KẾT LUẬN
Điểm trung bình SF‐36 là 42,5 ± 8,1 điểm.
Trong đó, điểm trung bình sức khỏe thể chất và
tinh thần qua khảo sát bằng bộ câu hỏi SF‐36 lần
lượt là 46,4 ± 7,8 điểm và 38,7 ± 11,2 điểm.
Những yếu tố liên quan đến điểm sức khỏe thể
chất là: thời gian chẩn đoán suy thận đến điều
trị, chỉ số BUN và Creatinin. Những yếu tố liên
quan đến điểm SKTT là: tuổi, nghề nghiệp, tình
trạng hôn nhân, nơi cư trú, độ lọc cầu thận ước
đoán và thời gian chẩn đoán bệnh đến khi điều
trị của bệnh nhân.
Nghiên cứu này còn có một số hạn chế như:
mẫu nghiên cứu được chọn từ phòng khám nên
có thể gây bỏ sót mẫu và không thể khái quát
được quần thể đích, một số chỉ số lượng giá tình
trạng diễn tiến nặng chưa được thu thập đầy đủ.
Về điểm mới và tính ứng dụng: nghiên cứu đã
xác định được điểm CLCS của bệnh nhân giai
đoạn điều trị bảo tồn bằng thuốc, xác định được
một số yếu tố liên quan đến CLCS từ đó có
những biện pháp can thiệp phù hợp để nâng cao
chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho các
bệnh nhân suy thận mãn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 09/02/2022 | Lượt xem: 28 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn đang điều trị ngoại trú tại phòng khám nội thận bệnh viện chợ Rẫy năm 2012, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 474
NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG
CỦA BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN ĐANG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI PHÒNG KHÁM NỘI THẬN BỆNH VIỆN CHỢ RẪY NĂM 2012
Nguyễn Thị Kim Liên*, Nguyễn Đỗ Nguyên**, Tô Minh Ngọc***
TÓM TẮT
Mở đầu: Tại Việt Nam, ảnh hưởng của suy thận mạn đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân đang điều
trị bảo tồn bằng thuốc là vấn đề cần được làm sáng tỏ hơn nữa. Nghiên cứu được thực hiện để tìm hiểu chất
lượng cuộc sống của nhóm bệnh nhân này và các yếu tố liên quan khác.
Mục tiêu: Xác định điểm trung bình về chất lượng cuộc sống và các yếu tố liên quan của bệnh nhân suy
thận mạn đang điều trị bảo tồn ngoại trú tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012.
Phương pháp nghiên cứu:Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 319 đối tượng được chọn ngẫu nhiên hệ thống
tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Kết quả: Điểm trung bình về chất lượng cuộc sống của bệnh nhân được đánh giá qua thang đo SF36 là
42,5; trong đó điểm sức khỏe thế chất là 46,4 và điểm sức khỏe tinh thần là 38,7. Điểm sức khỏe thể chất có mối
tương quan với thời gian chẩn đoán, chỉ số BUN và creatinin. Điểm sức khỏe tinh thần có mối liên quan với tuổi,
nơi cư trú, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp và độ lọc cầu thận ước đoán eGFR; có mối tương quan với thời gian
chẩn đoán đến điều trị.
Kết luận: Chất lượng cuộc sống của đối tượng nghiên cứu có liên quan đến các yếu tố: thời gian chẩn đoán,
tuổi, tình trạng hôn nhân, nghề nghiệp, eGFR, chỉ số BUN và creatinin.
Từ khóa: chất lượng cuộc sống, SF‐36, suy thận mạn.
ABSTRACT
STUDY ON THE QUALITY OF LIFE OF CHRONIC RENAL FAILURE PATIENTS AT RENAL
ENDOCRINE CLINIC‐CHO RAY HOSPITAL, 2012
Nguyen Thi Kim Lien, Nguyen Do Nguyen, To Minh Ngoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6‐ 2014: 474 – 480
Background: In Vietnam, effects of chronic renal failure on quality of life of patients who were in a
conservative care with drugs need to be considered significantly. This study was undertaken to examine quality of
life this patient group and related factors.
Objectives: To determine the average score of quality of life and related factors among chronic renal failure
out‐patients who were in a conservative care with drugs at Cho Ray Hospital in 2012.
