Mối tương quan giữa nồng độ amylase,
lipase máu và nồng độ đường máu, lipid máu
Theo Bảng 3.9 và 3.10 cho thấy không có mối tương
quan giữa nồng độ amylase máu với cholesterol toàn
phần, triglycerid và HDL-c, chỉ có nồng độ amylase máu
và LDL-c có sự tương quan yếu với r = 0,303 (có ý nghĩa
thống kê p < 0,05). Nồng độ lipase máu không có mối
tương quan với cholesterol toàn phần, triglycerid và
HDL-c, chỉ có nồng độ lipase máu và LDL-c có sự tương
quan yếu với r = 0,257 (có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
Theo nghiên cứu của tác giả Ni và cs trên 48 bệnh nhân
cho thấy có sự tương quan giữa nồng độ amylase máu
và nồng độ LDL-c (r = 0,414 và p < 0,05), trong khi đó
có mối tương quan giữa nồng độ amylase niệu và nồng
độ triglycerid và LDL-c (r = 0,614, r = 0,678 và p< 0,001)
[14]. Theo các tác giả trên thế giới LDL-c là cơ chất chính
mang cholesterol vào thành động mạch và các biến
đổi nội mạch đưa đến tình trạng tăng LDL-c trong
máu là do quá trình viêm mạn tính. Quá trình viêm
mạn tính gây nên các tổn thương tế bào tuyến tụy
đưa đến enzyme amylase được thẩm thấu vào máu
và đây là lý do có sự tương quan giữa tăng nồng
độ LDL-c với amylase, lipase máu. Các nghiên cứu
đã cho thấy có sự tương quan giữa tăng nồng độ
triglyceride và LDL-c với amylase máu. Theo nghiên
cứu của Yadav trên các bệnh nhân đái tháo đường
cho thấy những bệnh nhân có nồng độ HDL-c thấp có
mối tương quan với nồng độ amylase máu thấp, theo
nghiên cứu của Yingjie trên các bệnh nhân viêm tụy
cấp do tăng lipid máu cho thấy nồng độ triglyceride
không có mối tương quan với nồng độ amylase máu
[14], [16]. Tuy nhiên đây là những nghiên cứu ban
đầu với số lượng bệnh nhân không cao về mối tương
quan giữa amylase, lipase máu với nồng độ đường
máu và bilant lipid nên cần có các nghiên cứu trên số
lượng mẫu lớn hơn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 30 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các yếu tố nguy cơ, đặc điểm lâm sàng và hóa sinh ở bệnh nhân viêm tụy mạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ, ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG
VÀ HÓA SINH Ở BỆNH NHÂN VIÊM TỤY MẠN
Vĩnh Khánh1, Trần Văn Huy2
(1) Trung tâm Nội soi Tiêu hóa – Trường Đại học Y Dược Huế
(2) Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược Huế
Đặt vấn đề: Viêm tụy mạn là bệnh lý đặc trưng bởi tình trạng viêm tiến triển mạn tính gây tổn thương,
hoại tử và xơ hóa các nhu mô tụy làm thay đổi cấu trúc, rối loạn chức năng về nội và ngoại tiết của tuyến tụy.
Để chẩn đoán viêm tụy mạn thường dựa vào tiền sử, triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng và các dấu hiệu về
hình thái học. Phương pháp, đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 47 bệnh nhân được
chẩn đoán viêm tụy mạn dựa vào tiêu chuẩn Rosemont trên siêu âm nội soi. Kết quả: Tỷ lệ mắc bệnh ở nam
cao hơn nữ (37/10) và thường gặp ở độ tuổi 41 - 60 chiếm 65,9%. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử lạm dụng rượu
chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,3%. Đa số bệnh nhân đều có triệu chứng đau bụng khi vào viện chiếm 100%, nôn
và buồn nôn chiếm 53,1%. Vị trí đau chủ yếu ở vùng thượng vị chiếm 93,6%. Đau lan ra sau lưng chiếm 21,3%.
Nồng độ amylase máu tăng chiếm 57,5%, nồng độ lipase máu tăng 68,1%. Tỷ lệ bệnh nhân tăng glucose máu
chiếm 34,1%, tăng cholesterol toàn phần chiếm 12,8%, tăng triglycerid chiếm 29,8%, tăng LDL-c chiếm 19,2%
và nồng độ HDL-c thấp hơn 0,9 mmol/L chiếm 38,3%. Có sự tương quan giữa nồng độ amylase và lipase với
LDL-c (r = 0,303, r = 0,257 với p < 0,05). Kết luận: Rượu là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất. Triệu chứng đau
bụng là hằng định trong khi tăng amylase máu chỉ gặp ở 57,5% bệnh nhân.
Từ khóa: viêm tụy mạn, yếu tố nguy cơ.
