Phân tích thành phần hóa học và vi sinh của
sản phẩm cơm xốp ăn liền dạng miếng
Kết quả phân tích thành phần hóa học ở bảng 4
cho thấy sản phẩm cơm xốp ăn liền dạng miếng có
độ ẩm thấp 5,7% thuận lợi cho quá trình bảo quản.
Hàm lượng lipid khá cao (24,2%), cung cấp nhiều
năng lượng cho cơ thể hoạt động. Hàm lượng đường
tổng tương đối thấp (6%) thích hợp cho người ít ăn
ngọt. Hàm lượng protein (12%), khoáng (1,4%) cao,
cung cấp nhiều giá trị dinh dưỡng. Đặc biệt, sản
phẩm có hàm lượng anthocyanin cao tạo màu đặc
trưng cho sản phẩm, đồng thời là hợp chất chống
oxy hóa, ngăn ngừa bệnh.
Sản phẩm cơm xốp ăn liền có độ ẩm thấp nên vi
sinh vật khó phát triển. Kết quả phân tích các chỉ
tiêu vi sinh sau 6 tháng bảo quản như sau: Tổng số
vi sinh vật hiếu khí: 3,3.102; Coliforms, Staphylococus
aureus, Clostridium perfringens, Bacillus cereus, tổng
số bào men mốc, E. coli đều không có. Kết quả này
nằm trong giới hạn cho phép theo QĐ số 46/2007/
QĐ - BYT về quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh
học và hóa học trong thực phẩm.
IV. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy sản phẩm cơm xốp
ăn liền dạng miếng làm từ gạo Cẩm Cai Lậy có chất
lượng cao và giá trị cảm quan tốt khi sử dụng lượng
nước gấp 3 lần lượng gạo đem nấu, sấy ở nhiệt 65oC
trong 120 phút, bổ sung 20% maltodextrin và 10%
mạch nha. Sản phẩm có hàm lượng protein, lipid,
chất khoáng và anthocyanin cao. Đặc biệt, sản phẩm
đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm sau 6 tháng
bảo quản.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chế biến cơm xốp ăn liền dạng miếng từ gạo cẩm Cai Lậy, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
105
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
NGHIÊN CỨU CHẾ BIẾN CƠM XỐP ĂN LIỀN
DẠNG MIẾNG TỪ GẠO CẨM CAI LẬY
Lê Thị Kim Loan1, Võ Thị Thu Thảo1, Lê Hữu Hải1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm “Cơm xốp ăn liền dạng miếng từ gạo cẩm” vừa đảm bảo tính tiện lợi nhưng
vẫn đảm bảo giá trị dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở khảo sát ảnh hưởng
của tỷ lệ gạo và nước trong quá trình nấu, nhiệt độ sấy đến cấu trúc sản phẩm; tỷ lệ maltodextrin - mạch nha bổ
sung vào trong quá trình tạo hình. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi sử dụng tỷ lệ gạo và nước là 1 : 3, sấy ở nhiệt độ
65oC và bổ sung 20% maltodextrin kết hợp với 10% mạch nha tạo ra sản phẩm cơm xốp ăn liền giòn, xốp, giữ được
hình dạng đồng đều. Sản phẩm cơm xốp ăn liền có giá trị dinh dưỡng cao với hàm lượng protein (12%), chất khoáng
(1,4%), anthocyanin (10,6 mg/kg). Sau 6 tháng bảo quản, sản phẩm vẫn đảm bảo tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.
