Trong mùa gió tây nam dòng chảy có
hướng thịnh hành là hướng Tây Nam với tần
suất 60%, với tốc độ trung bình từ 30 - 50 cm/s,
lớn nhất 70 cm/s, dòng chảy hướng Tây tần
suất 20%. Ngoài ra còn có dòng chảy hướng
vuông góc với bờ hoặc từ ngoài biển chảy vào,
hoặc từ bờ chảy ra với vận tốc nhỏ xấp xỉ
20 cm/s.
Trong mùa gió Đông Bắc bức tranh phân
bố dòng chảy ngược lại so với Tây Nam. Dòng
chảy hướng Đông Bắc có tốc độ từ 40 - 60 cm/s
chiếm ưu thế với tần suất trên 60%, tốc độ
dòng lớn nhất khoảng 70 cm/s. Dòng chảy theo
hướng Đông Đông Bắc có tần suất khoảng
30%, vận tốc nhỏ hơn, dòng chảy hướng Đông
có tần suất cũng xấp xỉ 25% tuy nhiên vận tốc
chỉ khoảng 30 - 40 cm/s. Tốc độ dòng chảy từ
bờ chảy ra có tốc độ lớn hơn dòng chảy có
hướng từ biển chảy vào.
Trong điều kiện có bão, nước dâng kết
hợp với triều cường và sóng lớn đã làm mực
nước biển dâng cao, mực nước đo được sau bão
gần 2,7 m, tại một số vùng khác nước dâng
cũng khá lớn xấp xỉ 1,5 m, sóng lớn và dòng
chảy dọc bờ là hai nhân tố chính phá hủy bờ
mang trầm tích ra ngoài. Sau khi cơn bão kết
thúc trầm tích ngoài khơi được mang lại, quá
trình này phần nào đã làm cân bằng bồi xói tại
vùng nghiên cứu.
Sự bồi xói và truyền tải - khuyếch tán
trầm tích và vật chất lơ lửng tại vùng cửa sông
Mê Kông phụ thuộc vào các yếu tố như dòng
chảy, sóng, lượng nước sông. Tất cả các quá
trình này tương tác lẫn nhau và luôn biến đổi
theo thời gian, không gian
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 563 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chế độ thủy động lực tại vùng biển ven bờ cửa sông Mê Kông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
310
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 4; 2014: 310 -319
DOI: 10.15625/1859-3097/14/4/5784
NGHIÊN CỨU CHẾ ĐỘ THỦY ĐỘNG LỰC TẠI VÙNG
BIỂN VEN BỜ CỬA SÔNG MÊ KÔNG
Nguyễn Ngọc Tiến
Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Hàn Lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
E-mail: nntien@imgg.vast.vn
Ngày nhận bài: 11-6-2014
TÓM TẮT: Bài báo giới thiệu một số kết quả nghiên cứu chế độ thủy động lực của quá trình
tương tác biển - lục địa bằng bộ mô hình MIKE 21/3 FM COUPLE với các mô đun thủy động lực
(HD), phổ sóng (SW), đưa ra các nhận định về trường sóng, dòng chảy và dao động mực nước
trong điều kiện bão và gió mùa, từ đó phân tích nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng bồi xói, xu thế
vận chuyển và lắng đọng trầm tích trong khu vực làm tiền đề cho việc đề xuất và quy hoạch các
công trình chỉnh trị phục vụ phát triển bền vững kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường.
Từ khóa: MIKE, mô hình, động lực, sông Mê Kông.
MỞ ĐẦU
Sông Mê Kông là hệ thống sông lớn nhất
Đông Nam Á và cũng là hệ thống sông phức
tạp nhất nước ta. Sông Mê Kông có diện tích
lưu vực là 795.000 - 800.000 km2, chiều dài
dòng chính là 4.350 km, tổng lượng dòng chảy
năm xấp xỉ trên 500 tỷ m3 nước. Hệ thống sông
Mê Kông trải dài qua nhiều quốc gia như Trung
Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và
Việt Nam. Đến Việt Nam sông Mê Kông được
chia thành 2 nhánh: sông Tiền và sông Hậu đổ
ra Biển Đông tại các cửa như: Tiểu, Đại, Ba
Lai, Hàm Luông, Cung Hầu, Cổ Chiên, Định
An, Tranh Đề [1].
