Đánh giá tương quan giữa chất lượng cuộc
sống với tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ số
BMI và mức độ hoạt động bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy không có sự
tương quan giữa điểm số trung bình sức khỏe thể
chất, sức khỏe tinh thần và tổng điểm sức khỏe với
tuổi mắc bệnh và thời gian mắc bệnh. Kết quả trên
tương tự với kết quả nghiên cứu của Wafa H. vs cs
(2012) [8]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Law L. và
cs (2018) tìm thấy mối liên quan giữa thời gian mắc
bệnh kéo dài và điểm số trung bình sức khỏe thể
chất – PCS tệ hơn [4].
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên
đa số bệnh nhân có chỉ số BMI trong giới hạn bình
thường (55,9%), thừa cân-béo phì chiếm tỉ lệ thấp
(11%), nhận thấy giữa sức khỏe thể chất, sức khỏe
tinh thần và tổng điểm sức khỏe với chỉ số khối cơ
thể - BMI có tương quan thuận với nhau mức độ
trung bình. Vài nghiên cứu nhận thấy tăng chỉ số BMI
có liên quan với triệu chứng bệnh nặng nề hơn, nhận
thức thấp hơn về tập luyện điều trị và đáp ứng kém
hơn với Infliximab [2], [5]. Tuy nhiên, các nghiên cứu
này thực hiện trên đa số bệnh nhân thừa cân béo
phì, cỡ mẫu còn nhỏ chưa có ý nghĩa lớn. Do đó, cần
có các nghiên cứu quy mô lớn, sâu rộng hơn.
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy mối tương
quan nghịch mức độ mạnh-rất mạnh giữa điểm
trung bình sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và
tổng điểm sức khỏe với chỉ số BASDAI và thang điểm
ASDAS-CRP.
Nhiều nghiên cứu cũng nhận thấy mối tương
quan hết sức chặt chẽ giữa điểm số các lĩnh vực sức
khỏe của bộ câu hỏi SF – 36 và mức độ hoạt động
bệnh, dù đánh giá bằng chỉ số BASDAI hay thang
điểm ASDAS – CRP [4], [12]. Hay nói cách khác, mức
độ hoạt động bệnh là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân viêm
cột sống dính khớp, bệnh hoạt động càng mạnh thì
chất lượng cuộc sống càng thấp. Điều trị đặc hiệu
với các thuốc DMARDs sinh học, tập VLTL – PHCN
sớm giúp giảm mức độ hoạt động bệnh, cải thiện
chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 12 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp bằng bộ câu hỏi SF-36, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoàng Thanh Vân, email: nghoangthanhvan@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/3/2019, Ngày đồng ý đăng: 24/3/2019; Ngày xuất bản: 25/4/2019
NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG Ở BỆNH NHÂN 
VIÊM CỘT SỐNG DÍNH KHỚP BẰNG BỘ CÂU HỎI SF-36
Nguyễn Hoàng Thanh Vân, Võ Thị Thùy Liên 
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Viêm cột sống dính khớp là viêm khớp mạn tính thường gặp, ảnh hưởng chủ yếu lên khớp 
cùng chậu, cột sống, tiến triển nặng dần dẫn tới dính khớp, giảm hoặc mất chức năng vận động cột sống, ảnh 
hưởng nặng nề chất lượng cuộc sống. Bộ câu hỏi SF-36 rất hữu ích trong đánh giá chất lượng cuộc sống, theo 
dõi kết cục lâm sàng và hiệu quả điều trị viêm cột sống dính khớp. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá 
chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp và mối tương quan với một số yếu tố lâm sàng. 
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả, cắt ngang trên 34 bệnh nhân viêm cột sống dính 
khớp thỏa mãn Tiêu chuẩn New York sửa đổi 1984, được đánh giá bằng bộ câu hỏi SF-36. Kết quả: Chất lượng 
cuộc sống chủ yếu ở mức trung bình (82,4%) và thấp (17,6%). Điểm trung bình sức khỏe thể chất, sức khỏe 
tinh thần và tổng điểm sức khỏe lần lượt là: 36,48 ± 17,89, 48,79 ± 18,49 và 42,66 ± 17,52 điểm. Chất lượng 
cuộc sống có mối tương quan đáng kể với mức độ hoạt động bệnh, chỉ số khối cơ thể và không tương quan 
với tuổi mắc bệnh và thời gian mắc bệnh. Kết luận: Viêm cột sống dính khớp ảnh hưởng lên mọi lĩnh vực sức 
khỏe của chất lượng cuộc sống, sức khỏe thể chất bị ảnh hưởng nhiều hơn sức khỏe tinh thần.
