (%)
p
Nhóm tuổi
50-70 tuổi 29 (49,2) 30 (50,8)
70 tuổi 10 (9,0) 101 (91,0)
Tổng 39 131
Thời gian mắc bệnh
<5 năm 6 (35,3) 11 (64,7)
<0,05
5-10 năm 29 (32,2) 61 (67,8)
>10 năm 4 (6,4) 59 (93,7)
Thời gian tham gia
câu lạc bộ Hen và
COPD
< 1 năm
1-3 năm
> 3 năm
1 (1,7)
9 (11,5)
29 (85,3)
57 (98,3)
69 (88,5)
5 (14,7)
<0,05
Mức độ
tắc nghẽn
Giai đoạn I 3 (42,9) 4 (57,1)
<0,05Giai đoạn II 29 (35,4) 53 (64,6)
Giai đoạn III 7 (10,6) 59 (89,4)
Giai đoạn IV 0 (0,0) 15 (100,0)
Thuốc hít đang sử
dụng
MDI 11 (14,7) 64 (85,3)
<0,05
Cả MDI+DPI 28 (29,5) 67 (70,5)
Tuổi, thời gian mắc bệnh, thời gian tham gia câu
lạc bộ Hen và COPD, mức độ tắc nghẽn đường thở,
thuốc hít đang sử dụng là các yếu tố có mối liên
quan có ý nghĩa thống kê đến sai sót trong kỹ thuật
sử dụng các thuốc dạng hít của người bệnh COPD
với p< 0,05.
IV. BÀN LUẬN
Tỷ lệ người bệnh mắc sai sót theo mức kỹ
thuật sử dụng các thuốc dạng hít
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy kỹ thuật
kém chiếm tỷ lệ khá cao đối với MDI và DPI lần
lượt là 75,5% và 68,9%. Kỹ thuật tối ưu với MDI
chiếm tỷ lệ 17% so với DPI là 21,1%. Kỹ thuật
vừa đủ với MDI chiếm tỷ lệ 5,9% ,với DPI chiếm
tỷ lệ 8,4%. Tỷ lệ người bệnh không biết cách sử
dụng chiếm tỷ khá tương đồng giữa 2 loại dụng
cụ với MDI là 1,2% so với DPI là 2,1%. Tác giả
Phạm Đình Ngự (2017) cũng cho thấy với MDI,
kỹ thuật kém chiếm tỷ lệ khá cao (78,33%) so
với DPI có kỹ thuật kém chiếm (79,31%) [1]. Kết
quả này tương đồng với nghiên cứu của Osman
A (2012) [6]. Qua đây, chúng tôi thấy cần tăng
cường hướng dẫn cách sử dụng dụng cụ hít để
cải thiện mức độ kỹ thuật cho người bệnh được
tốt hơn.
Mối liên quan giữa tuổi, thời gian mắc bệnh, thời
gian tham gia câu lạc bộ Hen và COPD, mức độ tắc
nghẽn đường thở, thuốc dạng hít đang sử dụng với
sai sót trong kỹ thuật sử dụng MDI.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nhóm
tuổi với sai sót trong kỹ thuật sử dụng MDI của đối
tượng nghiên cứu ( p < 0,05), đối tượng thuộc nhóm
tuổi càng lớn thì có tỷ lệ sai sót trong kỹ thuật sử
dụng thuốc càng cao. Kết quả này phù hợp với các
nghiên cứu: Piyush Aora (2014), nghiên cứu này chỉ
94 Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020
Bệnh viện Trung ương Huế Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến kỹ thuật sử dụng...
ra tỷ lệ mắc lỗi cao hơn ở nhóm đối tượng 51-60
tuổi so với nhóm đối tượng 15-20 tuổi [7]. Nghiên
cứu của Nguyễn Hoài Thu (2016) cho thấy, người
bệnh có tuổi cao hơn kỹ thuật sử dụng thuốc kém
hơn người bệnh trẻ tuổi [2].
Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian mắc bệnh
có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với sai sót trong
kỹ thuật sử dụng MDI (p < 0,05), người bệnh có thời
gian mắc bệnh càng lâu thì kỹ thuật sử dụng MDI
kém hơn so với người bệnh mới mắc bệnh. Điều này
cũng dễ hiểu vì những người bệnh có thời gian mắc
bệnh trên 10 năm thuộc nhóm đối tượng trên 70 tuổi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ người bệnh
tham gia câu lạc bộ Hen phế quản và COPD từ 1-3
năm chiếm tỷ lệ 45,9%, tham gia trên 3 năm chiếm
tỷ lệ 20%. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu
của Nguyễn Hoài Thu (2016), người bệnh tham gia
chương trình từ 1-3 năm chiếm tỷ lệ 43,6%; tham
gia từ 3 đến 5 năm là 26,1% [2]. Qua đây cho thấy
hầu hết đối tượng có thời gian mắc bệnh tương đối
dài nhưng tỷ lệ đối tượng tham gia nghiên cứu có ý
thức tham gia câu lạc bộ và theo dõi tình trạng sức
khoẻ của bản thân trên 3 năm tương đối thấp. Vì
vậy, phòng quản lý COPD cần đẩy mạnh công tác
truyền thông, giáo dục sức khỏe nhằm khuyến khích
người bệnh tích cực tham gia hoạt động câu lạc bộ.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa mức
độ tắc nghẽn với sai sót trong kỹ thuật sử dụng
MDI (p < 0,05). Chúng tôi chưa tìm được y văn
về mối liên quan này. Điều này được giải thích là
trong số người bệnh có mức độ tắc nghẽn nhẹ, họ
có ý thức về tình trạng bệnh của mình hơn, mong
muốn tình trạng bệnh cải thiện và trở về trạng thái
bình thường, ngoài ra những người bệnh này có thời
gian mắc bệnh ngắn hơn so với nhóm có mức độ tắc
nghẽn nặng.