Quá trình tương tác giữa động lực sông -
biển tại đây diễn ra rất phức tạp, lưu lượng bùn
cát tải ra hàng năm khoảng 160 triệu tấn. Trong
số này, phần được giữ lại bồi tích cho vùng
châu thổ hạ lưu chiếm khoảng 50%, khoảng
10% lắng đọng ở vùng biển ven bờ cửa sông,
còn lại 40% sẽ được vận chuyển dọc bờ đi nơi
khác do các quá trình thủy động lực, xa nhất có
thể tới 500 km (J. P. Liu và nnk, 2009).
Để xác định được các yếu tố đó, cần phải
làm sáng tỏ chế độ thủy động lực của các quá
trình biển - lục địa như sóng, dòng chảy, dao
động mực nước ngoài biển và trong sông. Vì
vậy, việc nghiên cứu các quá trình trên của hệ
thống sông Mê Kông là cần thiết và cấp bách.
Bài báo này đi sâu nghiên cứu các vấn đề
thủy động lực của quá trinh tương tác biển - lục
địa với các kết quả đưa ra là trường sóng, dòng
chảy và dao động mực trong hai điều kiện thời
tiết là gió mùa và cực đoan, tìm ra các nguyên
nhân dẫn đến các hiện tượng bồi xói, xu thế
vận chuyển và lắng đọng trầm tích. Các kết quả
về xu thế vận chuyển, lắng đọng trầm tích và
bồi xói sẽ được công bố trong các nghiên cứu
tiếp theo.
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự hỗ
trợ kinh phí của Viện Hàn Lâm Khoa học và
Công nghệ Việt Nam năm 2014.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
Mô hình MIKE 21/3 FM COUPLE
Đã sử dụng Module thủy động lực
(MIKE21/3 HD) để xác định trường dòng chảy
và phân bố độ dâng rút mực nước, Module phổ
sóng để xác định trường sóng và ứng suất sóng
ngoài khơi.
Nghiên cứu chế độ thủy động lực
311
Ngoài ra đã sử dụng Module phổ sóng gió
ven bờ MIKE 21 - SW để mô phỏng lan truyền
sóng từ ngoài khơi vào bờ [2].
Miền tính toán và số liệu cho mô hình
Miền tính toán và lưới tính được lựa chọn
như sau:
Vùng tính toán bao gồm cả khu vực Biển
Đông, được chia thành 2 lưới lồng đồng bộ về
thời gian: MeshI (hình 1) và MeshBD (hình 2),
trong đó kết quả của lưới tính Mesh BD sẽ
được xuất tại các dãy điểm An, n=1, 30 và làm
tham số đầu vào cho lưới MESH I [3].
Hình 1. Lưới tính cho khu vực nghiên cứu
Hình 2. Lưới tính cho khu vực Biển Đông
Số liệu độ sâu và đường bờ khu vực ven bờ
cửa sông Mê Kông được số hóa từ các bản đồ
địa hình UTM hệ tọa độ địa lý VN 2000 với
các tỷ lệ khác nhau. Độ sâu của khu vực phía
ngoài sử dụng cơ sở dữ liệu GEBCO -1/8 có độ
phân dải 0,5 phút.
Sử dụng bộ số liệu sóng và gió quan trắc từ
các vệ tinh của tổ chức AVISO của Pháp để tính
cho cả Biển Đông và được kiểm tra với kết quả
tính từ mô hình toàn cầu WAVEWACH III [4].
Sau khi tính toán cho cả Biển Đông, kết quả tính
sóng từ mô đun MIKE21 SW tại các dãy điểm
An, n=1, 30 sẽ được lấy làm biên để tính toán lan
truyền sóng bằng mô hình MIKE 21/3 FM
COUPLE cho khu vực nghiên cứu. Nguồn số
liệu thứ hai được thu thập là từ hai trạm quan
trắc sóng tại Sóc Trăng và Ba Tri từ năm 1991
đến tháng 9 năm 2013 với tần suất 6h/lần được
xử lý làm đầu vào cho mô hình tính.
