Phần mở đầu
Bảo hiểm xã hội là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Ngay từ khi thành lập Đảng và Nhà nước ta đã thường xuyên quan tâm đến việc thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã hội đối với cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động thuộc các thành phần kinh tế. Trong công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế không ngừng phát triển đời sống nhân được cải thiện và nâng cao, tuy nhiên một bộ phận người lao động còn bấp bênh không đảm bảo do gặp phải những rủi ro như thiếu việc làm, ốm đau, tuổi già để bù đắp một phần thiếu hụt đó, từ năm 1995 Đảng ta đã cụ thể hoá đường lối bằng chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội và được bổ sung hoàn thiện và đổi mới các chế độ, chính sách BHXH theo quy định tại chương III bộ luật lao động được Quốc hội thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995 .
Bảo hiểm xã hội không những là một loại hình bảo hiểm mà nó còn là một cơ chế bảo vệ người lao động trong trường hợp người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập tạm thời hoặc vĩnh viễn do mất, giảm khả năng lao động. Bảo hiểm xã hội còn là một trong những hệ thống bảo đảm xã hội.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và sự cố gắng vượt bậc của ngành bảo hiểm xã hội nên các chế độ BHXH được thực hiện ngày càng tốt hơn; công tác thu, chi, quản lý quỹ và giải quyết chế độ chính sách BHXH cho các đối tượng theo luật định đi vào nền nếp, tạo điều kiện thuận lợi và niềm tin cho những người tham gia và hưởng các chế độ BHXH.
Để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta và nhu cầu của người lao động, ngày 09/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ-CP, Luật BHXH được Quốc hội nứơc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngà 29/6/2006, đối tượng tham gia BHXH không còn tập trung vào các đơn vị hành chính sự nghiệp , các doanh nghiệp nhà nước nữa mà được mở rộng tới các doanh nghiệp ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hưu hạn, hợp tác xã , hộ kinh doanh các thể, số người tham gia ngày càng tăng, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Song song với thu BHXH thì việc chi trả cho đối tượng nghỉ việc hưởng chế độ bảo hiểm xã hội ngày càng nhiều. Do dó BHXH cần có một lượng tiền đủ lớn để đảm bảo cho công tác chi trả các chế độ BHXH, để đạt được mục tiêu đó thì việc tham gia BHXH đóng góp vào quỹ BHXH là một nhiệm vụ rất quan trọng, có thể coi Quỹ BHXH là sự sống còn của hệ thống BHXH, đảm bảo cho hệ thống hoạt động theo đúng chức năng nhiệm vụ Trong đó nhiệm vụ thu BHXH là nhiệm vụ quan trọng có thể coi đó là đầu vào của ngành BHXH.
Là cán bộ đang trực tiếp công tác tại phòng thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên Quang và được thực tập tốt nghiệp tại cơ quan từ ngày 25/9/2006 đến ngày 15/01/2007, trong thời gian thực tập em thấy còn một số hạn chế trong công tác thu BHXH dẫn đến tình trạng thu chưa đúng, thu chưa đủ hay nói cách khác còn để thất thu BHXH và vấn đề tăng cường công tác thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội có một ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của ngành BHXH nói chung và BHXH Tuyên Quang nói riêng.
Do vậy chuyên đề mà em lựa chọn là: “Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu BHXH và chống thất thu BHXH Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang” Làm chuyên đề thực tập với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công tác thu BHXH.