Từ khóa: Viêm cột sống dính khớp, chất lượng cuộc sống liên quan sức khỏe, bộ câu hỏi SF-36.
Abstract 
THE HEALTH-RELATED QUALITY OF LIFE IN PATIENTS WITH 
ANKYLOSING SPONDYLITIS ASSESSED BY SF-36
Nguyen Hoang Thanh Van, Vo Thi Thuy Lien
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Background: Ankylosing spondylitis is a chronic arthritis primarily affecting the sacroiliac joints and 
spine, progressively progressing decrease or loss of spine mobility, severely influences the quality of life. The 
SF-36 questionnaire is useful in assessing quality of life, monitoring clinical outcomes and effectiveness of 
treament of ankylosing spondylitis. This study aims to assess the quality of life in patients with ankylosing 
spondylitis and investigate its correlation with clinical factors. Method: In this cross-sectional study, included 
34 ankylosing spondylitis patients who were diagnosed according to the modified New York 1984 criteria. 
The health status was assessed by using the SF-36 questionnaire. Results: The patients with ankylosing 
spondylitis had average quality of life (82.4%) and low (17.6%). The mean physical component summary 
score, mental component summary and SF-36 score was: 36.48 ± 17.89, 48.79 ± 18.49 and 42.66 ± 17.52. 
There was significant correlation with disease activity, the body mass index and no correlation with age at 
diagnosis, duration of disease. Conclusions: The patients with ankylosing spondylitis is had significantly low 
SF-36 scores in all domains. The physical component summary score was more affected than the mental 
component summary score.
Key words: Ankylosing spondylitis, the health-related quality of life, the SF-36 questionnaire.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm cột sống dính khớp (VCSDK) là một bệnh 
viêm khớp mạn tính thường gặp, thuộc nhóm bệnh 
lý viêm cột sống và liên quan chặt chẽ với kháng 
nguyên HLA-B27. VCSDK thường gặp ở những người 
trẻ tuổi, tuổi khởi phát bệnh thường 15 - 35 tuổi, 
tỷ lệ nam: nữ khoảng 3:1. Trong VCSDK, 50% tiến 
triển liên tục, 10% là thể tiến triển nhanh. Xu hướng 
chung là bệnh tiến triển nặng dần dẫn đến dính 
khớp, biến dạng khớp. Nếu không được điều trị, 
hoặc kiểm soát không tốt sẽ dẫn tới cứng khớp kéo 
dài và mất vận động cột sống, bệnh nhân có nhiều 
tư thế xấu, tàn phế [3]. Việc điều trị ngày nay tuy 
đã có nhiều tiến bộ, tuy nhiên thuốc nhiều tác dụng 
phụ, thời gian kéo dài, chi phí điều trị cao làm ảnh 
hưởng nặng nề thêm chất lượng cuộc sống (CLCS) 
DOI: 10.34071/jmp.2019.2.11
64
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
của bệnh nhân, tăng gánh nặng xã hội. Do đó, đánh 
giá CLCS được xem như là một phần thiết yếu đánh 
giá tổng quát tình trạng sức khỏe của bệnh nhân, 
cung cấp các thông tin và có vai trò quan trọng trong 
các quyết định liên quan đến điều trị cho bệnh nhân. 
Khuyến cáo hiện tại của ACR/EULAR năm 2016 nhấn 
mạnh tối đa hóa chất lượng cuộc sống liên quan đến 
sức khỏe là mục tiêu chủ yếu khi điều trị VCSDK [7].