Số liệu gió trên toàn miền tính MESH BD
được cung cấp bởi Viện Khí tượng Thủy văn
trong tháng 6 và tháng 11 năm 2013 và số liệu
trong điều kiện bão tháng 11 năm 1997.
Số liệu mực nước được thu thập tại 3 trạm
trong sông và ven biển với tần suất đo (1 h/lần)
thuộc đồng bằng sông Cửu Long bao gồm An
Thuận, Bến Trai, Mỹ Thanh từ năm 1990 đến
tháng 9 năm 2013 làm số liệu hiểu chỉnh và
kiểm định mô hình. Ngoài ra, các số liệu dao
động mực nước ngoài khơi được thu thập và xử
lý để làm đầu vào cho các điều kiện biên mở
phía biển của mô hình từ 4 sóng triều chính là
O1, K1, M2, S2. Các hằng số điều hòa thủy
triều ở phía ngoài xa bờ được thu thập từ cơ sở
dữ liệu FES2004 của LEGOS và CLS [5].
Số liệu về nhiệt độ và độ muối nước biển
được thu thập từ cơ sở dữ liệu WOA13 năm
2013 sử dụng cho mô hình tại các điều kiện
biên mở phía biển [6].
Dựa vào bản đồ phân bố trầm tích tầng mặt
và tài liệu hướng dẫn lựa chọn các hệ số
Manning [6, 7] đã xác định được hệ số nhám
đáy biển là 0,002 m.
Hiệu chỉnh và các trường hợp tính toán
Thời gian mô phỏng: Mô hình được áp
dụng tính toán cho mùa gió Tây Nam, Đông
Bắc và bão Linda năm 1997.
Dưới đây là những đánh giá dựa trên sơ sở
phân tích các kết quả hiệu chỉnh và kiểm định
(hình 3, 4):
Mực nước tính toán phù hợp với số liệu
thực đo cả về biên độ dao động lẫn giá trị tuyệt
Nguyễn Ngọc Tiến
312
đối và pha triều. Chênh lệch giữa số liệu thực
đo và kết quả mô phỏng khoảng từ 5 - 10 cm.
Điều đó chứng tỏ rằng, các số liệu biên mực
nước tại các cửa sông (bao gồm dao động triều
và mực nước trung bình nhiều năm theo mốc
cao độ nhà nước) là đáng tin cậy .
Tram An Thuan: Muc Nuoc [m]
Mô Hình: Surface elevation [m]
00:00
2012-06-10
12:00 00:00
06-11
12:00 00:00
06-12
12:00 00:00
06-13
12:00 00:00
06-14
12:00 00:00
06-15
12:00 00:00
06-16
12:00 00:00
06-17
12:00 00:00
06-18
12:00 00:00
06-19
12:00 00:00
06-20
12:00 00:00
06-21
12:00 00:00
06-22
12:00 00:00
06-23
12:00 00:00
06-24
12:00 00:00
06-25
12:00 00:00
06-26
12:00 00:00
06-27
12:00
-2.0
-1.9
-1.8
-1.7
-1.6
-1.5
-1.4
-1.3
-1.2
-1.1
-1.0
-0.9
-0.8
-0.7
-0.6
-0.5
-0.4
-0.3
-0.2
-0.1
0.0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
0.8
0.9
1.0
1.1
1.2
Hình 3. So sánh mực nước thực đo (màu đen) và mô hình (màu xanh) tại trạm An Thuận
Tram My Thanh: Muc Nuoc [m]
Mô Hình: Surface elevation [m]
00:00
2012-06-10
12:00 00:00
06-11
12:00 00:00
06-12
12:00 00:00
06-13
12:00 00:00
06-14
12:00 00:00
06-15
12:00 00:00
06-16
12:00 00:00
06-17
12:00 00:00
06-18
12:00 00:00
06-19
12:00 00:00
06-20
12:00 00:00
06-21
12:00 00:00
06-22
12:00 00:00
06-23
12:00 00:00
06-24
12:00 00:00
06-25
12:00 00:00
06-26
12:00 00:00
06-27
