KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhồi máu não cấp trên bệnh nhân rung nhĩ
thường là nhồi máu não nặng, nhiều biến chứng
nguy hiểm. Sau giai đoạn cấp, kết cục chức năng
3 tháng cũng rất xấu với tỉ lệ tàn phế nặng và tử
vong cao. Giới nữ, NIHSS lúc nhập viện ≥ 11 và
có biến chứng viêm phổi bệnh viện là các yếu tố
có giá trị tiên lượng độc lập kết cục xấu. Chính vì
vậy, chúng tôi kiến nghị:
Bệnh nhân rung nhĩ, nhất là bệnh nhân nữ,
cần được bác sĩ tư vấn kỹ về nguy cơ nhồi máu
não và các biến cố tắc mạch để họ hợp tác tốt
hơn trong điều trị dự phòng.
Cập nhật thường xuyên kiến thức điều trị dự
phòng các biến cố tắc mạch trên bệnh nhân rung
nhĩ cho bác sĩ tuyến cơ sở.
Bác sĩ phải quan tâm hơn đến chỉ định vật lí
trị liệu hô hấp sớm cho bệnh nhân nhồi máu não
cấp để phòng viêm phổi bệnh viện. Không lạm
dụng nuôi ăn qua thông mũi – dạ dày nhưng
phải cảnh giác với rối loạn nuốt để chỉ định đặt
thông mũi – dạ dày kịp thời, tránh hít sặc.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 51 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu các yếu tố tiên lượng trên bệnh nhân nhồi máu não có rung nhĩ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 240
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ TIÊN LƯỢNG
TRÊN BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CÓ RUNG NHĨ
Đỗ Minh Chi*, Cao Phi Phong**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Xác định được các yếu tố tiên lượng kết cục sau đột quỵ có thể giúp phòng tránh được kết cục
xấu bằng cách kiểm soát tốt các yếu tố tiên lượng này.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành nghiên cứu các yếu tố nguy cơ trước đột quỵ,
đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của đột quỵ, điều trị và kết cục lúc xuất viện của 236 trường hợp bệnh nhân
đột quỵ thiếu máu não có rung nhĩ. Kết cục 3 tháng đánh giá được ở 213 bệnh nhân. Các yếu tố tiên lượng kết cục
xấu thời điểm 3 tháng được xác định nhờ phương pháp phân tích thống kê đơn biến và hồi quy đa biến logistic.
Kết quả: Đa số các bệnh nhân ≥ 65 tuổi lúc khởi phát nhồi máu não, nữ chiếm ưu thế hơn nam (53,4% so
với 46,6%). Bệnh nhân có nguy cơ nhồi máu não thấp thật sự chỉ chiếm 2,1%, còn lại đa số là bệnh nhân có nguy
cơ cao (59,7% đến 81,4% tùy đánh giá theo CHADS2 hay CHA2DS2-VASc), thế nhưng chỉ có 40,4% đang
dùng kháng đông uống, và tỉ lệ có INR (International Normalised Ratio) 2 – 3 lúc khởi phát nhồi máu não còn
thấp (9,7%). Tuổi ≥ 65, giới nữ, mạch nhanh, suy giảm ý thức lúc nhập viện, NIHSS (National Institutes of
Health Stroke Scale) ≥ 11, rung nhĩ có bệnh van tim, nhồi máu não diện rộng, có tắc mạch lớn, có chuyển dạng
xuất huyết, viêm phổi là các yếu tố có liên quan với kết cục 3 tháng khi phân tích đơn biến. Tuy nhiên, sau khi đưa
vào phân tích hồi quy logistic, chỉ còn yếu tố giới nữ, NIHSS lúc nhập viện ≥ 11 và viêm phổi có giá trị tiên lượng
độc lập kết cục xấu 3 tháng.
Kết luận: Có thể dùng 1 số yếu tố lâm sàng như giới nữ, NIHSS ≥ 11 và biến chứng viêm phổi để tiên lượng
kết cục xấu 3 tháng sau nhồi máu não ở bệnh nhân rung nhĩ.