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa thuốc
hít sử dụng với sai sót trong kỹ thuật sử dụng MDI
(p<0,05). Kết quả phân tích trong nghiên cứu cho
thấy, người bệnh sử dụng một loại thuốc hít có tỷ lệ
sai sót cao so với nhóm sử dụng cả hai loại. Kết quả
này phù hợp với nghiên cứu của Joshua Batterink
và cs (2012), nghiên cứu đã chỉ ra người bệnh
dùng các bình xịt định liều (MDI) thường gặp sai
sót hơn so với các dụng cụ khác như Turbuhaler
hay Handihaler [5]. Điều này cũng dễ hiểu vì người
bệnh sử dụng cả hai loại thuốc hít khi đã có kinh
nghiệm trong việc sử dụng một loại thuốc nên việc
sử dụng thuốc còn lại sẽ thuận lợi hơn. Hơn nữa, họ
được hướng dẫn kỹ thuật sử dụng thuốc nhiều hơn
nên đây là yếu tố thuận lợi giúp cho người bệnh
trong quá trình sử dụng thuốc.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả từ số liệu của nghiên cứu này chỉ ra rằng
người bệnh có kỹ thuật kém và không biết kỹ thuật
sử dụng các thuốc dạng hít chiếm tỷ lệ 77,1% với
thuốc dạng hít MDI và 70,5% với thuốc dạng hít
DPT. Tuổi, thời gian mắc bệnh, thời gian tham gia
câu lạc bộ Hen và COPD, mức độ tắc nghẽn đường
thở, thuốc hít đang sử dụng có liên quan đến sai sót
trong kỹ thuật sử dụng các thuốc dạng hít, sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê. Từ đó kiến nghị tại Bệnh
viện cần duy trì thường xuyên các buổi sinh hoạt
câu lạc bộ Hen phế quản và COPD, tổ chức gặp
gỡ, nói chuyện và hướng dẫn kỹ thuật sử dụng các
thuốc dạng hít cho người bệnh và người nhà. Cán bộ
y tế khi hướng dẫn người bệnh sử dụng các dụng cụ
dạng hít cần thực hiện thao tác chậm và giải thích
rõ ràng trên mô hình cho người bệnh quan sát và sử
dụng bảng kiểm để đánh giá mức độ sử dụng các
dụng cụ hít của người bệnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Đình Ngự (2017), “Khảo sát thực trạng
sử dụng thuốc điều trị đợt cấp COPD và đánh
giá kỹ thuật sử dụng thuốc hít tại Bệnh viện Đa
khoa Tứ Kỳ - Hải Dương”, Luận văn thạc sĩ
dược học, Trường Đại học Dược Hà Nội.
2. Nguyễn Hoài Thu (2016), Đánh giá tuân thủ
điều trị và kỹ thuật sử dụng các dạng thuốc hít
trên bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
tại Bệnh viện Bạch Mai, Luận văn thạc sĩ dược
học, Trường Đại học Dược Hà Nội.
Bệnh viện Trung ương Huế
Tạp Chí Y Học Lâm Sàng - Số 63/2020 95
3. Andrea S. Melani, Marco Bonavia, Vincenzo
Cilenti, Cristina Cinti, Marco Lodi, Paola
Martucci, Maria Serra, Nicola Scichilone,
Piersante Sestini, Maria Aliani, Margherita Neri
(2011), “Inhaler mishandling remains common
in real life and is associated with reduced
disease control”, RespiratoryMedicine, 105 (6),
930-938.
4. DiPiro J. T. et al. (2014), Pharmacotherapy 9th:
A Pathophysiologic Approach Mc Graw-Hill
Education, 109 (5), 1516-1624.
5. Joshua Batterink et al (2012), “Evaluation of
the Use of Inhaled Medications by Hospital
Inpatients with Chronic Obstructive Pulmonary
Disease”, Can JHosp Pharm, 65 (2), 111-118.
6. Osman A. Ahmed Hassan I. S., Ibrahim M. I.,
(2012), “Are Sudanese community pharmacists
capable to prescribe and demonstrate asthma
inhaler devices to patrons? A mystery patient
study”, Pharm Pract (Granada), 10(2), 110-115.
7. Piyush Arora (2014), “Evaluating the technique
of using inhalation device in COPD and
Bronchial Asthma patients”, Respiratory
Medicine, 108 (3), 992-998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_cac_yeu_to_anh_huong_den_ky_thuat_su_dung_cac_thu.pdf