Methods: A cross‐sectional study was conducted with 319 participants who were chosen by a systematic
random sampling method at Cho Ray Hospital.
Result: The average score of SF36 was 42.5; physical health score was 46.4; mental health score was 38.7.
The physical health score was correlated with patient’s diagnosing time, BUN and creatinin index. The mental
health score was associated with patient’s age, residence, marital status, occupation, eGFR, and diagnosing time.
Conclusion: The quality of life of chronic renal failure out‐patients was related to factors: patient’s
*Khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Chợ Rẫy **Khoa Y tế Công cộng Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh
***Ban phát triển dự án nghiên cứu khoa học, Leafshield Group
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị Kim Liên ĐT: 0916912717 Email: kimlien.choray@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 475
diagnosing time, age, residence, marital status, occupation, eGFR, BUN and creatinin index.
Key words: quality of life, SF‐36, chronic renal failure.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận mạn (STM) là một trong những vấn
đề y học được nhiều người quan tâm vì nó dễ
dàng dẫn tới những biến chứng nguy hiểm khác,
hoặc thậm chí tử vong. Suy thận mạn không chỉ
ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất mà còn tác
động đến sức khỏe tinh thần của bệnh nhân và
do đó làm giảm chất lượng cuộc sống (CLCS)
của họ. Những yếu tố nguy cơ được quan tâm là
tuổi, giới, chủng tộc(1,2,8,10,4). Theo một nghiên cứu
tại Hà Nội cho thấy 75,9% bệnh nhân chạy thận
nhân tạo chu kỳ có CLCS thấp (điểm SF36 ≤50),
trong khi đó chỉ 5,35% bệnh nhân có CLSC khá
tốt (SF36 >75 điểm); và các yếu tố ảnh hưởng đến
CLCS bao gồm: nồng độ hemoglobin, chất lượng
cuộc lọc máu, nồng độ albumin máu và CRP
huyết thanh(7). Tại bệnh viện Chợ Rẫy, điểm
CLCS của bệnh nhân sau chạy thận tăng lên 41,3
điểm so với trước chạy thận là 12,1 điểm(5). Mỗi
năm, khoa Nội Thận ‐ bệnh viện Chợ Rẫy tiếp
nhận gần 4000 ca bệnh nội trú và 38.000 ca điều
trị ngoại trú, số lượng bệnh nhân có xu hướng
tăng qua các năm(5). Tuy nhiên bệnh nhân đang
điều trị suy thận mạn bảo tồn bằng thuốc lại ít
được chú ý đến so với bệnh nhân đang áp dụng
phương pháp điều trị thay thế.Nghiên cứu này
nhằm xác định điểm trung bình về chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân suy thận mạn giai
đoạn điều trị bảo tồn bằng thuốc ở độ tuổi
trưởng thành đang điều trị ngoại trú tại phòng
khám nội thận bệnh viện Chợ Rẫy năm 2012 và
mối liên quan của điểm chất lượng cuộc sống
với các đặc tính của mẫu nghiên cứu và các chỉ
số xét nghiệm.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên bệnh nhân suy
thận mạn giai đoạn điều trị bảo tồn bằng thuốc ở
độ tuổi trưởng thành, đang điều trị ngoại trú tại
phòng khám nội thận ‐ bệnh viện Chợ Rẫy năm
2012. Loại trừ các bệnh nhân không muốn tham
gia nghiên cứu, không thể trả lời phỏng vấn,
bệnh nhân nặng đang bị suy hô hấp và bệnh
nhân kèm theo bệnh lý ung thư.
Cỡ mẫu nghiên cứu
Cỡ mẫu được tính theo phương pháp dành
cho nghiên cứu cắt ngang mô tả:
N = [ σ2]/d2
Giả định giá trị σ được ước lượng dựa theo
nghiên cứu của Lê Việt Thắng trên 112 bệnh
nhân suy thận mạn tính được chạy thận nhân
tạo chu kỳ, với điểm trung bình chất lượng cuộc
sống SF‐36 là 40,78 ± 19,37(7). Độ chính xác mong
muốn là 2,5 với mức ý nghĩa thống kê 0,05 và dự
trù 25% mất dữ liệu BUN và creatinin, do đó, cỡ
mẫu tối thiểu là 308 bệnh nhân.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả với phương
pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống với khoảng
cách mẫu k=200:10=20. Một số ngẫu nhiên I ≤ 20
sẽ được chọn mỗi ngày. Phỏng vấn trực tiếp
bệnh nhân dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn soạn
sẵn và thu thập kết quả xét nghiệm cận lâm
sàng. Dữ liệu thu thập được nhập bằng phần
mềm EpiData 3.1và phân tích bằng phần mềm
Stata 11.0.