Từ khóa: yếu tố tiên lượng, kết cục, nhồi máu não, rung nhĩ.
ABSTRACT
PREDICTORS OF POOR OUTCOME AFTER ISCHEMIC STROKE IN PATIENTS WITH ATRIAL
FIBRILLATION
Do Minh Chi, Cao Phi Phong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 19 - Supplement of No 1 - 2015: 240 - 245
Background: Awareness of the predictors of poor outcome after stroke can help us to prevent poor outcome.
Methods: Risk factors, clinical features, therapy and 3-month outcome of ischemic stroke in 236 patients
with atrial fibrillation were studied. Independent predictors of 3-month outcome were determined by using
univariable and binary logistic regression analyses.
Results: Most of the patients were over 65 and female outnumbered male (53.4% vs. 46.6%). True low risk
patients were 2.1% while most of the others are high risk patients (59.7% or 81.4% according to CHADS2 or
CHA2DS2-VASc). 40.4% of all patients were using oral anticoagulants before stroke onset and only 9.7% of all
patients using OACs got target INR. Age over 65, female, high heart rate, disorder of consciousness and NIHSS ≥
11 on admission, valvular atrial fibrillation, large infarction, occlusion of major arteries, hemorrhagic infarctions
and pneumonia were related with 3-month outcome in univariable analysis. However, after binary logistic
* Bệnh viện Nhân Dân 115 ** Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Đỗ Minh Chi ĐT: 0906672882 Email: chikkova@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 241
regression analysis, only female, NIHSS ≥ 11 on admission and pneumonia are independent predictors of poor
outcome.
Conclusion: We can use female, NIHSS ≥ 11 on admission and pneumonia as predictors of poor outcome in
stroke patients with atrial fibrillation.
Key words: predictors, poor outcome, ischemic stroke, atrial fibrillation.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rung nhĩ là rối loạn nhịp tim thường gặp
nhất và được xác định là một yếu tố nguy cơ
quan trọng của nhồi máu não. Ở mọi nhóm tuổi,
bệnh nhân rung nhĩ có nguy cơ nhồi não cao gấp
5 lần bệnh nhân không rung nhĩ(21). Tại Hoa Kỳ,
15 – 20% các trường hợp đột quỵ được ghi nhận
là có liên quan đến rung nhĩ(2). Mặt khác, so với
bệnh nhân không rung nhĩ, nhồi máu não xảy ra
trên bệnh nhân rung nhĩ thường nặng hơn, tỉ lệ
biến chứng, tỉ lệ tử vong và nguy cơ tàn phế
nặng đều cao hơn(7,17,20). Tuy vậy, đến nay, việc
điều trị dự phòng nhồi máu não cho bệnh nhân
rung nhĩ lại chưa được bác sĩ quan tâm đúng
mức. Ngay cả ở các nước phát triển, hơn 1/3
bệnh nhân rung nhĩ có chỉ định kháng đông
uống chưa dùng kháng đông, và gần một nửa số
bệnh nhân đang dùng kháng đông (loại kháng
vitamin K) không đạt mục tiêu điều trị(1).
Ở nước ta, một số nghiên cứu về nhồi máu
não do các nguyên nhân khác nhau có rút ra
nhận xét liên quan đến nhồi máu não trên bệnh
nhân rung nhĩ nhưng chưa có nghiên cứu nào
khảo sát riêng đối tượng này, cũng như chưa có
số liệu về các yếu tố tiên lượng kết cục chức
năng cho đối tượng này. Nếu xác định được các
yếu tố tiên lượng, ngoài việc có thể dự đoán kết
cục chức năng, ta còn có thể hy vọng làm giảm
kết cục xấu thông qua việc tích cực phòng ngừa,
chẩn đoán sớm và điều trị tốt các yếu tố này.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tần suất các yếu tố nguy cơ nhồi
máu não và thuốc dự phòng nhồi máu não
trước nhập viện của bệnh nhân nhồi máu não
có rung nhĩ.
Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, điều
trị và kết cục 3 tháng của nhồi máu não ở bệnh
nhân rung nhĩ.