Từ khóa: Cấu trúc, chất kết dính, cơm xốp ăn liền, nấu, sấy
Efficiency of additional release of Trichogramma chilonis in Tay Ninh province
Phạm Tan Hung, Nguyen Van Hoa, Nguyen Thi Tu Trinh,
Dinh Thi Ngoc Dung, Cao Anh Duong, Tran Van Son, Nguyen Thi Tan
Abstract
This study was carried out in Tay Ninh province by large-scale designing without replication. The control was
sugarcane fields without release of Trichogramma chilonis. The result showed that the additional release of
Trichogramma chilonis with 50,000 parasitoids/ha/time, 6 releasing times, 7 days intervals from April to July, 2017
was high efficiency in stem borers prevention. The Trichogramma chilonis release reduced 0.42% infected canes
and 0.3% infected nodes compared with the control. Therefore, the profit was higher than that of the control
(5,597,000 VND/ha) and the profitable rate increased by 7.78%
Keywords: Sugarcane, borer, Trichogramma chilonis
Ngày nhận bài: 20/3/2019
Ngày phản biện: 3/4/2019
Người phản biện: TS. Trần Thị Mỹ Hạnh
Ngày duyệt đăng: 15/4/2019
1 Khoa Nông nghiệp và Công nghệ Thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gạo (Oryza sativa L.) là một trong những nguồn
lương thực quan trọng nuôi sống hơn 50% dân số
thế giới, đặc biệt là ở châu Á (Thuengtung et al.,
2018). Gạo lứt chứa nhiều thành phần dinh dưỡng
hơn so với gạo đã xát trắng, một số thành phần trong
gạo lứt như chất xơ hòa tan, vitamin, gamma-amino
butyric acid (GABA) và gamma-oryzanol có thể
ngăn ngừa và điều trị một số bệnh (Wu et al., 2013).
Việc nghiên cứu, lai tạo ra nhiều giống lúa mới có
hàm lượng dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của con
người luôn luôn được nhà nước và các nhà khoa học
quan tâm. Một trong những giống lúa được chọn tạo
thành công và trồng phổ biến ở Tiền Giang là giống
lúa Cẩm Cai Lậy.
Lúa Cẩm Cai Lậy là loại lúa đặc sản của tỉnh Tiền
Giang được Cục Trồng trọt của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn “công nhận giống cây
trồng mới” theo quyết định số 387/QĐ-CTT ngày
17/8/2012. Một số đặc tính của giống lúa Cẩm: thời
gian sinh trưởng ngắn 80 - 85 ngày, chiều cao cây
từ 87 - 93 cm, khả năng đẻ nhánh khá, giống kháng
tốt đối với bệnh cháy lá. Về giá trị dinh dưỡng, gạo
Cẩm Cai Lậy có hàm lượng protein khá cao 9,8%,
chất xơ hòa tan 2,73 mg/100 g, canxi 137,7 mg/100 g,
kali 2520 mg/kg, magie 1413 mg/kg, 66,4 mg/100 g
anthocyanin (Lê Hữu Hải, 2012). Đặc biệt,
anthocyanin là hợp chất có nhiều hoạt tính sinh
học quý như: chống dị ứng, chống các tia phóng xạ,
chống viêm, chống vi khuẩn, chống đông huyết và
có tác dụng bảo vệ tim mạch. Anthocyanins không
có độc tính và không có bất kỳ giới hạn tối đa cho
các ứng dụng trong thực phẩm (Dương Thị Phượng
Liên và Nguyễn Nhật Minh Phương, 2014).
Với nhịp sống công nghiệp hối hả, bận rộn khiến
nhiều người không còn đủ thời gian để chăm lo
cho bản thân cũng như gia đình bằng những bữa
ăn truyền thống. Chính vì vậy, thực phẩm ăn liền
hay thức ăn nhanh không chỉ là sự lựa chọn tình thế
106
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
mà đôi lúc đã trở thành lựa chọn chính cho những
bữa ăn bởi sự tiện lợi của nó. Nhu cầu sử dụng thực
phẩm ăn liền ngày càng lớn cho thấy dòng sản phẩm
này đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống hằng
ngày của người dân. Với sản phẩm “cơm xốp ăn liền
dạng miếng” góp phần đa dạng hóa các sản phẩm ăn
liền vừa đảm bảo tính tiện lợi nhưng vẫn đảm bảo
giá trị dinh dưỡng và an toàn thực phẩm theo đúng
xu hướng tiêu dùng trong tương lai.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Nguyên liệu chính: Lúa Cẩm được thu hoạch tại
huyện Cai Lậy, phơi khô đến độ ẩm < 13%. Lúa được
bóc vỏ trấu (tạo gạo lức) bằng máy xay Satake, đóng
gói trong bao polyamide (PA), tồn trữ 4oC.