Liệt kê và định nghĩa biến số
Điểm sức khỏe thể chất
Là trung bình cộng điểm của 5 lĩnh vực: sức
khỏe liên quan hoạt động chức năng, giới hạn
hoạt động do khiếm khuyết chức năng, sức khỏe
liên quan cảm nhận đau đớn, sức khỏe tổng quát,
sức khỏe liên quan đến cảm nhận cuộc sống.
Điểm sức khỏe tinh thần
Là trung bình cộng điểm của 5 lĩnh vực: sức
khỏe tổng quát, sức khỏe liên quan đến cảm
nhận cuộc sống, sức khỏe liên quan đến hoạt
động xã hội, giới hạn hoạt động do khiếm
khuyết tâm lý, sức khỏe tinh thần tổng quát.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 476
Tổng điểm chung của thang đo SF36 được
tính bằng trung bình cộng điểm sức khỏe thể
chất và điểm sức khỏe tinh thần.
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên 319 đối
tượng hội đủ các tiêu chí chọn mẫu. Độ tuổi
trung bình là 48 ± 12 tuổi, kết quả này phù hợp
với nghiên cứu của tác giả Lê Việt Thắng (48 ± 13
tuổi); và cao hơn so với nghiên cứu tại Ấn Độ (42
± 13 tuổi)(7); sự khác biệt về tuổi trung bình mắc
STM có sự chênh lệch nhất định ở các quốc gia
khác nhau. Tỷ lệ nam xấp xỉ nữ, 47% và 53%; tỷ
lệ bệnh nhân đến từ các tỉnh khác (67%) cao gấp
đôi so với tỷ lệ bệnh nhân đến từ TP.Hồ Chí
Minh (33%), các kết quả này đều phù hợp
nghiên cứu của Lâm Nguyễn Nhã Trúc tại bệnh
viện Chợ Rẫy năm 2007(6).Về tình trạng hôn
nhân: 75% đối tượng có gia đình, 25% đối tượng
độc thân, điều này được giải thích vì đối tượng
tham gia nghiên cứu là người trưởng thành. Về
nghề nghiệp của đối tượng: 19% lao động trí óc,
45% lao động chân tay. Về cách chi trả viện phí:
78% đối tượng tự chi trả, 22% đối tượng được
người thân chi trả. 90% tổng số đối tượng tham
gia có bảo hiểm y tế, tỉ lệ này được lý giải bởi
việc đối tượng sử dụng bảo hiểm y tế nhằm cho
việc điều trị STM trong một thời gian dài.
Bảng 1: Thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị của
bệnh nhân
Đặc tính (n=319) Trung bình Trung vị GTNN GTLN
Thời gian chẩn
đoán đến điều trị
(tháng)
22,5 5 0,5 120
Thời gian từ lúc chẩn đoán đến điều trị bệnh
của đối tượng trung bình là 22,5 tháng, dao động
từ 2 đến 48 tháng. Đối tượng điều trị sớm nhất là
sau 0,5 tháng sau khi được chẩn đoán STM và
chậm nhất là sau 120 tháng. Do tỷ lệ bệnh nhân
ngoại tỉnh cao và đối tượng thường chỉ đến tái
khám và điều trị khi nhận thấy những dấu hiệu
bệnh rõ ràng nên thời gian chẩn đoán bệnh đến
điều trị có sự chênh lệch rất lớn, có khoảng 50%
đối tượng nghiên cứu có thời gian chẩn đoán
đến điều trị xấp xỉ trên dưới 5 tháng. Vì vậy, đây
cũng là một trong những nguyên nhân góp phần
lý giải cho các kết quả về sau.