Xác định các yếu tố có giá trị tiên lượng phục
hồi chức năng kém hoặc tử vong tại thời điểm 3
tháng sau nhồi máu não ở bệnh nhân rung nhĩ.
ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Bệnh nhân nhập viện vì nhồi máu não cấp
thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán của Tổ Chức Y tế
Thế Giới. Tất cả phải có CT scan hoặc MRI não
lúc nhập viện, chụp nhắc lại khi có chỉ định.
Các bệnh nhân này hoặc đã được chẩn đoán
rung nhĩ trước nhập viện hoặc mới được chẩn
đoán trong thời gian nằm viện (ít nhất 1 điện
tim trong lúc nằm viện ghi nhận có rung nhĩ),
không phân biệt rung nhĩ mãn tính hay rung
nhĩ cơn kịch phát.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân đột quỵ xuất huyết, huyết khối
tĩnh mạch nội sọ. Bệnh nhân khiếm khuyết
chức năng nặng (điểm Rankin hiệu chỉnh
(mRS: modified Rankin Scale) >2) trước đột
quỵ lần này. Bệnh nhân có bệnh nặng khác có
thể ảnh hưởng đánh giá kết cục như suy tim
độ III – IV, ung thư giai đoạn cuối, suy thận
mạn giai đoạn cuối
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu có phân tích.
Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân nhồi máu não cấp có kèm rung
nhĩ thỏa tiêu chuẩn chọn – loại nhập khoa Bệnh
lí mạch máu não Bệnh viện Nhân Dân 115 trong
thời gian từ 21/05/2013 đến 10/01/2014.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 242
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu ước lượng tối thiểu là 112 bệnh nhân
theo dõi được đến thời điểm 3 tháng.
Phương pháp thu thập số liệu
Các bệnh nhân được khám lâm sàng, ghi
nhận bệnh sử, tiền căn, sinh hiệu, dấu hiệu tổng
quát và thần kinh, diễn tiến trong thời gian nằm
viện, tình trạng lúc xuất viện. Trong thời gian
nằm viện, các bệnh nhân được làm các cận lâm
sàng: CT scan não hoặc MRI não lúc nhập viện
và các ngày sau đó nếu hình ảnh học não lúc đầu
không rõ ràng, điện tâm đồ lúc nhập viện và
điện tâm đồ lúc ghi nhận có rung nhĩ, các xét
nghiệm sinh hóa, huyết học thường quy, các cận
lâm sàng chẩn đoán và theo dõi biến chứng
trong lúc nằm viện. Sau 3 tháng, các bệnh nhân
được đánh giá lại kết cục chức năng (90 ± 7 ngày)
qua thăm khám trực tiếp hoặc phỏng vấn qua
điện thoại, với kết cục xấu được định nghĩa là
điểm mRS ≥ 3.
Xử lí và phân tích số liệu
Các dữ liệu sẽ được xử lí và phân tích bằng
phần mềm SPSS for Windows phiên bản 22.0 và
Microsoft Exel 2010. Phân tích đơn biến: dữ liệu
được xử lí bằng phép kiểm χ2 đối với biến định
tính hay định lượng có phân nhóm. Nếu giá trị
mong đợi nhỏ nhất < 1 hoặc số ô trong bảng 2 x 2
có tần suất mong đợi 20% thì dùng
kiểm định chính xác Fisher. Biến định lượng
được kiểm định bằng phép kiểm student độc
lập. Các biến có liên quan có ý nghĩa thống kê
với kết cục khi phân tích đơn biến sẽ được đưa
vào mô hình hồi quy đa biến logistic nhằm tìm
ra biến có giá trị tiên lượng độc lập.