Abstract
STUDY ON RISK FACTORS, CLINICAL AND BIOCHEMICAL
CHARACTERISTICS OF PATIENTS WITH CHRONIC PANCREATITIS
Vinh Khanh1, Tran Van Huy2
(1) Hue University Hospital
(2) Dept. of Internal Medicine, Hue University of Medicine and Pharmacy
Background: Chronic pancreatitis is a chronic, progressive, irreversible benign inflammatory process,
resulting in structural changes with disorders of functional exocrine and endocrine parenchyma by a fibrotic and
inflammatory tissue. Based on clinical characteristics and morphology to diagnose chronic pancreatitis. Subjects
and methods: A cross-sectional study was conducted on 47 patients with chronic pancreatitis diagnosed based
on Rosemont Criteria in endoscopic ultrasound. Results: The prevalence of male was higher than female (37/10)
and most common in the age group of 41 - 60 about 65.9%. The prevalence of patients with a history of alcohol
abuse was highest with 55.3%. The clinical characteristics of patients with chronic pancreatitis: abdominal pain
is 100%, nausea and vomiting are 53.1%. The location of pain in the upper abdominal pain is 93.6%. Severe back
pain is 21.3%. About biochemical characteristics, an increase of amylase about 57.5%, lipase about 68.1%, diabetes
mellitus about 34.1%, cholesterol about 12.8%, triglycerid about 29.8%, LDL-c about 19.2% and HDL-c lower
than 0.9 mmol/L about 38.3%. The results showed that the amylase, lipase and LDL-c levels indicated a positive
correlation (r = 0.303, r = 0.257 and p < 0.05). Conclusions: Alcohol was the most important risk factors. Abdominal
pain was constant while hyperamylasemia was found only in 57.5% patients.
Key words: chronic pancreatitis, risk factors.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm tụy mạn là bệnh lý đặc trưng bởi tình
trạng viêm tiến triển gây tổn thương, hoại tử và xơ
hóa các nhu mô tụy dẫn đến thay đổi cấu trúc và
rối loạn chức năng về nội và ngoại tiết của tuyến
tụy [15]. Các yếu tố nguy cơ của viêm tụy bao gồm
các yếu tố như rượu, thuốc lá, chế độ ăn, các yếu
tố về di truyền, hẹp ống tụy và miễn dịch. Bệnh tiến
triển âm thầm, không có triệu chứng lâm sàng đặc
hiệu, triệu chứng nghèo nàn, dễ bỏ sót khi thăm
Địa chỉ liên hệ: Trần Văn Huy, email: bstranvanhuy@gmail.com
Ngày nhận bài: 10/3/2018, Ngày đồng ý đăng: 5/4/2018; Ngày xuất bản: 27/4/2018
91
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
khám lâm sàng. Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán xác
định bệnh viêm tụy mạn là mô bệnh học nhưng
khó thực hiện trên thực hành lâm sàng. Hiện nay,
chẩn đoán và theo dõi tiến triển của viêm tụy mạn
đòi hỏi sự kết hợp của nhiều phương pháp khác
nhau như: khám lâm sàng, hỏi bệnh sử, đánh giá
các biến đổi về hóa sinh và hình thái học. Triệu
chứng lâm sàng của viêm tụy mạn thường tiến
triển âm thầm, không có triệu chứng lâm sàng đặc
hiệu, nghèo nàn và dễ bỏ sót. Còn biến đổi hóa
sinh trên bệnh nhân viêm tụy mạn chỉ nổi bật ở
giai đoạn cấp của viêm tụy mạn còn ngoài đợt cấp
không đặc hiệu[9]. Vì vậy nhằm góp phần khảo sát
các yếu tố nguy cơ cũng như triệu chứng lâm sàng
và biến đổi hóa sinh ở bệnh nhân viêm tụy mạn.
Chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu các yếu tố
nguy cơ, đặc điểm lâm sàng và biến đổi hóa sinh
ở bệnh nhân viêm tụy mạn” nhằm 2 mục tiêu:
1. Tìm hiểu các yếu tố nguy cơ liên quan đến
bệnh lý viêm tụy mạn.
2. Mô tả đặc điểm lâm sàng, biến đổi hóa sinh ở
bệnh nhân viêm tụy mạn
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên 47 bệnh nhân được chẩn đoán viêm tụy mạn
tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân được chẩn đoán viêm tụy mạn dựa trên:
- Tiền sử có các yếu tố liên quan: lạm dụng rượu,
đau bụng tái diễn, viêm tụy cấp tái phát...
- Triệu chứng lâm sàng: có hoặc không có các
triệu chứng như đau bụng, sụt cân, tiêu chảy hoặc
đại tiện phân mỡ, viêm tụy cấp tái diễn..
- Chẩn đoán xác định dựa vào tiêu chuẩn Rosemont
trên siêu âm- nội soi.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân có hình ảnh ung thư tụy hoặc viêm
tụy mạn kèm theo ung thư tụy trên cắt lớp vi tính
hoặc siêu âm nội soi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
2.2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu:
Tất cả bệnh nhân được hỏi tiền sử, bệnh sử,
khám lâm sàng, cận lâm sàng và phát hiện các dấu
chứng nghĩ đến viêm tụy mạn.