Kết quả xét nghiệm cận lâm sàng
Bảng 2: Kết quả các chỉ số xét nghiệm của đối tượng
nghiên cứu
Chỉ số n TB Độ lệch chuẩn Trung vị
BUN (mg/dl) 319 68,3 28,8 65,0
Creatinin (mg/dl) 319 7,3 4,9 6,7
Hb (g/dl) 143 10,4 17,68 10,6
Kết quả xét nghiệm cho thấy chỉ số BUN đạt
trung bình 68,3 mg/dl với độ lệch chuẩn 28,8
mg/dl (nhỏ nhất: 10,0, cao nhất: 107,0 mg/dl).
Nồng độ creatinin trong máu trung bình là 7,3 ±
4,9 mg/dl (nhỏ nhất: 1,1 mg/dl, cao nhất: 22,0
mg/dl). Nồng độ hemoglobin trong máu trung
bình là 10,4 ± 17,68 g/dl nhưng do xét nghiệm Hb
bị mất mẫu > 50% nên không đưa vào phân tích.
Do có rất nhiều nguyên nhân gây bệnh STM
nên các chỉ số xét nghiệm đóng vai trò quan
trọng và hữu ích để tiên lượng tình trạng bệnh
và chỉ ra hướng điều trị thích hợp cho mỗi bệnh
nhân. Các chỉ số xét nghiệm trong nghiên cứu
này cho thấy bệnh nhân suy thận ở mức từ trung
bình – nặng (độ II, III). Chỉ số BUN và creatinin
trung bình cao hơn nhiều so với trị số ở người
bình thường (0,5 – 1,3 mg%). Chỉ số Hemoglobin
là 10,4 thấp hơn so với giá trị tham khảo (đối với
phụ nữ là 12 – 16 g/dL và nam là 13 – 18 g/dL)
do người bệnh suy thận không tạo đủ nội tiết tố,
kích thích tủy xương tạo hồng cầu. Vì vậy, trước
đây một trong những giải pháp điều trị suy thận
mạn là truyền máu(4).
Bảng 3: Phân loại chức năng thận theo eGFR
Độ lọc cầu thận từ Creatinin huyết
thanh (eGFR) (ml/phút/1,73m2)
Tần số
(n) Tỉ lệ%
Giai đoạn II (60 – 89) 12 (4)
Giai đoạn III (30 – 59) 37 (12)
Giai đoạn IV (15 – 29) 50 (16)
Giai đoạn V (≤15) 218 (68)
Chức năng thận có thể được phân loại
thành các giai đoạn dựa vào độ lọc cầu thận
ước đoán (eGFR). Chỉ số eGFR được ước tính
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 477
dựa trên tuổi, giới tính và chỉ số xét nghiệm
creatinin huyết thanh của một người, nghĩa là
độ lọc cầu thận càng cao thì thận làm việc càng
tốt. Kết quả phân tích cho thấy tất cả bệnh
nhân trong nghiên cứu đều có eGFR từ
89ml/phút/1,73 m2 trở xuống, trong đó phần
lớn bệnh nhân tham gia nghiên cứu có eGFR ≤
15ml/phút/1,73 m2 (68%) tương ứng chức năng
thận giai đoạn V. Vì giai đoạn V là suy thận
giai đoạn cuối với đầy đủ các biểu hiện của
STM, do đó mà số lượng bệnh nhân trong
nghiên cứu cũng tăng dần theo từng chức
năng thận. Chỉ có một số bệnh nhân (4%) có
eGFR nằm trong khoảng 60‐89 ml/phút/1,73
m2, nghĩa là chức năng thận ở giai đoạn II‐thận
bị tổn thương trung bình.
Điểm trung bình về chất lượng cuộc sống
Bảng 4: Điểm số sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh
thần SF36 (n=319)
Chất lượng cuộc sống Trung bình Độ lệch chuẩn
Sức khỏe thể chất 46,4 7,8
Sức khỏe tinh thần 38,7 11,2
Tổng điểm SF36 42,5 8,1
Điểm trung bình chất lượng cuộc sống về
sức khỏe thể chất (SKTC) là 46,4 ± 7,8 điểm
(nhỏ nhất: 21,3 điểm, lớn nhất: 75,0 điểm).