KẾT QUẢ
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Trong 3561 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi
máu não cấp nhập khoa bệnh lí mạch máu não
bệnh viện Nhân dân 115 từ 21/5/2013 đến
10/01/2014 có 236 trường hợp (6,63%) rung nhĩ
thỏa tiêu chuẩn chọn – loại được đưa vào nghiên
cứu. Nữ (53,4%) chiếm ưu thế hơn nam. Tuổi
trung bình của mẫu là 67,93 ± 28,44, nhóm ≥ 65
tuổi chiếm 58,9%. Những bệnh nhân có nguy cơ
nhồi máu não thấp thật sự (CHA2SD2-VASc = 0)
chỉ có 2,1%, còn lại đa số là nguy cơ cao (59,7%
theo CHADS2 ≥ 2, 81,4% theo CHA2DS2-VASc ≥
2). Các yếu tố nguy cơ nhồi máu não: tăng huyết
áp (74,6%), đái tháo đường (15,7%), rối loạn
chuyển hóa lipid máu (20,8%), bệnh mạch vành
(30,1%), suy tim (25%), bệnh van tim (18,2%),
tiền căn nhồi máu não hoặc tiền căn có cơn thiếu
máu não thoáng qua (TIA) (23,3%).Trong số các
bệnh nhân đưa vào nghiên cứu, 17,3% đang
dùng kháng đông uống (toàn bộ là kháng
vitamin K), và chỉ có 9,76% đang dùng kháng
đông uống đạt INR 2 – 3 lúc nhập viện.
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng nhồi máu
não có rung nhĩ và kết cục 3 tháng
Thời điểm nhập viện, NIHSS trung bình là
13,92, với NIHSS 0 – 5: 23%, NIHSS 6 – 15: 35,7%,
NIHSS > 15: 41,3%. Bệnh nhân có rối loạn ý thức
(điểm Glasgow < 14): 42,1%.
Vị trí tổn thương nhồi máu não cũng đa
dạng: vùng vỏ (15,3%), vùng dưới vỏ (49,6%), cả
vùng vỏ và dưới vỏ (49,6%), tuần hoàn sau
(5,9%), nhiều ổ trên và dưới lều (4,75), không rõ
tổn thương (4,2%). 38% bệnh nhân bị nhồi máu
não diện rộng. Tỉ lệ nhồi máu chuyển dạng xuất
huyết trên CT scan não khoảng 14,4% với tất cả
các dạng HI-1 (3,4%), HI-2 (3,8%), PH-1 (5,5%),
PH-2 (1,7%).
Viêm phổi là biến chứng thường gặp nhất
trong thời gian nằm viện (35,6%).
Thời điểm 3 tháng, trong 213 ca theo dõi
được, kết cục xấu (mRS ≥ 3) chiếm 77%, với tỉ lệ
tử vong là 33,8%. Trong số bệnh nhân còn sống,
thuốc kháng đông uống được dùng ở 68,1%
(kháng vitamin K 46,8%, kháng đông uống mới
21,3%), và chỉ có 25,8% số bệnh nhân dùng
kháng vitamin K có theo dõi INR thường xuyên
và INR lần cuối đạt 2 -3.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 243
Các yếu tố tiên lượng kết cục
Kết quả phân tích mối tương quan giữa một số yếu tố và kết cục 3 tháng như bảng 1.