12:00
-2.4
-2.2
-2.0
-1.8
-1.6
-1.4
-1.2
-1.0
-0.8
-0.6
-0.4
-0.2
0.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
1.2
1.4
1.6
1.8
2.0
Hình 4. So sánh mực nước thực đo (màu đen) và mô hình (màu xanh) tại trạm Mỹ Thanh
KẾT QUẢ TÍNH TOÁN
Tác động của sóng trong điều kiện gió mùa
Tây Nam và Đông Bắc
Hình 5. Trường sóng mùa gió ĐB trên biển Đông
Hướng gió trên toàn Biển Đông thay đổi
theo mùa gây nên hướng sóng cũng theo hai
hướng chính là Đông Bắc và Tây Nam. Vào
mùa gió Đông Bắc, sóng trên toàn Biển Đông
(hình 5) tác dụng chủ yếu theo hướng Đông
Bắc, độ cao sóng đạt từ 0,3 - 2,6 m. Trong mùa
gió Tây Nam (hình 6) sóng ngoài khơi Biển
Đông dao động trong khoảng 0,7 - 2 m và lan
truyền vuông góc với đường bờ và hướng trực
tiếp đến cửa sông. Vì vậy, vào thời điểm này
khu vực ngoài cửa sông chịu tác động mạnh
nhất của sóng và dòng chảy, chiều cao sóng
ngoài cửa sông khoảng 0,4 m đến 0,8 m.
Vùng ven bờ biển được quan tâm ở đây chủ
yếu từ 30m độ sâu trở vào các vùng cửa sông.
Tuy nhiên có mối quan hệ chặt chẽ về chế độ
sóng vùng ven bờ với các loại sóng được hình
thành từ các khu vực biển xa bờ. Điều kiện địa
hình đã quyết định đến sự biến dạng của các
loại sóng làm nên sự khác biệt về hướng cũng
Nghiên cứu chế độ thủy động lực
313
như độ cao sóng giữa hai khu vực ven bờ và
vùng biển khơi.
Hình 6. Trường sóng mùa gió Tây Nam trên
Biển Đông
Mùa gió Đông Bắc tại các khu vực biển ven
bờ sóng có hướng Bắc và Đông Bắc chiếm ưu
thế với tần suất 56%, độ cao sóng lớn nhất là
1,5 m. Các hướng khác có tần suất nhỏ hơn,
thời gian lặng sóng có tần suất 20%. Trong khi
đó tại vùng biển xa bờ sóng hướng NE khá
thịnh hành với tần suất lớn tới 92%, sóng NE
xấp xỉ 1% (hình 7)
Hình 7. Trường sóng mùa gió Đông Bắc tại
vùng ven biển cửa sông Mê Kông
Mùa gió Tây Nam vùng biển ven bờ sóng
hướng Tây Nam có tần suất lớn khoảng 60%,
các hướng khác tần suất nhỏ và tản mạn. Tần
suất lặng sóng so với mùa Đông Bắc rất nhỏ
chiếm 7% (hình 8).
Hình 8. Trường sóng mùa gió Tây Nam tại
vùng ven biển cửa sông Mê Kông
Sóng gió trong vùng cửa sông không lớn
do đặc điểm địa hình. Phần chịu tác động sóng
nhiều nhất trong vùng cửa sông là phía bên
ngoài. Tại đây độ cao sóng cực đại có thể đạt
3 - 4 m (trong điều kiện bão) với các sóng có
chu kỳ trung bình 7 - 8 s. Phần bên trong cửa
sông độ cao sóng giảm đáng kể do có cây và
luồng lạch.
Trường dòng chảy trong mùa gió Tây Nam
và Đông Bắc
Dòng chảy mô phỏng tại vùng cửa sông Mê
Kông là tổng hợp của dòng chảy gió, dòng triều
và dòng chảy sông.
Chế độ dòng chảy tương đối phức tạp vừa
có tính chất dòng chảy bờ do nguồn nước từ
các sông đổ ra, vừa có tính chất dòng chảy
ngoài khơi.