2.2.3. Các biến số nghiên cứu
2.2.3.1. Đặc điểm chung
Tuổi, giới, nghề nghiệp.
Tiền sử: viêm tụy cấp, đái tháo đường, uống
rượu nhiều (80g/ngày), bệnh lý đường mật, viêm
tụy cấp và các bệnh lý khác.
2.2.3.2. Các đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng cơ năng: đau bụng, (tái phát nhiều
đợt, vị trí đau, tính chất đau, hướng lan, yếu tố giảm
đau), buồn nôn và nôn, sút cân, tiêu chảy hoặc đi
cầu phân mỡ.
Triệu chứng thực thể: ấn các điểm đau tụy
2.2.3.3. Các xét nghiệm hóa sinh
Các xét nghiệm Amylase: 28 - 100 (U/L), Lipase: 13
- 60 (U/L), Glucose: 4,11 - 6,05 (mmol/l), HbA1c: 4,8
- 5,9 (%), Cholesterol: < 5,2 (mmol/L), Triglyceride: <
2,26 (mmol/L), LDL-c: 0,9
(mmol/L).
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Xử lý kết quả bằng phần mềm Epitable thuộc
chương trình EPI - INFO 6.0 của WHO.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung về tuổi và giới
Bảng 3.1. Đặc điểm chung về tuổi và giới
Giới
Nhóm
tuổi
Nam Nữ Tổng
n % n % n %
< 20 0 0 1 10 1 2,1
21 - 40 6 16,2 2 2 8 17,1
41 - 60 27 73 4 4 31 65,9
60 - 80 4 10,8 3 3 7 14,9
Tổng 37 100,0 10 100,0 47 100,0
Nhận xét: Đối tượng mắc bệnh tập trung nhiều
nhất ở nhóm tuổi 41- 60 chung cho cả 2 giới với tỷ
lệ 65,9%. Về giới tỷ lệ mắc bệnh ở nam chiếm 78,7%
cao hơn nữ chiếm 21,3%.
3.2. Các yếu tố nguy cơ
3.2.1. Tiền sử của bệnh nhân liên quan đến
viêm tụy mạn
Bảng 3.2. Tiền sử bệnh nhân
Tiền sử
Số bệnh nhân
(n = 47 )
Tỷ lệ %
Nghiện rượu 26 55,3
Hút thuốc lá 20 42,5
Viêm tụy cấp 18 38,2
Bệnh lý đường mật 4 8,5
Đái tháo đường 7 14,8
Nhận xét: Bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu
chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,3% tiếp đến là hút thuốc
lá chiếm khoảng 42,5%.
92
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.2.2. Thời gian uống rượu
Bảng 3.3. Thời gian uống rượu
Thời gian uống rượu Số bệnh nhân Tỷ lệ %
Không uống rượu 19 40,6
< 5 năm 2 4,3
5 – 10 năm 3 6,4
10 – 15 năm 5 10,4
> 15 năm 18 38,3
Tổng 47 100,0
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân uống rượu trên 15 năm
chiếm 38,3%, tiếp đến là từ 5 - 10 năm chiếm 10,4% và
tỷ lệ bệnh nhân không uống rượu chiếm 40,6%.
3.2.3. Thời gian hút thuốc lá
Bảng 3.4. Thời gian hút thuốc lá
Thời gian hút thuốc lá Số bệnh nhân Tỷ lệ
Không hút thuốc lá 21 44,7
< 20 gói/năm 21 44,7
> 20 gói/năm 5 10,6
Tổng 47 100,0
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân hút thuốc lá > 20
gói/năm chiếm tỷ lệ 10,6% và nhóm bệnh nhân hút
thuốc lá < 20 gói/năm chiếm tỷ lệ 44,7% và không
hút thuốc lá 44,7%.
3.3. Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
3.3.1. Triệu chứng lâm sàng
Bảng 3.5. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng Số BN Tỷ lệ %
Đau bụng 47 100,0
Nôn hoặc buồn nôn 25 53,1
Sụt cân 3 6,3
Tiêu chảy hoặc đại tiện
phân mỡ
6 12,7
Vàng da 1 2,1
Ấn đau các điểm đau tụy 27 57,4
Nhận xét: Đa số bệnh nhân đều có triệu chứng
đau bụng khi vào viện chiếm 100%, tiếp đến là nôn
và buồn nôn chiếm 53,1% và thấp nhất là triệu
chứng vàng da chiếm 2,1%.