- Nguyên liệu phụ: Mè trắng, hạt điều, nho khô,
đường tinh luyện, nước mắm, mạch nha, khóm sấy
được mua trong siêu thị.
- Hóa chất: maltodextrin của Công ty TNHH
Brenntag Việt Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Các bước thực hiện
Gạo lức lấy ra từ tủ bảo quản được để ổn định
4 giờ. Lượng gạo lức được sử dụng cho mỗi mẫu thí
nghiệm là 200 g. Sau đó, làm sạch, loại bỏ tạp chất,
nấu nhằm hồ hóa và chín tinh bột. Cơm sau khi nấu
được làm nguội, sấy ở các nhiệt độ khác nhau đến độ
ẩm < 13%. Cơm sấy được tiếp tục chiên trong thiết
bị chiên chân không. Cơm sau khi chiên cho vào
hỗn hợp chất kết dính, định hình trong khuôn, bổ
sung thêm mè, hạt điều, ngò rí, khóm sấy. Sản phẩm
được bao gói và đánh giá theo các chỉ tiêu.
Các thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên,
lặp lại 4 lần và kết quả của các thông số biểu hiện
bằng các giá trị trung bình. Kết quả của thí nghiệm
trước làm cơ sở cho thí nghiệm tiếp theo.
2.2.2. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích các chỉ tiêu được thể hiện
ở bảng 1.
Bảng 1. Phương pháp phân tích các chỉ tiêu chất lượng
Chỉ tiêu đánh giá Phương pháp xác định
Hàm lượng anthocyanin
Xác định anthocyanin trong dịch trích theo phương pháp pH vi sai (Giusti and
Wrolstad, 2000), dựa trên nguyên tắc chất màu anthocyanin thay đổi theo pH. Tại
pH = 1 các anthocyanin tồn tại ở dạng oxonium hoặc flavium có độ hấp thụ cực
đại, tại pH = 4,5 thì chúng lại ở dạng carbinol không màu.
Độ ẩm Sấy ở 105oC đến khối lượng không đổi
Protein Kjeldahl
Lipid Soxhlet
Đường tổng Bertrand
Đánh giá cảm quan về cấu
trúc của cơm sau khi chiên
Đánh giá cảm quan cấu trúc theo thang điểm mô tả thống nhất 6 (0 đến 5 điểm)
với giá trị cảm quan từ kém đến tốt. Thành lập hội đồng đánh giá cảm quan gồm
7 thành viên, có am hiểu chuyên môn về đánh giá chất lượng thực phẩm. Xây dựng
theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 3215-79 với thang điểm mô tả.
2.2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm
Statraphic XVI và phương pháp Duncan’s test với
mức sai khác có ý nghĩa α = 0,05.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 4 năm 2018
đến tháng 2 năm 2019 tại phòng thí nghiệm Bộ môn
Công nghệ thực phẩm, Khoa Nông nghiệp và Công
nghệ thực phẩm, Trường Đại học Tiền Giang.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khảo sát tỷ lệ gạo và nước trong quá trình nấu
ảnh hưởng đến thời gian nấu, sấy và cấu trúc của
hạt cơm sau khi chiên
Mặc dù có giá trị dinh dưỡng và lợi ích sức khỏe
nhưng gạo lứt không được tiêu thụ rộng rãi vì đặc
tính cấu trúc cứng, thời gian nấu dài và vị không
hấp dẫn do hàm lượng chất xơ cao (Moongngarm
and Saetung, 2010). Các giống lúa thường sẽ khác
nhau về độ dày của lớp vỏ lụa, cấu trúc, thành phần
107
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
hóa học, cũng như nhiệt độ hồ hóa, độ trở hồ (Reed
et al., 2013). Để hồ hóa hoàn toàn tinh bột, cần sử
dụng lượng nước thích hợp. Điều đó, ảnh hưởng
trực tiếp đến độ trương nở và cấu trúc của sản phẩm
cơm xốp ăn liền.