Điểm trung bình của chất lượng cuộc sống về
sức khỏe tinh thần (SKTT) là 38,7 ± 11,2 điểm
(khoảng dao động 23,7 – 73,0 điểm). Điểm
trung bình của thang đo SF‐36 là 42,5 ± 8,1 với
điểm số cao nhất là 63,5 và thấp nhất là 29,9
(chiếm 0,94% và 2,82%) trong khi đó tiêu
chuẩn CLCS cho một bệnh nhân mắc bệnh
mạn tính cần điều trị lâu dài là SF36 trên 75
điểm(8). Kết quả này cao hơn hẳn so với nghiên
cứu của Lâm Nguyễn Nhã Trúc có điểm CLCS
ở bệnh nhân trước và sau chạy thận lần lượt là
12 điểm và 41 điểm và nghiên cứu của Lê Việt
Thắng có đểm CLCS ở nhóm bệnh nhân
nghiên cứu là 40,78 điểm(6,7). Điểm sức khỏe
tinh thần của bệnh nhân tham gia nghiên cứu
thấp hơn 7,7 điểm so với điểm sức khỏe thể
chất, điều này được lý giải bởi một số nguyên
nhân sau đây: trước tiên là cảm giác lo sợ bệnh
tật bởi những biểu hiện của bệnh trên chính cơ
thể của họ và thời gian điều trị lâu dài đòi hỏi
kiên trì nên dẫn đến tinh thần bệnh nhân giảm
sút; bên cạnh đó, những áp lực từ công việc,
gánh nặng chi phí điều trị và nhịp sống bận
rộn làm giảm sự quan tâm chăm sóc giữa các
thành viên gia đình và người bệnh, đặc biệt là
về mặt tinh thần; đồng thời, quan niệm về
bệnh mạn tính có thể cũng là một nguyên
nhân. Do đó, điểm sức khỏe tinh thần của
bệnh nhân thấp hơn điểm sức khỏe thể chất,
kết quả này phù hợp với kết quả trên nhóm
bệnh nhân điều trị giai đoạn bảo tồn trong
nghiên cứu của Hoàng Bùi Bảo thực hiện tại
bệnh viện Trung ương Huế và cũng tương
đương với nghiên cứu trên bệnh nhân suy
thận giai đoạn cuối ở Hàn Quốc(3,9).
Mối liên quan giữa điểm chất lượng cuộc
sống với các đặc tính mẫu
Bảng 5: Mối liên quan giữa điểm sức khỏe thể chất
với đặc tính mẫu
Đặc tính Sức khỏe thể chất
n TB ĐLC p
Nhóm tuổi*
20 – 29 27 49,5 6,9
0,07
30 – 39 46 45,8 5,4
40 – 49 98 46,4 9,2
50 – 59 109 36,2 7,7
60 – 81 39 37,9 6,8
Tình trạng hôn nhân
Sống một mình 78 47,7 8,4 0,09
Sống chung 241 46,0 7,6
Phân loại eGFR
(ml/phút/1,73m2)
Giai đoạn II (60-89) 12 48,2 9,7
0,14
Giai đoạn III(30-59) 37 48,9 7,6
Giai đoạn IV(15- 29) 50 46,4 8,2
Giai đoạn V (≤15) 218 45,8 7,6
Có sự khác biệt giữa các đối tượng ở các
nhóm tuổi khác nhau, tình trạng hôn nhân và
phân loại bệnh theo eGFR, tuy nhiên sự khác
biệt không có ý nghĩa thống kê. Có thể do cỡ
mẫu chưa đủ lớn để khẳng định các mối liên
quan này.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 478
Bảng 6: Mối liên quan giữa điểm sức khỏe tinh thần
với đặc tính mẫu và eGFR
Đặc tính Sức khỏe tinh thần
n TB ĐLC p
Nhóm tuổi*
20 – 29 27 42,4 10,1 0,02
30 – 39 46 38,8 10,1
40 – 49 98 40,7 12,5
50 – 59 109 36,2 10,7
60 – 81 39 37,9 9,6
Tình trạng hôn nhân
Sống một mình 78 43,7 11,1 0,001
Sống chung 241 37,1 10,7
Nơi cư trú
Tỉnh 215 37,7 10,1 0,04
Thành phố 104 40,7 12,9
Nghề nghiệp*
Lao động trí óc 59 41,4 12,5 0,004
Lao động tay chân 145 40,1 11,6
Khác (hưu/già) 115 35,5 9,1
Phân loại
eGFR(ml/ph/1,73m2)
Giai đoạn II (60-89) 12 30,7 2,5
0,03
Giai đoạn III(30-59) 37 40,3 10,7
Giai đoạn IV(15- 29) 50 40,8 12,7
Giai đoạn V (≤15) 218 38,4 11,0
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu càng lớn tuổi
thì điểm SKTT càng giảm, sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê với p = 0,02. Có thể do các bệnh
nhân lớn tuổi có sức khỏe thể chất kém hơn và họ
đồng thời nhận biết được điều này, ngoài ra việc
tạo ra gánh nặng tài chính cho con cháu cũng có
thể là nguyên nhân khiến đối tượng thuộc nhóm
lớn tuổi hơn dễ bị sa sút về mặt tinh thần.