Theo WHO “Chất lượng cuộc sống là sự nhận 
thức của một cá nhân về tình trạng hiện tại của cá 
nhân đó theo những chuẩn mực về văn hóa và những 
giá trị của xã hội mà họ đang sống; những nhận 
thức này gắn liền với mục tiêu, kỳ vọng và những 
mối quan tâm của họ. Chất lượng cuộc sống mang 
tính chủ quan, thay đổi theo từng cá nhân và môi 
trường sống của họ. Đó là một khái niệm rộng lớn, 
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố phức tạp về sức khỏe 
thể chất, trạng thái tâm lí, mức độ độc lập, mối quan 
hệ xã hội, niềm tin và mối quan hệ của họ với các 
đặc điểm nổi bật của môi trường sống”, đây cũng 
là các yếu tố then chốt của CLCS [10], [11]. Mục tiêu 
của hệ thống chăm sóc sức khỏe là tối đa các yếu tố 
then chốt của CLCS, cụ thể là tình trạng sức khỏe. 
Để tập trung hơn vào CLCS chịu ảnh hưởng của tình 
trạng sức khỏe, thuật ngữ “Chất lượng cuộc sống 
liên quan đến sức khỏe” (Health Related Quality of 
Life – HRQoL) được ra đời [11]. Chính bản chất phức 
tạp, chủ quan và luôn thay đổi về CLCS đã trở thành 
một thách thức cho ra đời nhiều công cụ lượng giá 
và giải thích nó [1].
Dù có nhiều thang điểm dành riêng cho VCSDK 
như ASQoL, EASi-QoL, PGI-AS có thể nhạy hơn để 
đánh giá tình trạng lâm sàng, hiệu quả điều trị. Tuy 
nhiên, nó có thể không đánh giá được tất cả các 
mối quan tâm của bệnh nhân về CLCS. Thang điểm 
tổng quát SF – 36 rất hữu ích để đánh giá gánh nặng 
bệnh tật và so sánh với dân số chung, giúp giải thích 
những thay đổi CLCS liên quan đến điều trị hoặc 
tiến triển của bệnh, giúp bác sĩ và bệnh nhân xác 
định phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho bệnh 
VCSDK [4], [6]. 
Bộ câu hỏi SF-36 được phát triển bởi nhóm Ng-
hiên cứu Y tế - MOS thuộc tập đoàn RAND, gồm 8 
yếu tố về sức khỏe: hoạt động thể chất – PF; các hạn 
chế do sức khỏe thể chất – RP; các hạn chế do vấn 
đề cảm xúc – RE; sinh lực – VT; tình trạng tinh thần – 
MH; chức năng xã hội – SF; cảm giác đau - BP; tình 
trạng sức khỏe chung – GH. Hợp thành hai thành 
phần chính là sức khỏe thể chất – PCS và sức khỏe 
tinh thần – MCS [6], [9]. Từ lâu, bộ câu hỏi SF-36 
đã được sử dụng để đo lường CLCS của bệnh nhân 
VCSDK ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Nghiên cứu của Yang và cộng sự (cs) (2016) trên 
7903 bệnh nhân, điểm sức khỏe thể chất trong 
khoảng 45,93 đến 58,17 điểm, và sức khỏe tinh thần 
trong khoảng 47,49 đến 62,52 điểm [12]. Nghiên 
cứu của Law L. và cs (2018) trên 210 bệnh nhân điểm 
trung bình của sức khỏe thể chất là 42,4 điểm, sức 
khỏe tinh thần là 47,9 [4]. Như vậy, nhiều nghiên 
cứu nhận thấy VCSDK ảnh hưởng lên tất cả các lĩnh 
vực của sức khỏe, trong đó sức khỏe thể chất bị ảnh 
hưởng nặng nề hơn sức khỏe tinh thần. Tuy nhiên, 
chưa tìm thấy nghiên cứu nào đánh giá CLCS ở bệnh 
nhân VCSDK sử dụng bộ câu hỏi SF-36 ở Việt Nam. 
Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chất 
lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm cột sống dính 
khớp bằng bộ câu hỏi SF-36” với hai mục tiêu:
1. Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân 
viêm cột sống dính khớp.