Để xác định tỷ lệ gạo: nước thích hợp cho quá
trình nấu, tiến hành bố trí thí nghiệm như sau: Gạo
Cẩm được làm sạch, phối hợp với nước ở các tỷ lệ
(gạo : nước) 1 : 1, 1 : 2, 1 : 3, 1 : 4, 1 : 5 (v/v). Trong
quá trình nấu và sấy, xác định thời gian ở mỗi công
đoạn từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc. Gạo sau khi
chiên được đánh giá cảm quan về cấu trúc (Bảng 2).
Bảng 2. Ảnh hưởng của tỷ lệ nước (khi nấu) đến thời gian nấu, sấy và cấu trúc của cơm sau khi chiên
Tỷ lệ
(gạo : nước) Mẫu
Thời gian nấu
(phút)
Thời gian
sấy Đặc điểm về cấu trúc của hạt cơm sau khi chiên
1 : 1 A1 20 90 Cơm nở ít, bị chai, các hạt cơm tách rời nhau.
1 : 2 A2 30 105
Cơm nở không đều, một số hạt bị chai, các hạt gạo
tách rời nhau.
1 : 3 A3 40 120 Cơm nở đều, các hạt cơm tách rời nhau.
1 : 4 A4 50 210 Cơm nở đều, các hạt cơm dính với nhau.
1 : 5 A5 50 255 Cơm nở đều, các hạt cơm dính chặt với nhau.
Sử dụng tỷ lệ gạo : nước là 1 : 1 và 1 : 2 thì thời
gian nấu nhanh khoảng 20 - 30 phút, hạt cơm sau
khi nấu không chín hoàn toàn, không trương nở.
Do lượng nước ít nên trong quá trình sấy nước bốc
hơi nhanh, thời gian sấy ngắn (90 - 105 phút). Tuy
nhiên, do hạt cơm chưa hồ hóa hoàn toàn nên sau
khi chiên hạt cơm ít nở, chai cứng. Với tỷ lệ gạo :
nước là 1 : 3 thì thời gian nấu 40 phút, hạt cơm sau
khi nấu nở đều, tinh bột được hồ hóa hoàn toàn,
thời gian sấy 120 phút. Sau khi chiên hạt cơm tách
rời nhau. Ở tỷ lệ gạo : nước là 1 : 4 và 1 : 5, thời gian
nấu tương đối dài 50 phút, hạt cơm sau khi nấu quá
nở, các hạt dính với nhau, khi sấy nước khó bốc hơi
nên thời gian sấy kéo dài (210 - 255 phút). Sau khi
chiên một số hạt vẫn dính vào nhau.
Kết quả bảng 2 cho thấy ở tỷ lệ nước càng cao thì
hạt cơm càng nở, dính lại với nhau gây khó khăn cho
quá trình sấy và chiên. Ngược lại, tỷ lệ nước càng ít
thì hạt cơm không chín dẫn đến hạt bị chai. Gạo nấu
với nước ở tỷ lệ 1 : 3 cho kết quả tốt hơn so với các
mẫu còn lại.
3.2. Khảo sát chế độ sấy ảnh hưởng đến cấu trúc
hạt cơm sau khi chiên
Sau khi nấu, cơm được làm nguội và sấy khô.
Dưới tác dụng của nhiệt độ, sản phẩm thường bị
biến đổi hình dạng và tính chất lý học. Nguyên nhân
chủ yếu là do sự mất ẩm trong quá trình sấy dẫn đến
phá vỡ cấu trúc tế bào, các tế bào co rút, biến dạng
và làm sản phẩm cứng hơn (Nguyễn Minh Thủy và
ctv., 2013). Chất lượng của sản phẩm khá nhạy cảm
với nhiệt độ sấy. Nhiệt độ cao có thể ảnh hưởng đến
màu sắc, độ cứng, chất dinh dưỡng, cấu trúc của sản
phẩm phẩm (Luangmalawat et al., 2008).
Kết quả theo dõi sự thay đổi chất lượng của sản
phẩm trong quá trình sấy ở 5 chế độ nhiệt B1: 50oC,
B2: 55oC, B3: 60oC, B4 :65oC, B5 :70oC được thể hiện ở
hình 1.