Điểm SKTT trung bình ở người độc thân (43,7
± 11,1) cũng cao hơn những người đã có gia đình
(37,1 ± 10,7) và sự khác biệt này có ý nghĩa thống
kê với p= 0,001. Có thể do những áp lực tâm lý và
vật chất đã gây ảnh hưởng lên chất lượng cuộc
sống của đối tượng này về mặt tinh thần.
Những bệnh nhân ở tỉnh có điểm sức khỏe
tinh thần (37,7 ± 10,1) thấp hơn những người ở
thành phố Hồ Chí Minh (40,7 ± 12,9) và sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê với p= 0,04. Kết quả
này phù hợp với hoàn cảnh thực tế, do việc điều
trị xa nhà sẽ gây tốn kém về thời gian, chi phí,
đồng thời những bất an khi phải rời khỏi nơi ở
trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến cả sức
khỏe tinh thần và thể chất của đối tượng.
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về điểm
SKTT ở những đối tượng có nghề nghiệp khác
nhau (p = 0,004). Đối tượng lao động trí óc và lao
động chân tay có điểm SKTT cao hơn những
người đã về hưu/già. Mối liên quan này có thể bị
ảnh hưởng bởi tuổi của đối tượng.
Nhóm bệnh nhân giai đoạn II có điểm SKTT
thấp hơn so với nhóm có giai đoạn III, IV hoặc V
và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p =
0,03).
Mối tương quan giữa điểm chất lượng cuộc
sống với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều
trị và các chỉ số xét nghiệm
Bảng 7: Tương quan giữa điểm trung bình sức khoẻ
thể chất với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị và
các chỉ số xét nghiệm
Các yếu tố Hệ số KTC 95% p
Thời gian chẩn đoán (tháng) -0,04 -0,066 – -0,006 0,02
BUN (mg/dl) -0,03 -0,064 – -0,005 0,02
Creatinin (mg/dl) -0,19 -0,367 – -0,022 0,03
Kết quả cho thấy mối tương quan có ý nghĩa
thống kê giữa điểm sức khỏe thể chất với thời
gian chẩn đoán bệnh đến điều trị (p=0,02) và các
chỉ số xét nghiệm: BUN (p=0,02) và Creatinin (p
= 0,03).Khi thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị
tăng lên một tháng thì điểm sức khỏe thể chất
giảm 0,04 điểm. Khi chỉ số xét nghiệm BUN tăng
lên một đơn vị thì điểm sức khỏe thể chất giảm
0,03 điểm. Khi chỉ số xét nghiệm creatinin tăng
lên một đơn vị thì điểm sức khỏe thể chất giảm
0,19 điểm.
Bảng 8: Tương quan giữa điểm trung bình sức khoẻ
tinh thần với thời gian chẩn đoán bệnh đến điều trị và
các chỉ số xét nghiệm
Yếu tố Hệ số KTC 95% p
Thời gian chẩn
đoán (tháng) -0,09
(-0,127 –
-0,043) <0,001
BUN (mg/dl) -0,03 (-0,075 – 0,011) 0,14
Creatinin
(mg/dl) -0,02 (-0,269 – 0,229) 0,87
Kết quả cho thấy mối tương quan có ý nghĩa
thống kê giữa điểm sức khỏe thể chất và thời
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 479
gian chẩn đoán bệnh đến điều trị với p < 0,001.