2. Khảo sát mối tương quan giữa mức độ hoạt 
động bệnh, tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ 
số khối cơ thể với chất lượng cuộc sống của bệnh 
nhân.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
34 bệnh nhân VCSDK được điều trị tại khoa Nội 
Thận – Cơ xương khớp Bệnh viện Trung ương Huế và 
khoa Nội Tổng hợp – Nội tiết Bệnh viện Trường Đại 
học Y Dược Huế từ tháng 5/2018 đến tháng 2/2019.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh
- Bệnh nhân nội trú được chẩn đoán VCSDK theo 
tiêu chuẩn New York sửa đổi 1984 [7].
- Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân có tiền sử hoặc hiện tại mắc các 
bệnh viêm khớp mạn tính (gut, viêm khớp dạng 
thấp, viêm khớp vảy nến), bệnh thấp tự miễn dịch 
khác (ví dụ Lupus ban đỏ hệ thống), rối loạn tâm 
thần kinh.
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt 
ngang, mô tả.
2.2.2. các biến số nghiên cứu
- Tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ số BMI
- Đánh giá mức độ hoạt động bệnh thông qua 
chỉ số BASDAI và thang điểm ASDAS-CRP: bệnh 
nhân trả lời theo bộ câu hỏi BASDAI và ASDAS-CRP. 
Sau đó chúng tôi sẽ tổng hợp và chấm điểm cho 
từng bệnh nhân.
Chỉ số BASDAI từ 0 đến 10 điểm, khi BASDAI ≥ 4 
điểm, bệnh được gọi là đang trong giai đoạn hoạt 
động.
Thang điểm ASDAS-CRP được đánh giá như sau:
+ ASDAS-CRP < 1,3 điểm: bệnh không hoạt động
65
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
+ 1,3 ≤ ASDAS-CRP < 2,1 điểm: bệnh hoạt động 
trung bình
+ 2,1 ≤ ASDAS-CRP ≤ 3,5 điểm: bệnh hoạt động 
mạnh
+ ASDAS-CRP > 3,5 điểm: bệnh hoạt động rất 
mạnh 
- Đánh giá CLCS tại thời điểm nghiên cứu thông 
qua bộ câu hỏi SF-36. Gồm 36 câu hỏi với 8 yếu tố 
về sức khỏe được hợp thành hai thành phần chính 
là sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. Cách cho 
điểm của bộ câu hỏi SF-36: điểm càng cao thì xác 
định tình trạng sức khỏe càng tốt. Mỗi câu trả lời 
đều có điểm số thay đổi từ 0 đến 100. Sau đó tính 
điểm trung bình của 8 lĩnh vực sức khỏe và điểm 
trung bình của thành phần sức khỏe thể chất và sức 
khỏe tinh thần:
Bảng 2.1. Các lĩnh vực sức khỏe được đánh giá trong bộ câu hỏi SF-36
Lĩnh vực sức khỏe Câu hỏi Số lượng Thành phần
Hoạt động thể chất 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 10
Sức khỏe
thể chất
Hạn chế do sức khỏe thể chất 13, 14, 15, 16 4
Cảm giác đau 21, 22 2
Tình trạng sức khỏe chung 1, 33, 34, 35, 36 5
Hạn chế do vấn đề cảm xúc 17, 18, 19 3
Sức khỏe
tinh thần
Sinh lực 23, 27, 29, 31 4
Tình trạng tinh thần 24, 25, 26, 28, 30 5
Chức năng xã hội 20, 32 2
Nguồn: Theo The rAND 36 – Item Health Survey (2016).
Tổng điểm sức khỏe SF-36 là trung bình cộng của 
hai điểm sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần. 
CLCS của bệnh nhân VCSDK theo bộ câu hỏi SF-36 
được đánh giá như sau:
+ ≤ 25 điểm: CLCS thấp
+ 25 – 75 điểm: CLCS trung bình
+ ≥ 75 điểm: CLCS cao [12]
2.3. Xử lí số liệu
Các số liệu thu thập được nhập và phân tích theo 
thuật toán thống kê trên máy vi tính, sử dụng phần 
mềm SPSS 20.0. Sử dụng Microsoft Word 2010 để 
soạn thảo văn bản, vẽ bảng biểu.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung của các đối tượng nghiên 
cứu: Bệnh nhân đa số là nam giới, tỷ lệ nam/nữ = 
4/1; Tuổi mắc bệnh trung bình: 24,57 ± 7,97 tuổi; 
Thời gian mắc bệnh trung bình: 4,76 ± 6,14 năm; Chỉ 
số BMI trung bình: 19,92 ± 2,66 kg/m2.