Bảng 1: Liên quan giữa 1 số biến và kết cục 3 tháng
Kết cục 3 tháng theo mRS p
Tốt Xấu
Tuổi ≥ 65 19 (38,8%) 111 (67,7%) 0,00027
Giới nữ 17 (34,7%) 97 (59,1%) 0,003
Tiền căn Tăng huyết áp 38 (77,6%) 124 (75,6%) 0,78
Đái tháo đường 7 (14,3%) 28 (17,1%) 0,644
RL lipid máu 11 (22,4%) 35 (21,3%) 0,869
Bệnh mạch vành 14 (28,6%) 52 (31,7%) 0,677
Suy tim 9 (18,4%) 44 (26,8%) 0,229
Bệnh van tim 11 (22,4%) 25 (15,2%) 0,238
Nhồi máu não và TIA 13 (26,5%) 34 (20,7%) 0,39
CHA2DS2-VASc≥ 2 37 (75,5%) 138 (84,1%) 0,166
CHADS2≥ 2 24 (49%) 106 (64,6%) 0,049
Thuốc chống huyết khối
trước nhập viện
Không 30 (61,2%) 107 (65,2%)
0,868 Có kháng đông 9 (18,4%) 28 (17,1%)
Chỉ có kháng kết tập tiểu cầu 10 (20,4%) 29 (17,7%)
Lâm sàng Mạch nhanh 6 (12,2%) 53 (32,5%) 0,005
Huyết áp ≥ 140/90 22 (44,9%) 88 (54%) 0,264
GCS ≤ 13 điểm 5 (10,2%) 86 (52,8%) < 0,0001
NIHSS ≥ 11 6 (12,2%) 120 (73,6%) < 0,0001
Rung nhĩ có bệnh van tim 17 (37%) 29 (21,8%) 0,043
Cận lâm sàng Nhồi máu diện rộng 1 (2%) 81 (49,4%) < 0,0001
Tắc mạch lớn 4 (8,5%) 48 (36,1%) < 0,001
EF < 40% 0 (0%) 3 (2,4%) 0,568
Giảm động/vô động thành thất 5 (10,9%) 19 (14,5%) 0,536
Huyết khối/cản âm tự phát tim trái 5 (10,9%) 14 (10,7%) 1
Biến chứng Chuyển dạng xuất huyết 1 (2%) 29 (17,7%) 0,006
Viêm phổi 1 (2%) 78 (47,6%) <0,0001
Biến chứng liên quan tim mạch 0 (0%) 9 (5,5%) 0,122
Xuất huyết tiêu hóa 1 (2%) 8 (4,9%) 0,688
Bảng 2 Các yếu tố có giá trị tiên lượng độc kết cục
xấu sau phân tích đa biến
B p OR
CI 95% của OR
Dưới Trên
Nữ 1,368 0,012 3,927 1,358 11,354
NIHSS ≥ 11 2,563 0,00036 12,969 3,174 52,999
Viêm phổi 2,95 0,014 19,114 1,829 199,773
Từ phân tích đơn biến, 11 yếu tố có liên
quan kết cục 3 tháng (tuổi ≥ 65, giới nữ,
CHADS2 ≥ 2, mạch nhanh, giảm ý thức, NIHSS
nhập viện ≥ 11, rung nhĩ có bệnh van tim, nhồi
máu não diện rộng, tắc mạch lớn, nhồi máu
chuyển dạng xuất huyết, viêm phổi) được đưa
vào phân tích hồi quy Binary Logistic theo
phương pháp Enter (bảng 2). Theo bảng 2, giới
nữ, NIHSS ≥ 11 lúc nhập viện và có biến chứng
viêm phổi bệnh viện là các yếu tố tiên lượng
độc lập kết cục xấu 3 tháng.
BÀN LUẬN
Có thể do bỏ lỡ nhiều ca rung nhĩ cơn mà tỉ
lệ bệnh nhân có rung nhĩ trong số bệnh nhân
nhồi máu não trong nghiên cứu của chúng tôi
(6,63%) thấp hơn so với tỉ lệ từ các nghiên cứu
khác trên thế giới (15 – 20%)(14,12,17). Tuy vậy, đặc
điểm nhồi máu não trên các bệnh nhân này khá
phù hợp với các nghiên cứu trên thế giới.
Từ trước đến nay, nam vẫn được xem là yếu
tố nguy cơ đột quỵ nhồi máu não, nhưng trong
nghiên cứu của chúng tôi, nữ chiếm ưu thế hơn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015
Chuyên Đề Nội Khoa 244
nam. Có 2 lí do giải thích điều này. Thứ nhất,
trong dân số rung nhĩ (chưa dùng kháng đông),
nguy cơ tắc mạch hệ thống do huyết khối từ tim
nói chung và nhồi máu não do huyết khối từ tim
nói riêng cao hơn ở nữ(2,9,15,18). Thứ hai, tuổi thọ
của nữ cao hơn nam, do đó, một dân số già như
dân số rung nhĩ thì tỉ lệ nữ trội hơn nam là phù
hợp(10). Khi phân tích đơn biến, có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về giới tính giữa 2 nhóm kết
cục. Sau khi đưa vào phân tích đa biến, giới nữ
vẫn là yếu tố tiên lượng độc lập kết cục.