Hình 1. Đồ thị biểu diễn đường cong sấy
ở các chế độ nhiệt khác nhau
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi sấy ở giai đoạn
đầu thì độ ẩm giảm nhanh, càng về sau độ ẩm giảm
càng chậm (Nguyễn Thạch Minh và Trịnh Xuân
Ngọ, 2009). Nguyên nhân là do giai đoạn đầu bề mặt
hạt cơm mềm nên nước dễ thoát ra ngoài. Sau đó, do
mất nước nên hạt cơm co lại, khô, cứng, nước khó
thoát ra dẫn đến độ ẩm giảm chậm.
108
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
Hình 1 cho thấy khi sấy ở nhiệt độ 65oC ÷ 70oC,
độ ẩm giảm rất nhanh. Để sản phẩm đạt độ ẩm <
13%, thời gian sấy từ 90 - 120 phút. Sử dụng nhiệt độ
sấy thấp 50oC ÷ 60oC thì độ ẩm giảm chậm, thời gian
sấy kéo dài từ 210 - 270 phút. Tiếp tục, tiến hành
đánh giá cấu trúc nhằm chọn ra sản phẩm đạt chất
lượng tốt sau khi chiên.
Bảng 3. Ảnh hưởng của các chế độ sấy
đến cấu trúc cơm sau khi chiên
Nhiệt
độ sấy Mẫu Cấu trúc cơm sau khi chiên
50oC B1 Hạt cơm nở tương đối đều, giòn, hơi xốp
55oC B2 Hạt cơm nở tương đối đều, giòn, hơi xốp
60oC B3 Hạt cơm nở tương đối đều, giòn, xốp
65oC B4 Hạt cơm nở rất đều, giòn, xốp
70oC B5 Hạt cơm nở bung rất lớn, giòn, xốp
Qua kết quả bảng 3 nhận thấy, sấy ở nhiệt độ
50oC ÷ 60oC, hạt cơm sau khi chiên tuy vẫn giữ được
hình dạng nhưng cấu trúc tương đối đều, giòn, hơi
xốp đến xốp. Sấy ở nhiệt độ 65oC ÷ 70oC, các hạt
cơm sau khi chiên có cấu trúc nở xốp, không bị chai.
Tuy nhiên, ở nhiệt độ sấy 65oC, hạt cơm không quá
nở nên giữ được hình dạng đẹp, còn sấy 70oC thì hạt
cơm nở nhiều, làm biến đổi hình dạng sản phẩm.
Kết hợp hình 1 và bảng 3 chứng minh ở nhiệt
độ sấy 65oC sẽ cho sản phẩm có cấu trúc nở rất đều,
giòn, xốp với thời gian sấy là 120 phút thì sản phẩm
đạt độ ẩm <13%, đảm bảo an toàn thực phẩm trong
quá trình bảo quản.
3.3. Khảo sát tỷ lệ chất kết dính bổ sung vào sản phẩm
Để tạo được hình dạng đặc trưng cho sản phẩm
thì việc bổ sung chất kết dính vào là một công đoạn
cần thiết để liên kết các hạt cơm dạng rời lại với
nhau. Maltodextrin là sản phẩm thủy phân từ tinh
bột có DE (dextrose equivalent) < 20. Maltodextrin
có đặc điểm là độ nhớt cao, hòa tan trong nước lạnh,
không ngọt, giữ nước tốt nên được sử dụng làm chất
ổn định, kết dính và tạo bọt (Wang and Wang, 2000).
Mạch nha là một sản phẩm làm từ mầm của ngũ cốc.
Mạch nha vừa là chất kết dính vừa có tác dụng tạo
màu tự nhiên, tăng khả năng giữ ẩm, cải thiện độ
tươi và chất lượng bảo quản (Slim et al., 2018).