Khi thời gian chẩn đoán tăng lên một tháng thì
điểm sức khỏe thể chất giảm 0,09 điểm. Những
triệu chứng thực thể của bệnh sẽ rõ ràng khi thời
gian chẩn đoán đến điều trị càng kéo dài và gây
cho bệnh nhân những cảm giác khó chịu, mệt
mỏi hoặc thiếu năng lượng trong quá trình tiến
triển của bệnh. Đồng thời, nhiều người có thể
cảm thấy buồn chán, thất vọng và bất lực, do đó
việc giữ được trạng thái tâm lý tích cực có vai trò
rất quan trọng đối với những bệnh nhân STM (1).
Vai trò phối hợp của các yếu tố nguy cơ và
điểm chất lượng cuộc sống
Bảng 9: Những yếu tố liên quan với điểm SF‐36 về
sức khoẻ thể chất
Các yếu tố Hệ số KTC 95% P
Có gia đình -1,88 (-3,89 – 0,12) 0,07
Công việc (LĐTO)
LĐTC -1,53 (-3,90 – 0,84) 0,20
Hưu/già -2,32 (-4,85 – 0,22) 0,07
Thời gian chẩn đoán -0,03 (-0,06 – 0,001) 0,06
Mức độ suy thận dựa
vào eGFR(MDRD) -1,38
(-2,42 – (-
0,34)) 0,01
Kết quả mô hình đa biến cho thấy, mối liên
quan có ý nghĩa thống kê giữa điểm sức khỏe
thể chất với mức độ suy thận dựa vào eGFR (p =
0,01). Khi mức độ suy thận tăng lên một giai
đoạn thì điểm sức khỏe thể chất của bệnh nhân
tham gia nghiên cứu giảm 1,38 điểm nếu các yếu
tố khác trong mô hình đa biến không thay đổi.
Như vậy những bệnh nhân có mức độ suy thận
càng cao thì sức khỏe thể chất càng giảm.
Kết quả mô hình đa biến cho thấy mối liên
quan không có ý nghĩa thống kê giữa điểm
SKTC với tình trạng hôn nhân, và thời gian chẩn
đoán (p > 0,05).
Bảng 10: Những yếu tố liên quan với điểm SF‐ 36 về
sức khoẻ tinh thần
Các yếu tố Hệ số KTC 95% P
Nơi cư trú (TP) -3,19 (-6,59 – 0,22) 0,07
Có gia đình -6,94 (-9,79 – -4,09) <0,001
Công
việc(LĐTO)
LĐTC -2,85 (-6,68 – 0,97) 0,14
Già/hưu -6,88 (-10,98 – -2,78) <0,05
Thời gian chẩn đoán -0,07 (-0,12 – -0,02) <0,05
Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa
điểm sức khỏe tinh thần với tình trạng hôn nhân
(p <0,001), công việc và thời gian chẩn đoán (p
<0,05). Những bệnh nhân đã lập gia đình có
điểm SKTT giảm 6,94 điểm khi các yếu tố khác
trong mô hình đa biến là hằng định. Nghĩa là
những người đã lập gia đình có sức khỏe tinh
thần (SKTT) kém hơn những người sống một
mình. Đối với những bệnh nhân đã về hưu/già
thì có điểm SKTT giảm 6,88 điểm nếu các yếu tố
khác trong mô hình đa biến không đổi. Như vậy,
những người về hưu/già thì có SKTT kém hơn
những người có nghề nghiệp là lao động trí óc.
Thời gian chẩn đoán đến điều trị tăng lên một
tháng thì điểm sức SKTT của bệnh nhân giảm
0,07 điểm khi các yếu tố khác trong mô hình đa
biến không thay đổi. Nghĩa là người bị bệnh
cách thời điểm nghiên cứu càng lâu thì sức khỏe
tinh thần càng giảm.
Các mối liên quan giữa điểm SKTT với nơi
cư trú của bệnh nhân tham gia nghiên cứu là
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
KẾT LUẬN
Điểm trung bình SF‐36 là 42,5 ± 8,1 điểm.