3.3.2. Đặc điểm của triệu chứng đau
Bảng 3.6. Đặc điểm của triệu chứng đau
Đặc điểm đau
Số bệnh
nhân
Tỷ lệ
Vị trí
đau
Thượng vị 44 93,6
Hạ sườn trái 10 21,2
Quanh rốn 1 2,1
Khác 0 0
Hướng
lan
Không lan 35 74,5
Lan ra sau lưng 10 21,3
Lan lên ngực 1 2,1
Khác 1 2,1
Tính
chất
đau
Âm ỉ, liên tục 45 90,5
Dữ dội, từng cơn 20 42,5
Yếu
tố
tăng
đau
Sau ăn dầu mỡ 6 12,7
Sau uống rượu 1 2,1
Không có 40 85,2
Khác 0 0
Yếu
tố
giảm
đau
Tư thế cò súng 11 23,4
Không có 36 76,6
Nhận xét: Vị trí đau chủ yếu ở vùng thượng vị
chiếm 93,6%. Đau chủ yếu là không lan 74,5% và lan
ra sau lưng chiếm 21,3%. Tính chất đau âm ỉ, liên tục
chiếm đa số 90,5% và dữ dội hoặc từng cơn chiếm
42,5%. Yếu tố tăng đau sau ăn dầu mỡ và uống rượu
chiếm 14,8% và tỷ lệ bệnh nhân có tư thế giảm đau
cò súng chiếm 23,4%.
3.3.3. Biến đổi nồng độ amylase và lipase máu
Bảng 3.7.Biến đổi nồng độ amylase và lipase máu
Xét
nghiệm
Số BN
Bình
thường
Tăng
n % n %
Amylase 47 20 42,5 27 57,5
Lipase 47 15 31,9 32 68,1
Nhận xét: Nồng độ amylase máu tăng chiếm
57,5%, nồng độ lipase máu tăng 68,1%
3.3.4. Biến đổi đường máu và lipid máu
Bảng 3.8. Đường máu và bilant lipid máu
Xét nghiệm Số BN
Bình thường Tăng
n % n %
Đường máu 47 31 65,9 16 34,1
Cholesterol
toàn phần
47 41 87,2 6 12,8
Triglycerid 47 33 70,2 14 29,8
LDL-c 47 38 80,8 9 19,2
HDL-c 47 29 61,7 18 38,3
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân tăng đường máu chiếm
tỷ lệ 34,1%, tăng cholesterol toàn phần chiếm 12,8%,
tăng triglycerid chiếm 29,8%, tăng LDL-c chiếm 19,2%
và nồng độ HDL-c thấp hơn 0,9 mmol/L chiếm 38,3%.
93
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.3.5. Tương quan giữa nồng độ amylase máu
và nồng độ lipid máu
Bảng 3.9. Tương quan giữa nồng amylase máu
và nồng độ lipid máu
Xét nghiệm
Amylase máu
r p
Cholesterol
toàn phần
0,053 0,722
Triglycerid -0,038 0,796
LDL-c 0,303 0,038
HDL-c 0,038 0,798
Nhận xét: Không có mối tương quan giữa
nồng độ amylase máu với cholesterol toàn phần,
triglycerid và HDL-c. Chỉ có nồng độ amylase máu
và LDL-c có sự tương quan yếu với r = 0,303 và có ý
nghĩa thống kê p < 0,05.
3.3.6. Tương quan giữa lipase máu và nồng độ
lipid máu
Bảng 3.10. Tương quan giữa nồng độ lipase máu
và nồng độ lipid máu
Xét nghiệm
Lipase máu
r p
Cholesterol
toàn phần
0,11 0,458
Triglycerid 0,05 0,733
LDL-c 0,257 0,08
HDL-c - 0,138 0,353
Nhận xét: Không có mối tương quan giữa nồng độ
lipase máu với cholesterol toàn phần, triglycerid và
HDL-c. Chỉ có nồng độ lipase máu và LDL-c có sự tương
quan yếu với r = 0,257 và có ý nghĩa thống kê p < 0,05.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của mẫu nghiên cứu
Trong nghiên cứu của chúng tôi ở Bảng 3.1 cho
thấy đối tượng mắc bệnh tập trung nhiều nhất ở
nhóm tuổi 41 - 60 chung cho cả 2 giới với tỷ lệ 65,9%.
Về giới tỷ lệ mắc bệnh ở nam chiếm 78,7% cao hơn nữ
chiếm 21,3%. Theo báo cáo tổng hợp của tác giả Lê
Văn Cường năm 2010 nghiên cứu trên 61 bệnh nhân
viêm tụy mạn được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện
Bình Dân từ 1994 - 2009 có tỷ lệ nam/nữ là 46/15
và độ tuổi trung bình 37,05 [1]. Theo báo cáo tổng
hợp của tác giả Machicado về dịch tễ học của bệnh lý
viêm tụy mạn dựa trên các nghiên cứu trên thế giới
cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nam lớn hơn nữ và tỷ lệ
mắc bệnh cao nhất vẫn là ở độ tuổi trung niên [13].
Từ những kết quả nghiên cứu cho thấy, bệnh nhân
viêm tụy mạn đa số là ở tuổi trung niên, điều này có
thể giải thích vì đây là độ tuổi có số người uống rượu
nhiều nhất. Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có mối
tương quan giữa số lượng và thời gian uống rượu với
nguy cơ mắc bệnh viêm tụy mạn, khoảng thời gian
này thường là 6 - 12 năm. Qua các nghiên cứu cũng
cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ở nam lớn hơn nữ có sự khác
biệt là do tỷ lệ sử dụng rượu ở nam nhiều hơn nữ và
rượu được xem là nguyên nhân chính gây nên bệnh
lý viêm tụy mạn.