Kết hợp maltodextrin - mạch nha với nhau
sẽ tăng khả năng kết dính và cải thiện chất lượng
của sản phẩm. Nghiên cứu được tiến hành với tỷ
lệ maltodextrin - mạch nha thay đổi như sau: 30%
maltodextrin - 0% mạch nha, 25% maltodextrin - 5%
mạch nha, 20% maltodextrin - 10% mạch nha, 15%
maltodextrin - 15% mạch nha, 10% maltodextrin -
20% mạch nha.
Bảng 4. Kết quả đánh giá cảm quan về cấu trúc của sản phẩm khi thay đổi tỷ lệ chất kết dính
Maltodextrin -
mạch nha Mẫu Cấu trúc
Điểm
trung bình
30% - 0% C1
Bánh giòn, xốp, không dính răng, các hạt cơm rời rạt,
rất khó giữ hình dạng của khuôn. 1,46
e
25% - 5% C2
Bánh giòn, xốp, không dính răng, các hạt cơm kết dính
không tốt, khó giữ được hình dạng khuôn. 1,75
d
20% - 10% C3
Bánh giòn, xốp, không dính răng, các hạt cơm kết dính tốt,
giữ được hình dạng khuôn. 4,71
a
15% - 15% C4
Bánh hơi cứng, ít xốp, hơi dính răng, các hạt cơm kết dính
tốt, giữ được hình dạng khuôn. 4,25
b
10% - 20% C5
Bánh hơi cứng, ít xốp, dính răng, các hạt cơm kết dính tốt,
giữ được hình dạng khuôn. 3,32
c
F **
CV (%) 4,8
Ghi chú: Những số trong cùng một cột có chữ theo sau giống nhau thì không khác biệt có ý nghĩa thống kê; (**): khác
biệt có ý nghĩa 1%.
Qua bảng 4 nhận thấy khi sử dụng hàm lượng
maltodextrin càng nhiều thì bánh càng giòn, xốp.
Tuy nhiên, khả năng kết dính không cao, các hạt dễ
tách rời, không giữ được hình dạng mong muốn. Do
đó, cần bổ sung thêm mạch nha để tăng khả năng kết
dính. Khi sử dụng mạch nha quá nhiều thì bánh khi
ăn bị dính răng.
Kết quả cho thấy khi bổ sung 25% maltodextrin
- 5% mạch nha thì bánh giòn, xốp, không dính răng
nhưng khả năng kết dính kém, bánh dễ bể. Ở tỷ lệ
109
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 4(101)/2019
20% maltodextrin - 10% mạch nha thì bánh giòn,
xốp, không dính răng, kết dính tốt, giữ được hình
dạng mong muốn của sản phẩm. Trong khi đó với
bánh sử dụng 15% maltodextrin - 15% mạch nha
và 10% maltodextrin - 20% mạch nha thì bánh hơi
cứng, ít xốp, hơi dính răng tạo cảm giác khó chịu khi
ăn. Tóm lại, tỷ lệ chất kết dính tối ưu bổ sung vào sản
phẩm để giữ hình dạng, cấu trúc mong muốn là 20%
maltodextrin kết hợp với 10% mạch nha.
3.4. Đánh giá chất lượng sản phẩm
Hình 2. Sản phẩm cơm xốp ăn liền hoàn chỉnh
3.4.1. Phân tích thành phần hóa học và vi sinh của
sản phẩm cơm xốp ăn liền dạng miếng
Kết quả phân tích thành phần hóa học ở bảng 4
cho thấy sản phẩm cơm xốp ăn liền dạng miếng có
độ ẩm thấp 5,7% thuận lợi cho quá trình bảo quản.
Hàm lượng lipid khá cao (24,2%), cung cấp nhiều
năng lượng cho cơ thể hoạt động. Hàm lượng đường
tổng tương đối thấp (6%) thích hợp cho người ít ăn
ngọt. Hàm lượng protein (12%), khoáng (1,4%) cao,
cung cấp nhiều giá trị dinh dưỡng. Đặc biệt, sản
phẩm có hàm lượng anthocyanin cao tạo màu đặc
trưng cho sản phẩm, đồng thời là hợp chất chống
oxy hóa, ngăn ngừa bệnh.