Trong đó, điểm trung bình sức khỏe thể chất và
tinh thần qua khảo sát bằng bộ câu hỏi SF‐36 lần
lượt là 46,4 ± 7,8 điểm và 38,7 ± 11,2 điểm.
Những yếu tố liên quan đến điểm sức khỏe thể
chất là: thời gian chẩn đoán suy thận đến điều
trị, chỉ số BUN và Creatinin. Những yếu tố liên
quan đến điểm SKTT là: tuổi, nghề nghiệp, tình
trạng hôn nhân, nơi cư trú, độ lọc cầu thận ước
đoán và thời gian chẩn đoán bệnh đến khi điều
trị của bệnh nhân.
Nghiên cứu này còn có một số hạn chế như:
mẫu nghiên cứu được chọn từ phòng khám nên
có thể gây bỏ sót mẫu và không thể khái quát
được quần thể đích, một số chỉ số lượng giá tình
trạng diễn tiến nặng chưa được thu thập đầy đủ.
Về điểm mới và tính ứng dụng: nghiên cứu đã
xác định được điểm CLCS của bệnh nhân giai
đoạn điều trị bảo tồn bằng thuốc, xác định được
một số yếu tố liên quan đến CLCS từ đó có
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014
Chuyên Đề Y Tế Công Cộng 480
những biện pháp can thiệp phù hợp để nâng cao
chất lượng cuộc sống và kéo dài tuổi thọ cho các
bệnh nhân suy thận mãn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agarwal SK, Dash SC, Irshad M, Raju S, Singh R, Pandey RM
(2005). Prevalence of chronic renal failure in adults in Delhi.
India. Nephrol Dial Transplant. 20 (8). 38‐42.
2. Dung DT, Ito J, et al (2008). Impact and perspective on chronic
kidney disease in an Asian developing country: a large‐scale
survey in North Vietnam. Nephron Clin Pract. 109: 25‐32.
3. Hoàng Bùi Bảo, Lê Hữu Lợi (2012). Nghiên cứu chất lượng
cuộc sống ở bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối. Tạp chí Y
Dược Học. 11: 22‐31.
4. Huỳnh Minh Trí (2003). Khảo sát tình hình thiếu máu trên
bệnh nhân suy thận mạn đang lọc thận nhân tạo định kỳ.
Luận văn CKI. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Tr.
56‐89.
5. Khoa Nội thần kinh – Bệnh viện Chợ Rẫy (2010). Thống kê số
lượng bệnh nhân suy thận mạn. Bệnh viện Chợ Rẫy. Thành
phố Hồ Chí Minh. Tr. 1‐2.
6. Lâm Nguyễn Nhã Trúc (2011). Đánh giá chất lượng sống của
bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối trước và giai đoạn
sớm sau chạy thận nhân tạo. Luận văn tốt nghiệp thạc sĩ y
học. Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh. Tr. 43‐52.
7. Lê Việt Thắng (2012). Khảo sát một số yếu tố liên quan đến
chất lượng cuộc sống bệnh nhân suy thận mạn tính chạy thận
nhân tạo chu kỳ bằng thang điểm SF‐36. Tạp chí Y học thực
hành. 1: 110‐115.
8. Mckercher MC, Venn AJ, Blizzard L, Nelson MR, Palmer AJ,
Ashby MA, Scott JL and Jose MD (2013). Psychosocial factors
in adults with chronic kidney disease: characteristics of pilot
participants in the Tasmanian Chronic Kidney Disease study.
BMC Nephrology. 1. 14‐83.
9. Seung SH, Ki WK, Ki YN, Dong WC, Yon SK, Suhnggwon K
and Ho JC (2009). Quality of life and mortality from a
nephrologistʹs view: a prospective observational study. BMC
Nephrology. 1. 1‐9.
10. Võ Tam (2010). Nghiên cứu đặc điểm về phát hiện và theo dõi
suy thận mạn ở một số xã đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế.
Truy cập
ngày 27/07/2012.
Ngày nhận bài báo: 13/5/2014
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 19/6/2014
Ngày bài báo được đăng: 14/11/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_suy_than_man_d.pdf