Vào mùa gió Tây Nam dòng chảy có hướng
thịnh hành là hướng Tây Nam với tần suất
60%, vận tốc trung bình 50 - 60 cm/s, ngoài ra
còn có dòng vuông góc với bờ hoặc từ biển
chảy vào, từ bờ chảy ra với vận tốc nhỏ xấp xỉ
như nhau về tốc độ (hình 9, 10).
Nguyễn Ngọc Tiến
314
Hình 9. Trường dòng chảy mùa gió Tây Nam
(pha triều lên)
Hình 10. Trường dòng chảy mùa gió Tây Nam
(pha triều xuống)
Mùa gió Đông Bắc bức tranh phân bố dòng
chảy ngược lại so với mùa Tây Nam. Trong
mùa này dòng chảy thịnh hành theo hướng
Đông Bắc, tốc độ 50 - 60 cm/s, tốc độ dòng lớn
nhất khoảng 70 cm/s. Dòng chảy hướng Đông
có tần suất 25% và vận tốc đạt khoảng 30 -
50 cm/s (hình 13, 14).
Trong thời gian triều rút, dòng chảy chính
chuyển động theo các sông lớn, vận tốc dòng
triều rút ở các cửa sông chính nhìn chung lớn.
Khi triều rút dòng chảy tách ra làm hai phần,
một phần hướng về phía Vũng Tàu và một
phần dọc theo bờ biển chảy xuống phía nam về
phía mũi Cà Mau. Vận tốc đạt giá trị khoảng
20 cm/s. Khu vực ven cửa Trần Đề vận tốc
dòng triều bé do địa hình nông và thoải.
Khi triều dâng, dòng chảy hướng từ biển
chảy vào các sông qua các cửa chính, vận tốc
dòng tăng dần theo thời gian. Nhìn chung vận
tốc dòng chảy ở cửa Trần Đề lớn hơn các khu
vực khác.
Hình 11. Mực nước dâng mùa gió Tây Nam
(pha triều lên)
Hình 12. Mực nước dâng mùa gió Tây Nam
(pha triều xuống)
Nghiên cứu chế độ thủy động lực
315
Hình 13. Trường dòng chảy mùa gió Đông Bắc
(pha triều lên)
Hình 14. Trường dòng chảy mùa gió Đông
Bắc (pha triều xuống)
Hình 15. Mực nước dâng mùa gió Đông Bắc
(pha triều lên)
Hình 16. Mực nước dâng mùa gió Đông Bắc
(pha triều xuống)
Những tác động của sóng và dòng chảy trong điều kiện bão
Hình 17. Trường sóng trong bão LINDA tại Biển Đông (03 h 02/11/1997)
Nguyễn Ngọc Tiến
316
Hình 18. Trường sóng trong bão LINDA tại Biển Đông (14 h 02/11/1997)
Hình 19. Trường sóng bão LINDA lúc 04 h
ngày 02/11/1997
Hình 20. Trường dòng chảy bão LINDA
lúc 14 h ngày 02/11/1997
Trường sóng được mô phỏng trong hai thời
điểm bão đổ bộ vào khu vực cửa sông Mê
Kông, độ cao sóng dao động từ 0,7 - 3 m hướng
vuông góc với đường bờ và tăng dần từ bờ ra
khơi (hình 19, 20), Sóng gió trong vùng cửa
sông không lớn do đặc điểm địa hình. Phần
chịu tác động sóng nhiều nhất trong vùng cửa
sông là phía bên ngoài.
Dòng chảy trong hai thời điểm này kết hợp
với pha triều lên đạt trong khoảng 1 m/s hướng
đi sâu vào trong sông. Khi triều lên, dòng chảy
hướng từ biển chảy vào các sông qua các cửa
chính, vận tốc dòng tăng dần theo thời gian
(hình 21, 22).