4.2. Các yếu tố nguy cơ
Theo Bảng 3.2, số bệnh nhân có tiền sử lạm dụng
rượu chiếm tỷ lệ cao nhất với 55,3%, tiếp đến là hút
thuốc lá 42,5%, viêm tụy cấp chiếm 38,2% và tiền sử
đái tháo đường là 14,8%. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tương tự tác giả Nguyễn Anh Tuấn (2010)
trên 32 bệnh nhân có chỉ định phẫu thuật nối tụy
- ruột đơn thuần điều trị viêm tụy mạn từ 2006 -
2010 tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 cho
thấy bệnh nhân có tiền sử nghiện rượu chiếm 53,1%
(250 - 750ml/ngày), 9,4% có tiền sử viêm tụy cấp
và 18,6% có kết hợp đái tháo đường. Theo báo cáo
tổng hợp của tác giả Lê Văn Cường năm 2010 nghiên
cứu trên 61 bệnh nhân viêm tụy mạn được điều trị
phẫu thuật tại Bệnh viện Bình Dân từ 1994 - 2009
trong đó tỷ lệ nam/nữ là 46/15 và độ tuổi trung bình
là 37,05. Nguyên nhân liên quan đến viêm tụy mạn
do rượu chiếm tỷ lệ 47,5% và do thuốc lá 40,9% [1],
[4]. Theo Hội Tụy Hoa Kỳ, rượu là nguyên nhân độc
lập gây nên bệnh lý viêm tụy mạn chiếm tỷ lệ từ 44%
đến 65% các trường hợp. Tỷ lệ mắc bệnh viêm tụy
mạn ở người sử dụng rượu cao hơn so với người
bình thường từ 3 đến 6 lần [9]. Kết quả nghiên cứu
cho thấy sự phù hợp về các nguyên nhân gây bệnh,
trong đó rượu luôn là nguyên nhân hàng đầu gây nên
bệnh lý viêm tụy mạn. Hút thuốc lá cũng là một trong
những yếu tố nguy cơ của viêm tụy mạn, không chỉ
làm trầm trọng thêm các tác hại của rượu đối với
tụy mà thành phần nicotin trong thuốc lá và các chất
chuyển hóa đóng vai trò tiềm ẩn khởi phát bệnh.
Ngoài ra có một tỷ lệ không nhỏ bệnh nhân viêm tụy
mạn có tiền sử đái tháo đường, vậy nên cần thiết
phải làm các xét nghiệm tầm soát đái tháo đường ở
những bệnh nhân viêm tụy mạn [10]. Trong nghiên
cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân uống rượu trên
15 năm chiếm tỷ lệ 38,3%, từ 10 - 15 năm chiếm tỷ lệ
10,4% và tất cả các bệnh nhân này đều là nam giới.
Rượu là nguyên nhân chính gây nên bệnh lý viêm
tụy mạn vì vậy tỷ lệ bệnh nhân viêm tụy mạn có tỷ lệ
sử dụng rượu trên 15 năm chiếm tỷ lệ khá cao. Tỷ lệ
bệnh nhân hút thuốc lá trên 20 gói/năm chiếm tỷ lệ
10,6% và < 20 gói/năm chiếm tỷ lệ 44,7%. Thuốc lá
được xem là nguyên nhân gây nên bệnh lý viêm tụy
mạn, có sự liên quan giữa thời gian hút thuốc lá với
94
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
tỷ lệ mắc bệnh, tỷ lệ mắc bệnh tăng từ 2,4 lần đối với
những bệnh nhân hút thuốc là dưới 20 điếu/ngày và
tăng lên 3,3 lần đối với nhóm bệnh nhân hút hơn
20 điếu/ngày. Khi so sánh tỷ lệ nguy cơ mắc bệnh
thì nhóm có hút thuốc lá có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn
nhóm không hút thuốc lá 3 lần và khi ngưng thuốc
lá có khoảng 50% các trường hợp giảm tỷ lệ nguy cơ
mắc bệnh từ 2,4 xuống 1,4 so với nhóm vẫn tiếp tục
hút thuốc [6].