3.2. Chất lượng cuộc sống của các đối tượng 
nghiên cứu bằng bộ câu hỏi SF-36.
Điểm sức khỏe thể chất (PCS) trung bình: 36,48 
± 17,89 điểm; Điểm sức khỏe tinh thần (MCS) trung 
bình: 48,79 ± 18,49 điểm; Tổng điểm sức khỏe trung 
bình: 42,66 ± 17,52 điểm
Biểu đồ 3.1. Đặc điểm chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm cột sống dính khớp
Nhận xét: Điểm từng lĩnh vực sức khỏe ở mức trung bình. Sức khỏe thể chất bị ảnh hưởng nhiều hơn sức 
khỏe tinh thần.
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo chất lượng cuộc sống
Tổng điểm sức khỏe (điểm) N Tỷ lệ (%)
≤ 25 6 17,6
25 – 75 28 82,4
≥ 75 0 0
Tổng 34 100
Nhận xét: Chất lượng sống của bệnh nhân viêm cột sống dính khớp chủ yếu ở mức trung bình, chiếm 
82,4%.
3.3. Đánh giá tương quan giữa chất lượng cuộc sống với tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ số khối 
cơ thể - BMI, mức độ hoạt động bệnh
Bảng 3.2. Tương quan chất lượng cuộc sống với tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ số BMI
SF-36
Yếu tố
Sức khỏe thể chất
(điểm)
Sức khỏe tinh thần
(điểm)
Tổng điểm sức khỏe
(điểm)
Tuổi mắc bệnh 0,252 (0,144) 0,268 (0,119) 0,27 (0,116)
Thời gian mắc bệnh 0,238 (0,169) 0,109 (0,532) 0,178 (0,306)
Chỉ số BMI 0,546 (0,001) 0,455 (0,006) 0,517 (0,001)
Nhận xét: Không có mối tương quan giữa chất lượng cuộc sống với tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh. 
Điểm chất lượng cuộc sống với chỉ số BMI có tương quan thuận mức độ trung bình.
Bảng 3.3. Tương quan giữa chất lượng cuộc sống với thang điểm ASDAS-CRP
SF-36 (điểm) ASDAS-CRP (điểm) r (p)
Sức khỏe thể chất 36,48 ± 17,89
3,35 ± 1,48
- 0,679 (0,000)
Sức khỏe tinh thần 48,79 ± 18,49 - 0,571 (0,000)
Tổng điểm sức khỏe 42,66 ± 17,52 - 0,645 (0,000)
Nhận xét: Có mối tương quan nghịch mức độ mạnh giữa sức khỏe thể chất, tổng điểm sức khỏe với điểm 
ASDAS – CRP, và tương quan nghịch mức độ trung bình giữa sức khỏe tinh thần và điểm ASDAS – CRP.
Bảng 3.4. Tương quan giữa chất lượng cuộc sống và chỉ số BASDAI
SF-36 (điểm) BASDAI (điểm) r (p)
Sức khỏe thể chất 36,48 ± 17,89
3,82 ± 1,55
- 0,85 (0,000)
Sức khỏe tinh thần 48,79 ± 18,49 - 0,80 (0,000)
Tổng điểm sức khỏe 42,66 ± 17,52 - 0,86 (0,000)
Nhận xét: Có mối tương quan nghịch mức độ rất mạnh giữa sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần, tổng 
điểm sức khỏe và chỉ số BASDAI.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đánh giá chất lượng cuộc sống nhóm bệnh 
nhân nghiên cứu bằng bộ câu hỏi SF-36.
Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lượng cuộc 
sống giảm nhiều ở tất cả các lĩnh vực sức khỏe. Tổng 
điểm sức khỏe trung bình là 42,66 ± 17,52 điểm, 
tương đương chất lượng cuộc sống ở mức trung 
bình, chiếm 82,4% trong nghiên cứu của chúng tôi, 
17,6% mức thấp và không có bệnh nhân nào có chất 
lượng cuộc sống mức cao. Kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi tương tự với Yang X. và cs (2016) tổng 
điểm sức khỏe trung bình là 41,09 điểm [12], Law L. 
và cs (2018) 45,2 điểm [4]. Lĩnh vực hạn chế do sức 
khỏe thể chất có điểm thấp nhất trong thành phần 
sức khỏe thể chất, và lĩnh vực sinh lực là thấp nhất 
trong thành phần sức khỏe tinh thần, kết quả nghiên 
cứu chúng tôi tương tự với nghiên cứu của Yang X. 
và cs (2016) [12]. VCSDK ảnh hưởng lên mọi lĩnh vực 
sức khỏe, nhưng chủ yếu là lên sức khỏe thể chất 
của bệnh nhân. Chúng ta đã biết, đau và cứng khớp 
là triệu chứng chính của VCSDK, 50% bệnh tiến triển 
liên tục, dẫn tới dính khớp, biến dạng khớp, giảm 
dần mức độ vận động cột sống [3]. Đau mạn tính 
gây ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của CLCS, sức khỏe 
thể chất bị ảnh hưởng bởi cơn đau nặng nề hơn sức 
khỏe tinh thần. Trong khi đó, sức khỏe tinh thần 
thường liên quan đến sự lo lắng, trầm cảm và cảm 
nhận, hạnh phúc của từng bệnh nhân [12]. Khi chức 
năng vận động giảm sút , mức độ hoạt động bệnh 
cao, đau nhiều sẽ làm bệnh nhân mệt mỏi, hạn chế 
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 2 - tháng 4/2019
giao tiếp, tham gia các hoạt động xã hội. Kết quả ng-
hiên cứu của chúng tôi ở lĩnh vực sức khỏe tinh thần 
đều thấp hơn có ý nghĩa so với các nghiên cứu ngoài 
nước, điều này cho thấy bệnh nhân VCSDK ở Việt 
Nam có mức hoạt động xã hội thấp hơn, môi trường 
giao tiếp hạn chế, ít tham gia các câu lạc bộ, nhóm 
đặc biệt các nhóm tập luyện phục hồi chức năng. 
4.2. Đánh giá tương quan giữa chất lượng cuộc 
sống với tuổi mắc bệnh, thời gian mắc bệnh, chỉ số 
BMI và mức độ hoạt động bệnh.
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy không có sự 
tương quan giữa điểm số trung bình sức khỏe thể 
chất, sức khỏe tinh thần và tổng điểm sức khỏe với 
tuổi mắc bệnh và thời gian mắc bệnh. Kết quả trên 
tương tự với kết quả nghiên cứu của Wafa H. vs cs 
(2012) [8]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của Law L. và 
cs (2018) tìm thấy mối liên quan giữa thời gian mắc 
bệnh kéo dài và điểm số trung bình sức khỏe thể 
chất – PCS tệ hơn [4].
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 
đa số bệnh nhân có chỉ số BMI trong giới hạn bình 
thường (55,9%), thừa cân-béo phì chiếm tỉ lệ thấp 
(11%), nhận thấy giữa sức khỏe thể chất, sức khỏe 
tinh thần và tổng điểm sức khỏe với chỉ số khối cơ 
thể - BMI có tương quan thuận với nhau mức độ 
trung bình. Vài nghiên cứu nhận thấy tăng chỉ số BMI 
có liên quan với triệu chứng bệnh nặng nề hơn, nhận 
thức thấp hơn về tập luyện điều trị và đáp ứng kém 
hơn với Infliximab [2], [5]. Tuy nhiên, các nghiên cứu 
này thực hiện trên đa số bệnh nhân thừa cân béo 
phì, cỡ mẫu còn nhỏ chưa có ý nghĩa lớn. Do đó, cần 
có các nghiên cứu quy mô lớn, sâu rộng hơn. 