Hình 21. Trường dòng chảy bão LINDA
lúc 9 h 00 ngày 02/11/1997
Nghiên cứu chế độ thủy động lực
317
Hình 22. Trường dòng chảy bão LINDA
lúc 17 h ngày 02/11/1997
Nước dâng do bão trong cơn bão Linda
1997 đổ bộ vào Đông Nam Bộ kết hợp với triều
cường và sóng lớn đã làm mực nước biển dâng
cao, mực nước đo được sau bão gần 2,7 m, tại
một số vùng khác nước dâng cũng khá lớn xấp
xỉ 1,5 m (hình 23, 24). Mặt khác tại vùng Đông
Nam Bộ còn có hiện tượng mực nước biển
dâng cao vào kỳ triều cường khi gió mùa Đông
Bắc duy trì với một thời gian dài trên Biển
Đông đã gây ngập lụt các vùng đô thị, ven bờ,
trong đó có tp. Hồ Chí Minh.
Hình 23. Mực nước dâng trong bão LINDA
lúc 9 h 00 ngày 02/11/1997
Hình 24. Mực nước rút sau bão LINDA lúc 4h
ngày 03/11/1997
KẾT LUẬN
Mô hình MIKE cùng với việc xác định các
điều kiện biên cho mô hình để nghiên cứu động
lực sóng và dòng chảy trong hai mùa gió Đông
Bắc và Tây Nam tại vùng ven biển cửa sông
Mê Kông đạt kết quả khả quan thông qua các
kết quả kiểm định với số liệu mực nước thực đo
tại ba trạm cố định và so sánh chúng với kết
quả của những nghiên cứu trước đây [1, 8-10].
Từ những kết quả đó, nghiên cứu này có thể
đưa ra những kết luận sau:
Sóng gió trong vùng cửa sông không lớn
do đặc điểm địa hình. Phần chịu tác động sóng
nhiều nhất trong vùng cửa sông là phía bên
ngoài cửa. Tại đây độ cao sóng cực đại có thể
đạt 3 - 4 m (trong điều kiện bão) với các sóng
có chu kỳ trung bình 7 - 8 s. Phần bên trong
cửa sông độ cao sóng giảm đáng kể do có cây
và luồng lạch.
Dòng chảy tại vùng biển Đông Nam Bộ là
tổng hợp của dòng chảy gió, dòng triều và dòng
chảy sông. Trong đó, dòng triều tuần hoàn có
vai trò quan trọng quyết định đến tính chất
chung của dòng chảy tổng hợp. Tuy nhiên sự
biến đổi theo mùa của trường gió và lưu lượng
sông gây ra sự biến đổi mùa của trường dòng
chảy trong khu vực nghiên cứu. Dựa trên
những kết quả tính từ mô hình, đặc điểm dòng
chảy theo mùa và theo pha triều có những đặc
điểm sau:
Nguyễn Ngọc Tiến
318
Trong mùa gió tây nam dòng chảy có
hướng thịnh hành là hướng Tây Nam với tần
suất 60%, với tốc độ trung bình từ 30 - 50 cm/s,
lớn nhất 70 cm/s, dòng chảy hướng Tây tần
suất 20%. Ngoài ra còn có dòng chảy hướng
vuông góc với bờ hoặc từ ngoài biển chảy vào,
hoặc từ bờ chảy ra với vận tốc nhỏ xấp xỉ
20 cm/s.
Trong mùa gió Đông Bắc bức tranh phân
bố dòng chảy ngược lại so với Tây Nam. Dòng
chảy hướng Đông Bắc có tốc độ từ 40 - 60 cm/s
chiếm ưu thế với tần suất trên 60%, tốc độ
dòng lớn nhất khoảng 70 cm/s. Dòng chảy theo
hướng Đông Đông Bắc có tần suất khoảng
30%, vận tốc nhỏ hơn, dòng chảy hướng Đông
có tần suất cũng xấp xỉ 25% tuy nhiên vận tốc
chỉ khoảng 30 - 40 cm/s. Tốc độ dòng chảy từ
bờ chảy ra có tốc độ lớn hơn dòng chảy có
hướng từ biển chảy vào.