Tuổi trung bình của mẫu là 67,93 ± 28,44,
thấp hơn một số nghiên cứu ở châu Âu (trên
70)(14,4,13,19). Sự khác biệt này là do nghiên cứu của
chúng tôi là nghiên cứu 1 trung tâm, trên đối
tượng người châu Á, đưa luôn những bệnh nhân
rung nhĩ có kèm bệnh van tim vào mẫu (những
bệnh nhân này tuổi phát hiện rung nhĩ đa số
thấp hơn bệnh nhân rung nhĩ không van tim),
còn các nghiên cứu tại châu Âu là nghiên cứu đa
trung tâm, trên đối tượng người châu Âu và hầu
hết đều có tiêu chí chọn mẫu là bệnh nhân rung
nhĩ không bệnh van tim. Tuy có mối liên hệ đơn
biến giữa kết cục 3 tháng và tuổi ≥ 65, nhưng mối
liên hệ này không còn sau khi đưa vào phân tích
đa biến, tương tự như trong nghiên cứu của tác
giả Giralt-Steinhauer(8).
Các yếu tố nguy cơ nhồi máu não khác được
đề cập trong 2 thang CHA2DS-VASc và
CHADS2 như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối
loạn chuyển hóa lipid máu, bệnh mạch vành,
suy tim, bệnh van tim, tiền căn nhồi máu não
hoặc có TIA đều được khảo sát nhưng không
yếu tố nào có liên quan với kết cục, ngay cả yếu
tố CHADS2 ≥ 2 cũng không là yếu tố tiên lượng
độc lập sau phân tích đa biến dù trước đó có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm kết
cục về tỉ lệ CHADS2 ≥ 2. Mặc dù vậy, nguy cơ
nhồi máu não của các bệnh nhân lượng giá theo
điểm CHA2DS2-VASc và CHADS2 đều cho thấy
nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao nhồi máu não
chiếm tỉ lệ cao (59,7% đến 81,4% tùy đánh giá
theo CHADS2 ≥ 2 hay CHA2DS2-VASc ≥ 2).
Trong khi đó, tồn tại 1 vấn đề đáng lo ngại hơn:
tỉ lệ bệnh nhân được điều trị dự phòng với thuốc
kháng đông ở nước ta còn rất thấp so với các
nước phát triển(8,3,5), có lẽ do điều kiện kinh tế
nước ta còn khó khăn, hiểu biết của bệnh nhân
và thân nhân còn kém, bác sĩ tuyến cơ sở chưa tự
tin cũng như chưa chú trọng đúng mức vai trò
thuốc kháng đông ở những đối tượng nguy cơ
cao này.
Ngoài các yếu tố về dân số và tiền căn
bệnh lí kể trên, còn khá nhiều các yếu tố về
lâm sàng và cận lâm sàng có liên quan kết cục
3 tháng như mạch nhanh ≥ 100 lần/phút, suy
giảm ý thức (GCS < 14), NIHSS ≥ 11 lúc nhập
viện, rung nhĩ có bệnh van tim, nhồi máu não
diện rộng, tắc mạch lớn, nhồi máu chuyển
dạng xuất huyết, viêm phổi bệnh viện, nhưng
sau phân tích đa biến, chỉ còn NIHSS ≥ 11 và
viêm phổi bệnh viện là yếu tố tiên lượng độc
lập kết cục. Một số nghiên cứu khác cũng
nhận được kết quả tương tự của chúng
tôi(8,6,11,16). Kết quả này cũng dễ hiểu.Ngày nay,
thang điểm NIHSS được dùng rộng rãi để
đánh giá thiếu sót thần kinh trên bệnh nhân
nhồi máu não. NIHSS chú trọng nhiều nhất
vào các yếu tố vận động. NIHSS càng cao,
khiếm khuyết thần kinh càng nặng.Còn đối
với viêm phổi, đây là biến chứng nhiễm trùng
bệnh viện thường gặp và nguy hiểm nhất. Do
đặc thù của bệnh, bệnh nhân đột quỵ thường
khó xoay trở, kèm theo rối loạn nuốt, rối loạn
phản xạ ho, sặc, các thủ thuật đặt nội khí quản