4.3. Đặc điểm lâm sàng và biến đổi hóa sinh ở
bệnh nhân viêm tụy mạn
4.3.1. Triệu chứng lâm sàng
Về triệu chứng lâm sàng, đau bụng là triệu chứng
hay gặp nhất chiếm 100%, nôn và buồn nôn chiếm
53,1%, ấn các điểm đau tụy chiếm 57,4%, tiêu chảy
và đi cầu phân mỡ chiếm 12,7% và thấp nhất là triệu
chứng vàng da chiếm 2,1%. Vị trí đau chủ yếu ở vùng
thượng vị, chiếm 93,6%. Đau chủ yếu là không lan
74,5% và lan ra sau lưng chiếm 21,3%. Tính chất đau
âm ỉ, liên tục chiếm đa số 90,5% và dữ dội hoặc từng
cơn chiếm 42,5%. Yếu tố tăng đau sau ăn dầu mỡ
và uống rượu chiếm 14,8% và tỷ lệ bệnh nhân có
tư thế giảm đau cò súng chiếm 23,4%. Năm 2000
tại Huế tác giả Trần Văn Huy và cs đã nghiên cứu về
bệnh nguyên và một số đặc điểm của viêm tụy mạn
tại Bệnh viện Trung ương Huế, nghiên cứu này đã
khái quát các nguyên nhân thường gặp của bệnh lý
viêm tụy mạn là do rượu chiếm 64%, bệnh cảnh lâm
sàng đa dạng và đau bụng là triệu chứng thường gặp
nhất (92%), có tư thế giảm đau ngoài các đợt cấp có
giá trị gợi ý chẩn đoán [3]. Theo Nguyễn Anh Tuấn
(2010) trên 32 bệnh nhân thì triệu chứng lâm sàng
nổi bật vẫn là đau chiếm 100% trong đó đau dữ dội
65,6%, đau âm ỉ nhưng dai dẵng 34,4%, đau lan ra
sau lưng chiếm 71,9% và có đến 91,9% bệnh nhân
phải dùng đến thuốc giảm đau, sụt cân chiếm tỷ lệ
84,4%, đi cầu phân lỏng 65% và 6,5% có biểu hiện
vàng da [4]. Theo báo cáo tổng hợp của tác giả Lê
Văn Cường năm 2010 nghiên cứu trên 61 bệnh nhân
viêm tụy mạn được điều trị phẫu thuật tại Bệnh viện
Bình Dân từ 1994 - 2009 trong đó triệu chứng lâm
sàng đau thượng vị chiếm 100% trong đó 22 trường
hợp đau kèm buồn nôn và 25/61 trường hợp đau
kèm chán ăn [1]. Triệu chứng đau trong viêm tụy
mạn là triệu chứng thường gặp và gây khó chịu cho
bệnh nhân, tuy nhiên đây là triệu chứng không đặc
hiệu. Các báo cáo trên thế giới cho thấy khoảng 20%
bệnh nhân có rối loạn chức năng nội và ngoại tiết
không xuất hiện triệu chứng đau trên lâm sàng [8].
4.3.2. Biến đổi nồng độ amylase và lipase máu
Theo Bảng 3.7 nồng độ amylase máu tăng chiếm
57,5%, nồng độ lipase máu tăng 68,1%. Theo nghiên
cứu Phạm Hoàng Hà và cs đã nghiên cứu chức tụy
ngoại tiết dựa vào đánh giá hoạt độ enzyme tụy ngoại
tiết trong máu và trong dịch tụy trên 40 bệnh nhân cho
thấy: giá trị trung bình nồng độ protease trong máu là
89,27 ± 57,1 nK/ml và trong dịch tụy là 107,29 ± 48,6
nK/ml, gía trị trung bình nồng độ amylase trong máu là
138,12±131,7 đơn vị/100 ml và trong dịch tụy 542,73
± 231,7 đơn vị/100ml, gía trị trung bình nồng độ lipase
trong máu là 11,88 ± 16,1 đơn vị Bondi và trong dịch tụy
51,65 ± 42,3 đơn vị Bondi [2]. Gần đây, tác giả Nguyễn
Văn Rư (2014) cũng tiến hành định lượng amylase và
lipase trong dịch tụy của 30 bệnh nhân viêm tụy mạn
tại Bệnh viện Việt Đức, kết quả nồng độ amylase trung
bình là 275,3 ± 158,7 đvA/100ml máu và 615,6 ± 111,6
đvA/100ml dịch tụy bệnh nhân viêm tụy mạn, tăng
so với người bình thường, nồng độ lipase trung bình
trong máu là 13,8 ± 9,8 đvB/100ml máu và 51,5 ± 50,5
đvB/100ml dịch tụy của bệnh nhân viêm tụy mạn,
giảm so với người bình thường [5]. Trong viêm tụy cấp
và đợt cấp viêm tụy mạn thì nồng độ amylase và lipase
luôn gia tăng khoảng 3 lần so với giới hạn trên bình
thường. Nồng độ lipase có giá trị hơn so với amylase
trong đánh giá mức độ nặng cũng như đặc hiệu hơn
trong chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên sự gia tăng nồng độ
các enzyme tụy không liên quan nhiều đến mức độ
nặng của bệnh và nồng độ enzyme lipase không có
giá trị trong chẩn đoán phân biệt viêm tụy cấp và đợt
cấp viêm tụy mạn. Trong các trường hợp viêm tụy mạn
mức độ nặng, nồng độ enzyme lipase có thể giảm do
suy chức năng tuyến tụy, nhưng nồng độ lipase không
có mối liên quan với các rối loạn chức năng ngoại tiết
của tuyến tụy [11].