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy mối tương 
quan nghịch mức độ mạnh-rất mạnh giữa điểm 
trung bình sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và 
tổng điểm sức khỏe với chỉ số BASDAI và thang điểm 
ASDAS-CRP. 
Nhiều nghiên cứu cũng nhận thấy mối tương 
quan hết sức chặt chẽ giữa điểm số các lĩnh vực sức 
khỏe của bộ câu hỏi SF – 36 và mức độ hoạt động 
bệnh, dù đánh giá bằng chỉ số BASDAI hay thang 
điểm ASDAS – CRP [4], [12]. Hay nói cách khác, mức 
độ hoạt động bệnh là một yếu tố quan trọng ảnh 
hưởng đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân viêm 
cột sống dính khớp, bệnh hoạt động càng mạnh thì 
chất lượng cuộc sống càng thấp. Điều trị đặc hiệu 
với các thuốc DMARDs sinh học, tập VLTL – PHCN 
sớm giúp giảm mức độ hoạt động bệnh, cải thiện 
chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.
5. KẾT LUẬN
Chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân viêm cột 
sống dính khớp chủ yếu ở mức trung bình, chiếm 
82,4%, 17,6% ở mức thấp và không có bệnh nhân 
nào có chất lượng cuộc sống mức cao.
Viêm cột sống dính khớp ảnh hưởng lên mọi lĩnh 
vực sức khỏe của chất lượng cuộc sống, nhưng ảnh 
hưởng chủ yếu là lên sức khỏe thể chất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Carr A.J., Higginson I.J., Robinson P.G. (2005), 
“Quality of life”, The European Journal of Public Health, 
15(6), pp. 668.
2. Durcan L., Wilson F., Conway R., Cunnane G., O’Shea 
FD. (2012) “Increased body mass index in ankylosing spon-
dylitis is associated with greater burden of symptoms and 
poor perceptions of the benefits of exercise”, J rheumatol, 
39(12), pp. 2310-2314. 
3. Kelley, Firestein’s Textbook of Rheumatology (2016), 
10th, Elservier.
4. Law L., Beckman Rehnman J., et al. (2018), “Factors 
related to health-related quality of life in ankylosing 
spondylitis, overall and stratified by sex”, Arthritis 
research & Therapy., 20(1), pp.284.
5. Ottaviani S., Allanore Y., et al. (2012), “Body mass 
index influences the response to infliximab in ankylosing 
spondylitis”, Arthritis research & Therapy, No.14(3), R115.
6. RAND (2016), “36-Item Short Form Survey (SF-
36) Scoring Instructions”, RAND Corporation, Retrieved 
12 February 2016, from: https://www.rand.org/health/
surveys_tools/mos/36-item-short-form/scoring.html
7. Van Der Heijde D., et al. (2017), “2016 update of 
the ASAS-EULAR management recommendations for axial 
spondyloarthritis”, Ann rheum Dis, 76(6), pp. 978-991.
8. Wafa H., et al. (2012), “Health-related Quality of Life 
Assessment on 100 Tunisian Patients with Ankylosing Spon-
dylitis using the SF-36 Survey”, The Oman Medical Journal, 
No.27(6), pp. 455-460.
9. Ware J.E.Jr., Gandeka B. (1998), “Overview of 
the SF-36 Health Survey and the International Quality 
of Life Assessment (IQOLA) Project”, Journal of Clinical 
Epidemiology, 51(11), pp. 903-912.
10. World Health Organisation, “Introducing the 
WHOQOL instruments”, WHOQOL: Measuring Quality of 
Life, Retrieved 11 February, 2016, from: 
int/healthinfo/survey/whoqol-qualityoflife/en/
11. World Health Organisation. “The Structure of the 
WHOQOL-100”. WHOQOL: Measuring Quality of Life. 
Retrieved 11 February, 2016, from: 
healthinfo/survey/whoqol-qualityoflife/en/index4.html
12. Yang X., Fan D., et al. (2016), “The health-related 
quality of life of ankylosing spondylitis patients assessed 
by SF-36: a systematic review and meta-analysis”, Qual 
Life res, 25(11), pp. 2711-2723.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_chat_luong_cuoc_song_o_benh_nhan_viem_cot_song_di.pdf