(có hoặc không có kèm thở máy), nuôi ăn qua
thông mũi – dạ dày, dinh dưỡng kém... càng
làm cho biến chứng viêm phổi dễ xảy ra và
nặng nề hơn. Viêm phổi kéo dài thời gian nằm
viện. Những trường hợp viêm phổi nặng có
thể dẫn đến suy hô hấp, choáng nhiễm trùng,
và trực tiếp làm tăng tỉ lệ tử vong trên bệnh
nhân đột quỵ.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Nhồi máu não cấp trên bệnh nhân rung nhĩ
thường là nhồi máu não nặng, nhiều biến chứng
nguy hiểm. Sau giai đoạn cấp, kết cục chức năng
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 19 * Phụ bản của Số 1 * 2015 Nghiên cứu Y học
Thần Kinh 245
3 tháng cũng rất xấu với tỉ lệ tàn phế nặng và tử
vong cao. Giới nữ, NIHSS lúc nhập viện ≥ 11 và
có biến chứng viêm phổi bệnh viện là các yếu tố
có giá trị tiên lượng độc lập kết cục xấu. Chính vì
vậy, chúng tôi kiến nghị:
Bệnh nhân rung nhĩ, nhất là bệnh nhân nữ,
cần được bác sĩ tư vấn kỹ về nguy cơ nhồi máu
não và các biến cố tắc mạch để họ hợp tác tốt
hơn trong điều trị dự phòng.
Cập nhật thường xuyên kiến thức điều trị dự
phòng các biến cố tắc mạch trên bệnh nhân rung
nhĩ cho bác sĩ tuyến cơ sở.
Bác sĩ phải quan tâm hơn đến chỉ định vật lí
trị liệu hô hấp sớm cho bệnh nhân nhồi máu não
cấp để phòng viêm phổi bệnh viện. Không lạm
dụng nuôi ăn qua thông mũi – dạ dày nhưng
phải cảnh giác với rối loạn nuốt để chỉ định đặt
thông mũi – dạ dày kịp thời, tránh hít sặc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Andrew NE, Thrift AG, Cadilhac DA(2013). The Prevalence,
Impact and Economic Implications of Atrial Fibrillation in
Stroke: What Progress Has Been Made?. Neuroepidemiology,
40 (4), pp. 227-239.
2. Bungard TJ, Ghali WA, Teo KK, McAlister FA, Tsuyuki RT
(2000). Why do patients with atrial fibrillation not receive
warfarin?. Archives of Internal Medicine, 160 (1), pp. 41-46.
3. Candelise L, Pinardi G, Morabito A (1991). Mortality in acute
stroke with atrial fibrillation. The Italian Acute Stroke Study
Group. Stroke, 22 (2), pp. 169-174.
4. Feinberg WM, Blackshear JL, Laupacis A, Kronmal R, Hart
RG (1995). Prevalence, age distribution, and gender of patients
with atrial fibrillation. Analysis and implications. Archieves of
Internal Medicine, 155 (5), pp. 469-473.
5. Friberg L, Benson L, Rosenqvist M, Lip GY (2012). Assessment
of female sex as a risk factor in atrial fibrillation in Sweden:
nationwide retrospective cohort study. BMJ, 344, pp. e3522.
6. Giralt-Steinhauer E, Cuadrado-Godia E, Ois A, Jimenez-
Conde J, Rodriguez-Campello A, et al. (2012). CHA2DS2-
VASc score and prognosis in ischemic strokes with atrial
fibrillation. Journal of Neurology, 259 (4), pp. 745-751.
7. Gladstone DJ, Bui E, Fang J, Laupacis A, Lindsay MP, et al.
(2009). Potentially preventable strokes in high-risk patients
with atrial fibrillation who are not adequately anticoagulated.