Bảng 4. Thành phần hóa học
của sản phẩm cơm xốp ăn liền dạng miếng
Thành phần Đơn vị tính Hàm lượng
Chất khoáng % 1,4
Độ ẩm % 5,7
Lipid % 24,2
Đường tổng % 6,0
Đường khử % 3,1
Protein % 12,0
Anthocyanin mg/kg 10,6
Sản phẩm cơm xốp ăn liền có độ ẩm thấp nên vi
sinh vật khó phát triển. Kết quả phân tích các chỉ
tiêu vi sinh sau 6 tháng bảo quản như sau: Tổng số
vi sinh vật hiếu khí: 3,3.102; Coliforms, Staphylococus
aureus, Clostridium perfringens, Bacillus cereus, tổng
số bào men mốc, E. coli đều không có. Kết quả này
nằm trong giới hạn cho phép theo QĐ số 46/2007/
QĐ - BYT về quy định giới hạn tối đa ô nhiễm sinh
học và hóa học trong thực phẩm.
IV. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy sản phẩm cơm xốp
ăn liền dạng miếng làm từ gạo Cẩm Cai Lậy có chất
lượng cao và giá trị cảm quan tốt khi sử dụng lượng
nước gấp 3 lần lượng gạo đem nấu, sấy ở nhiệt 65oC
trong 120 phút, bổ sung 20% maltodextrin và 10%
mạch nha. Sản phẩm có hàm lượng protein, lipid,
chất khoáng và anthocyanin cao. Đặc biệt, sản phẩm
đảm bảo tiêu chuẩn an toàn thực phẩm sau 6 tháng
bảo quản.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê Hữu Hải, 2012. Chọn lọc làm thuần giống lúa than
đặc sản. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh; Cơ
quan thực hiện: Phòng Nông nghiệp & PTNT Cai
Lậy, tỉnh Tiền Giang. Cơ quan quản lý: Sở Khoa học
và Công nghệ Tiền Giang.
Nguyễn Thạch Minh và Trịnh Xuân Ngọ, 2009. Ảnh
hưởng của quá trình sấy malt đến hoạt tính enzyme.
Tạp chí Khoa học và Phát triển, 7(3): 340-347.
Dương Thị Phượng Liên và Nguyễn Nhật Minh
Phương, 2014. Ảnh hưởng của biện pháp xử lý
nguyên liệu đến khả năng trích ly và sự ổn định
anthocyanin từ bắp cải tím (Brassica Oleracea). Tạp
chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, Số chuyên đề:
Nông nghiệp, 1: 1-7.
Nguyễn Minh Thủy, Nguyễn Thị Tố Như, Nhan Minh
Trí, Đinh Công Dinh, Nguyễn Phú Cường , Hồ
Thanh Hương và Nguyễn Thị Mỹ Tuyền, 2013. Ảnh
hưởng của các điều kiện tiền xử lý đến chất lượng
khóm sấy (Cầu Đúc - Hậu Giang). Tạp chí Khoa học,
Trường Đại học Cần Thơ, Phần B: Nông nghiệp, Thủy
sản và Công nghệ Sinh học, 29: 16-24.
Giusti M. M. and Wrolstad R. E., 2000. Characterization
and Measurement of Antocyanins by UV-Visible
Spectroscopy. John Wiley & Sons, Inc.
Luangmalawat, P., Prachayawarakorn, S.,
Nathakaranakule, A., and Soponronnarit, S.,
2008. Effect of temperature on drying characteristics
and quality of cooked rice. LWT - Food Science and
Technology, 41 (4): 716-723.
Moongngarm A. and Saetung N., 2010. Comparison
of chemical compositions and bioactive compounds
of germinated rough rice and brown rice. Food
Chemistry, 122 (3): 782-788.
Reed, M. O., Ai, Y., Leutcher, J. L., and Jane, J.,
2013. Effects of Cooking Methods and Starch
Structures on Starch Hydrolysis Rates of Rice. Food
Science, 78 (7): 1076-1081.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_che_bien_com_xop_an_lien_dang_mieng_tu_gao_cam_ca.pdf