Trong điều kiện có bão, nước dâng kết
hợp với triều cường và sóng lớn đã làm mực
nước biển dâng cao, mực nước đo được sau bão
gần 2,7 m, tại một số vùng khác nước dâng
cũng khá lớn xấp xỉ 1,5 m, sóng lớn và dòng
chảy dọc bờ là hai nhân tố chính phá hủy bờ
mang trầm tích ra ngoài. Sau khi cơn bão kết
thúc trầm tích ngoài khơi được mang lại, quá
trình này phần nào đã làm cân bằng bồi xói tại
vùng nghiên cứu.
Sự bồi xói và truyền tải - khuyếch tán
trầm tích và vật chất lơ lửng tại vùng cửa sông
Mê Kông phụ thuộc vào các yếu tố như dòng
chảy, sóng, lượng nước sông. Tất cả các quá
trình này tương tác lẫn nhau và luôn biến đổi
theo thời gian, không gian.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Kỳ Phùng, Lê Mạnh Tân, 2006.
Nghiên cứu tính toán hiện tượng nước dâng
do bão bằng phương pháp số dựa trên hệ
phương trình thủy động lực học ba
chiều. Tạp chí khoa học và Công nghệ biển,
6(3): 15-25.
2. DHI - MIKE 21/3 Couple Model FM, User
Guide, DHI Software 2007.
3. Vũ Thanh Ca, 2004. Phương pháp xử lý các
điều kiện biên cứng và biên mở trong các
mô hình sóng tuyến tính không dừng. Tạp
chí Khoa học Kỹ thuật Thuỷ lợi và Môi
trường, số 6, Tr. 49-56.
4. ERDDAP - NOAA WaveWatch III
(NWW3) Global Wave Model - Data
Access Form.
5. Lyard, F., Lefevre, F., Letellier, T., &
Francis, O., 2006. Modelling the global
ocean tides: modern insights from
FES2004. Ocean Dynamics, 56(5-6): 394-
415.
6. World Ocean Atlas, 2013. “National
Oceanographic Data Center.
7. Arcement Jr, G. J., & Schneider, V. R.,
1989. Guide for Selecting Manning's
Roughness Coefficients for Natural
Channels and Flood Plains United States
Geological Survey Water-supply Paper
2339. pubs. usgs. gov/wsp/2339/report. pdf.
8. Lê Đình Mầu và nnk, 2011. Đặc điểm chế
độ gió, sóng tại vùng biển ven bờ Bình
Thuận - Cà Mau. Tuyển tập báo cáo: Hội
nghị Khoa học và Công nghệ biển toàn
quốc lần thứ V, Tr. 257-263.
9. Lê Đình Mầu, 2009. Đặc điểm phân bố các
đặc trưng sóng tại vùng biển ven bờ tỉnh
Bình Thuận. Tạp chí Khoa học và Công
nghệ biển, 9(4): 25-37.
10. Nguyễn Ngọc Thụy, 1982. Thủy triều đồng
bằng sông Cửu Long và vùng biển kế cận.
Báo cáo tại: Hội thảo Quốc tế về xâm nhập
mặn ở ĐBSCL, tp. Hồ Chí Minh.
11. Katopodi, I., & Ribberink, J. S., 1992.
Quasi-3D modelling of suspended sediment
transport by currents and waves. Coastal
Engineering, 18(1): 83-110.
Nghiên cứu chế độ thủy động lực
319
STUDY ON COASTAL HYDRODYNAMIC REGIME IN THE
MEKONG RIVER MOUTH AREA
Nguyen Ngoc Tien
Institute of Marine Geology and Geophysics, VAST
ABSTRACT: This study shows some results of computed hydrodynamic processes by using
MIKE 21/3 COUPLE model, including hydrodynamic (HD), spectral wave (SW) modules. The
outputs are waves, currents and water levels fluctuation in storms and monsoon conditions. The
study results represent the hydrodynamic processes in Mekong River mouth area under the impact
of land-sea interaction processes. These results are helpful to find out the mechanism of accretion,
erosion, sedimentation processes in study region. It may serve as the good information for planning
and proposing the suitable training measures for socio-economic sustainable development.
Keywords: MIKE, model, dynamics, Mekong River.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5784_20925_1_pb_7585_2079655.pdf