4.3.3. Biến đổi nồng độ đường máu và lipid máu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân
tăng đường máu chiếm tỷ lệ 34,1%, tăng cholesterol
toàn phần chiếm 12,8%, tăng triglycerid chiếm
29,8%, tăng LDL-c chiếm 19,2% và nồng độ HDL-c
thấp hơn 0,9 mmol/L chiếm 38,3%. Tỷ lệ mắc mới
đái tháo đường trên những bệnh nhân viêm tụy mạn
tùy thuộc vào nhiều yếu tố như có vôi hóa hay không
có sự vôi hóa tụy, nguyên nhân gây bệnh và thời
gian mắc bệnh, tỷ lệ này khoảng 60%. Tỷ lệ đái tháo
đường thứ phát sau viêm tụy mạn cũng đã có nhiều
công bố tuy nhiên số liệu hoàn toàn khác biệt nhau,
theo báo cáo của Larsen và cộng sự phát hiện được
35% đái tháo đường thể phụ thuộc insulin và 31%
thể không phụ thuộc insulin. Tại Nhật theo nghiên
cứu của Ukuno thì tỷ lệ này là 30% đái tháo đường
phụ thuộc insulin và 50% đái tháo đường không phụ
thuộc insulin được phát hiện. Tuy nhiên tỷ lệ đái tháo
đường trong thực tế có thể nhiều hơn, bởi vì các rối
loạn về nội tiết có thể xuất hiện ngay lúc đầu của tình
trạng viêm tụy khi các biểu hiện viêm tụy chưa thực
sự rõ ràng. Theo nghiên cứu trên 17.500 bệnh nhân
95
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
đái tháo đường ở Nhật phát hiện được 1,71% bệnh
nhân bị viêm tụy mạn. Theo Bank và cộng sự nghiên
cứu trên 125 bệnh nhân tổn thương tụy lành tính và
theo dõi từ 5-12 năm cho thấy tỷ lệ đái tháo đường
trên nhóm đối tượng này: thường gặp viêm tụy mạn
do rượu, hiếm khi xảy ra sau thương tổn đầu tiên,
mặc dù tỷ lệ gia tăng theo thời gian mắc bệnh, bệnh
gia tăng với tình trạng vôi hóa tụy rõ [7]. Theo nghiên
cứu của Ni và cs cho thấy nồng độ HDL-c ở bệnh nhân
viêm tụy mạn thấp hơn khi so sánh với nhóm chứng
và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Về nồng độ cholesterol, triglycerid và LDL-c ở nhóm
bệnh nhân viêm tụy mạn không có sự khác biệt khi
so sánh với nhóm chứng. Nồng độ HDL-c giảm thấp
được giải thích là do tình trạng viêm tiến triển lâu dài
đưa đến giảm nồng độ HDL-c [14].
4.3.4. Mối tương quan giữa nồng độ amylase,
lipase máu và nồng độ đường máu, lipid máu
Theo Bảng 3.9 và 3.10 cho thấy không có mối tương
quan giữa nồng độ amylase máu với cholesterol toàn
phần, triglycerid và HDL-c, chỉ có nồng độ amylase máu
và LDL-c có sự tương quan yếu với r = 0,303 (có ý nghĩa
thống kê p < 0,05). Nồng độ lipase máu không có mối
tương quan với cholesterol toàn phần, triglycerid và
HDL-c, chỉ có nồng độ lipase máu và LDL-c có sự tương
quan yếu với r = 0,257 (có ý nghĩa thống kê p < 0,05).
Theo nghiên cứu của tác giả Ni và cs trên 48 bệnh nhân
cho thấy có sự tương quan giữa nồng độ amylase máu
và nồng độ LDL-c (r = 0,414 và p < 0,05), trong khi đó
có mối tương quan giữa nồng độ amylase niệu và nồng
độ triglycerid và LDL-c (r = 0,614, r = 0,678 và p< 0,001)
[14]. Theo các tác giả trên thế giới LDL-c là cơ chất chính
mang cholesterol vào thành động mạch và các biến
đổi nội mạch đưa đến tình trạng tăng LDL-c trong
máu là do quá trình viêm mạn tính. Quá trình viêm
mạn tính gây nên các tổn thương tế bào tuyến tụy
đưa đến enzyme amylase được thẩm thấu vào máu
và đây là lý do có sự tương quan giữa tăng nồng
độ LDL-c với amylase, lipase máu. Các nghiên cứu
đã cho thấy có sự tương quan giữa tăng nồng độ
triglyceride và LDL-c với amylase máu. Theo nghiên
cứu của Yadav trên các bệnh nhân đái tháo đường
cho thấy những bệnh nhân có nồng độ HDL-c thấp có
mối tương quan với nồng độ amylase máu thấp, theo
nghiên cứu của Yingjie trên các bệnh nhân viêm tụy
cấp do tăng lipid máu cho thấy nồng độ triglyceride
không có mối tương quan với nồng độ amylase máu
[14], [16]. Tuy nhiên đây là những nghiên cứu ban
đầu với số lượng bệnh nhân không cao về mối tương
quan giữa amylase, lipase máu với nồng độ đường
máu và bilant lipid nên cần có các nghiên cứu trên số
lượng mẫu lớn hơn.
5. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu trên 47 bệnh nhân viêm tụy mạn
chúng tôi rút ra các kết luận sau:
- Độ tuổi thường gặp nhất là 41 - 60 chiếm 65,9%.
- Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử lạm dụng rượu chiếm
tỷ lệ cao nhất với 55,3%.
- Triệu chứng đau bụng chiếm 100% các bệnh
nhân khi vào viện, nôn và buồn nôn chiếm 53,1%,
thấp nhất là triệu chứng vàng da chiếm 2,1%.
- Nồng độ amylase máu tăng chiếm 57,5%, nồng
độ lipase máu tăng 68,1%. Tỷ lệ bệnh nhân tăng
đường máu chiếm tỷ lệ 34,1%, tăng cholesterol toàn
phần chiếm 12,8%, tăng triglycerid chiếm 29,8%, tăng
LDL-c chiếm 19,2% và nồng độ HDL-c thấp hơn 0,9
mmol/L chiếm 38,3%.
- Có sự tương quan giữa nồng độ amylase, lipase
máu với LDL-c (r = 0,303, r = 0,257 với p < 0,05). Không
có sự tương quan giữa nồng độ amylase, lipase máu
với đường máu và bilan lipid máu.
Đây là kết quả của đề tài KHCN cấp tỉnh được
ngân sách nhà nước tỉnh Thừa Thiên Huế đầu tư.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Cường (2010), “Các biến chứng sau phẫu
thuật điều trị viêm tụy mạn” Tạp chí Y học Thành phố Hồ
chí minh (14), số 1, tr 340 - 347.
2. Phạm Hoàng Hà (2011), “Hoạt độ enzyme tụy
ngoại tiết trên bệnh nhân viêm tụy mạn”, Tạp chí nghiên
cứu y học;75 (4).
3. Trần Văn Huy, Hoàng Trọng Thảng (2000), “Nhận
xét về bệnh nguyên và một số đặc điểm của viêm tụy mạn
ở bệnh viện Trung ương Huế”, Nội khoa,(1), tr. 17-21.
4. Nguyễn Anh Tuấn (2010), “Kết quả điều trị viêm
tụy mạn bằng phẫu thuật nối tụy – ruột đơn thuần theo
Partinton - Rochelle”, Tạp chí Y học lâm sàng. (56), tr. 51-56.
5. Nguyễn Văn Rư và Nguyễn Thị Loan (2014),
“Nghiên cứu định lượng Amylase, Protease, Lipase trong
máu và dịch tụy của bệnh nhân Viêm tụy mạn và bước đầu
đánh giá khả năng tiết dịch của người bệnh”, Y học thực
hành (903). 1, tr. 51.
6. Andriulli A, Botteri E, Almasio PL, et al (2010),
“Smoking as a cofactor for causation of chronic
pancreatitis: a meta-analysis”. Pancreas;39:1205–10.
7. Banks PA (2002), “Epidemiology, natural history,
and predictors of dsease outcome in acute and chronic
pancreatitis”. Gastroenterology endoscopy; 56: S 226 – S230.
8. Bornman PC, Botha JF, Ramos JM, Smith MD et
al (2010), “Guideline for the diagnosis and treatment of
chronic pancreatitis”, S Afr Med J;100 (12 Pt 2):845-60
9. Conwell DL, Lee LS. Yadav D, Longnecker DS, Miller
FH (2014), “American Pancreatic Association Practice
96
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 2 - tháng 04/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Guidelines in Chronic Pancreatitis Evidence-Based Report
on Diagnostic Guidelines”, Pancreas;43(8): 1143-62
10. Edderkaoui M, Thrower E (2013), “Smoking and
pancreatic disease”, Journal of cancer therapy. 4(10A),
pp. 34.
11. Joachim Mossner, Albrecht Hoffmeister and Julia
Mayerle (2016), Chronic pancreatitis, Yamada’s Textbook
of Gastroenterology, Sixth Edition, 1702: 1730.
12. Levy P, Munoz ED, Imrie C, Lohr M (2014),
“Epidemiology of chronic pancreatitis: burden of
the disease and consequences”, United European
Gastroenterology Journal, Vol. 2(5) 345–354
13. Machicado JD, Rebours V, Yadav D (2016),
“Epidemiology of Chronic Pancreatitis”, American
Pancreatic Association (28).
14. Ni Q, Yun L, Xu R, Shang D (2014), “Correlation
between blood lipid levels and chronic pancreatitis: a
retrospective case-control study of 48 cases”. Medicine
93(28):e331.
15. Ni Q, Yun L, Manish R, Dong Sh (2015), “Advances
in surgical treatment of chronic pancreatitis”, World
Journal of Surgical Oncology, (13):34.
16. Yadav R, Bhartiya JP, Verma SK, et al (2013), “The
evaluation of serum amylase in the patients of type 2
diabetes mellitus, with a possible correlation with the
pancreatic functions”. J Clin Diagn Res;7:1291–1294.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_cac_yeu_to_nguy_co_dac_diem_lam_sang_va_hoa_sinh.pdf