Stroke, 40 (1), pp. 235-240.
8. Go AS, Hylek EM, Chang Y, Phillips KA, Henault LE, et al.
(2003). Anticoagulation therapy for stroke prevention in atrial
fibrillation: how well do randomized trials translate into
clinical practice?. The Journal of the American Medical
Association, 290 (20), pp. 2685-2692.
9. Haeusler KG, Konieczny M, Endres M, Villringer A,
Heuschmann PU (2012). Impact of anticoagulation before
stroke on stroke severity and long-term survival. International
Journal of Stroke, 7 (7), pp. 544-550.
10. Johnston KC, Li JY, Lyden PD, Hanson SK, Feasby TE, et al.
(1998). Medical and neurological complications of ischemic
stroke: experience from the RANTTAS trial. RANTTAS
Investigators. Stroke, 29 (2), pp. 447-453.
11. Jorgensen HS, Nakayama, Reith J, Raaschou HO, Olsen TS
(1996). Acute stroke with atrial fibrillation. The Copenhagen
Stroke Study. Stroke, 27 (10), pp. 1765-1769.
12. Katzan IL, Cebul RD, Husak SH, Dawson NV, Baker DW
(2003). The effect of pneumonia on mortality among patients
hospitalized for acute stroke. Neurology, 60 (4), pp. 620-625.
13. Kimura K, Minematsu K, Yamaguchi T, Japan Multicenter
Stroke Investigators Collaboration (2005). Atrial fibrillation as
a predictive factor for severe stroke and early death in 15831
patients with acute ischaemic stroke. Journal of Neurology,
Neurosurgery and Psychiatry, 76 (5), pp. 679-683.
14. Lamassa M, Di Carlo A, Pracucci G, Basile AM, Trefoloni G, et
al. (2001). Characteristics, outcome, and care of stroke
associated with atrial fibrillation in Europe: data from a
multicenter multinational hospital-based registry (The
European Community Stroke Project). Stroke, 32 (2), pp. 392-
398.
15. Lane DA, Lip GY (2009). Female gender is a risk factor for
stroke and thromboembolism in atrial fibrillation patients.
Thrombosis and Haemostasis, 101 (5), pp. 802-805.
16. Li S, Zhao X, Wang C, Liu L, Liu G, et al. (2013). Risk factors
for poor outcome and mortality at 3 months after the ischemic
stroke in patients with atrial fibrillation. Journal of Stroke and
Cerebrovascular Diseases, 22 (8), pp. e419-425.
17. Lin S, Wu B, Hao ZL, Kong FY, Tao WD, et al. (2011).
Characteristics, treatment and outcome of ischemic stroke
with atrial fibrillation in a Chinese hospital-based stroke
study. Cerebrovascular Diseases, 31 (5), pp. 419-426.
18. Lip GY, Nieuwlaat R, Pisters R, Lane DA, Crijns HJ (2010).
Refining clinical risk stratification for predicting stroke and
thromboembolism in atrial fibrillation using a novel risk
factor-based approach: the euro heart survey on atrial
fibrillation. Chest, 137 (2), pp. 263-272.
19. Steger C, Pratter A, Martinek-Bregel M, Avanzini M, Valentin
A, et al. (2004). Stroke patients with atrial fibrillation have a
worse prognosis than patients without: data from the Austrian
Stroke registry. European Heart Journal, 25 (19), pp. 1734-
1740.
20. Thygesen SK, Frost L, Eagle KA, Johnsen SP (2009). Atrial
fibrillation in patients with ischemic stroke: A population-
based study. Clinical Epidemiology, 1, pp. 55-65.
21. Wolf PA, Dawber TR, Thomas HE Jr, Kannel WB (1978).
Epidemiologic assessment of chronic atrial fibrillation and risk
of stroke: the Framingham study. Neurology, 28 (10), pp. 973-
977.
Ngày nhận bài báo: 14/10/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 20/10/2014
Ngày bài báo được đăng: 10/01/2015
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_cac_yeu_to_tien_luong_tren_benh_nhan_nhoi_mau_nao.pdf