Mục Lục
Lời mở đầu 3
CHƯƠNG I: Lý luận chung về chính sách bảo hiểm xã hội và quản lý thu bảo hiểm xã hội 6
I. Giới thiệu chung về chính sách bảo hiểm xã hội 6
1) Khái niệm về BHXH 6
2) Các loại hình BHXH 8
II. Quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH 14
1) Quản lý thu BHXH 14
2) Nội dung của quản lý thu BHXH 16
a) Nguyên tắc quản lý thu BHXH 16
b) Nội dung quản lý Thu BHXH 17
3) Chống thất thu BHXH. 21
CHƯƠNG II: Thực trạng về quản lý thu và thất thu BHXH tại tỉnh Tuyên Quang. 24
I. Thực trạng thu BHXH và thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 24
1) Khái quát BHXH Tuyên Quang 24 2) Thực trạng thu BHXH Tại Tuyên Quang 31 3) Tình hình thất thu của BHXH Tuyên Quang. 36
II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 42 1) quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang. 42 2) Đánh giá quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang. 46
CHƯƠNG III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang. 52
I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH. 52
II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH. 53
1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BHXH. 53
2) Có chương trình qui hoạch đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. 54
3) Mở rộng nguồn thu BHXH. 54
4) Tăng cường công tác tuyên truyền về Luật BHXH 58 5) Hoàn thiện nghiệp vụ quản lý thu và chống thất thu quĩ BHXH. 56
6) Bảo tồn và tăng trưởng quĩ BHXH 59 7) Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thu. 60
8) Cải cách thủ tục hành chính 60
Kết luận 61
Tài liệu tham khảo 62
64 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1931 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu chính sách bảo hiểm xã hội với vấn đề thu Bảo hiểm xã hội và chống thất thu bảo hiểm xã hội Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/NĐ-CP thì đối tượng thu bảo hiểm xã hội gồm những đối tượng sau:
Tại Điều 2: Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm:
1. Cán bộ công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức.
2. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng có thời hạn đủ từ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động kể cả cán bộ quản lý, người lao động làm việc trong hợp tác xã hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên.
3. Người lao động là công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.
4. Người lao động đã tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Tại Điều 3: Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc quy định tại Nghị định này bao gồm:
1. Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo luật doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang.
2. Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của nhà nước.
3. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác.
4. Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật.
5. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật hợp tác xã.
6. Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.
7. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế h ạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Thực hiện thu BHYT và cấp thẻ BHYT cho các đối tượng theo Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8/1998, Nghị định số 63/2005/NĐ-CP ngày 16/5/2005.
Tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội:
Căn cứ Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ:
Tiền lương là cấp bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp ( phụ cấp chức vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp đắt đỏ, phụ cấp thâm niên, phụ cấp tái cử, hệ số bảo lưu nếu có) của từng người. Các khoản phụ cấp ngoài quy định trên không thuộc diện phải đóng BHXH và cũng không được đóng để tính vào tiền lương hưởng BHXH.
Đối với đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp, tiền lương tháng trả cho người lao động không đủ mức lương cấp bậc, chức vụ của từng người để đăng ký đóng BHXH thì được đóng BHXH theo mức tiền lương đơn vị thực trả cho người lao động, nhưng mức đóng cho từng người không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Căn cứ Điều 45, Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ:
1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề ( nếu có).
Tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng.
2. Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động.
3. Trường hợp mức tiền lương , tiền công tháng quy định tại 2 điểm trên cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bằng 20 tháng mức lương tối thiểu chung.
3) Tình hình thất thu BHXH tại BHXH Tuyên quang:
Các văn bản nhà nước, các Nghị định, Luật lao động về BHXH đã cụ thể và bổ sung các điều trong Điều lệ BHXH cụ thể là NĐ12/CP ngày 26/01/1995 Chính phủ mới chỉ quy định một số đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Ngày 09/01/2003 chính phủ ra NĐ/01NĐ-CP đã sửa đổi bổ sung NĐ/12 /CP đối với đối tượng phải tham gia BHXH bắt buộc :
Trong những năm qua nhất là khi có Nghị định số 01/NĐ-CP của Chính phủ, BHXH Tuyên Quang đã triển khai một cách tích cực, là một trong những BHXH trên cả nước có số lao động ngoài quốc doanh và hộ kinh doanh các thể tham gia với số lượng lớn, đạt được những thành tựu đáng khích lệ, Khi thực hiện NĐ số 01/NĐ-CP trong đó có đối tượng là Hộ kinh doanh cá thể là đối tượng có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc; Nhưng từ thực tế cho thấy một số hộ do chưa nắm được trách nhiệm và quyền lợi của mình khi tham gia BHXH, hơn nữa đối tượng này thường tính toán thiệt hơn khi đến tuổi được hưởng chế độ hưu trí nhưng số năm tham gia BHXH lại chưa đủ năm theo Luật nên chưa tham gia BHXH, còn băn khoăn giữa các loại bảo hiểm với BHXH mặt khác cán bộ BHXH làm công tác thu BHXH thuộc các huyện thị còn mang tính chất đi vận động tham gia BHXH; một số hộ đã nắm được chế độ thì tham gia BHXH trước 1 tháng (trước khi sinh con), người nhà bị đau ốm, bệnh dài ngày để được hưởng chế độ nghỉ thai sản. Tuy nhiên công tác thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang vẫn còn những hạn chế làm cho công tác này chưa phát huy được hết vai trò của mình đối với quỹ BHXH những mặt hạn chế đó là:
Các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh cá thể có tổng số lao động rất đông nhưng đăng ký tham gia BHXH còn ít với nhiều lý do khác nhau để chốn tránh trách nhiệm đóng BHXH, nguyên nhân do chủ sử dụng lao động chưa thực sự quan tâm đến quyền lợi của người lao động và nghĩa vụ đóng của góp của mình đối với người lao động bằng cách ký hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng, thuê mướn lao động theo ngày, Tạm dừng hợp đồng lao động… nếu có tham gia đóng BHXH thì chỉ đóng cho chính mình và người nhà mình hoặc cho những người đang cần được bảo hiểm xã hội giúp đỡ. Có nhiều đơn vị doanh nghiệp không muốn tham gia BHXH cho người lao động họ nhằm tận dụng nguồn kinh phí không phải bỏ ra cho người lao động để đầu tư lại cho sản xuất, chính vì lẽ đó mà họ luôn tìm cách né tránh đóng BHXH cho người lao động chẳng hạn như thuê lao động mang tính thời vụ kéo dài thời gian thử việc, trì hoãn hợp đồng người lao động cố tình trong việc ký hợp đồng lao động với người lao động họ lợi dụng, sự hiểu biết về BHXH của người lao động còn ít nhưng khi tuyển dụng lao động doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ đảm bảo quyền lợi cho họ bên cạnh đó cũng có số doanh nghiệp hiểu và muốn tham gia BHXH cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình sản xuất của họ gặp nhiều khó khăn do tình hình sản xuất kém vì vốn đầu tư ít làm ra không tiêu thụ được ngay sản phẩm không có ai đứng ra thu mua bao tiêu sản phẩm năng lực tài chính thấp không đủ trả lương cho người lao động theo đúng việc ký kết ban đầu mà chỉ trả được một phần nào đấy còn lại doanh nghiệp nợ lại người lao động trả dần trong năm do vậy họ không đủ khả năng đóng BHXH cho người lao động họ cũng biết mình vi phạm luật lao động về quyền và trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc tham gia BHXH .
Từ phía người lao động: phần lớn người lao động chưa nhận thức được hoặc nhận thức chưa đúng đắn về BHXH và không nắm rõ được về quyền lợi và nghĩa vụ đóng và lợi ích khi tham gia đóng BHXH và không muốm tham gia BHXH ngược lại có những người lao động hiểu về BHXH nhưng chủ doanh nghiệp không đóng BHXH cho họ và họ không dám đòi hỏi quyền lợi đóng cho mình vì sợ chủ doanh nghiệp cho nghỉ việc hoặc người sử dụng lao động cho tham gia BHXH một số lao động không muốn tham gia với lý do rất đơn giản mức thu nhập thấp nếu đóng thì không đủ chi tiêu trang trải hàng ngày.
Về cơ chế chính sách: Nghị quyết về chính sách BHXH ở tỉnh Tuyên Quang chưa cụ thể hóa chỉ tiêu thu ở các đơn vị ngoài quốc doanh, hợp tác xã tổ hộ sản xuất kinh doanh mà mới chỉ là chung chung do vậy doanh nghiệp dựa vào đó trốn tránh đóng BHXH cho người lao động nếu đưa vào Nghị quyết là nếu doanh nghiệp nào không tham gia BHXH cho người lao động thì tạm đình chỉ sản xuất kinh doanh hoặc rút giấy phép kinh doanh nếu được như vậy thì sẽ đảm bảo được mọi quyền lợi cho người lao động
Đối với người lao động tham gia BHXH được quy định rất rõ trong Luật lao động, các nghị định của Chính phủ về lai lịch nhân thân, quá trình công tác , quá trình tham gia BHXH, số tiền đóng BHXH theo từng mốc nâng lương cụ thể, trên thực tế một số đơn vị lập hồ sơ sai lệch với hồ sơ gốc, mức thời gian đóng bảo hiểm xã hội như chủ yếu của người lao động trước tháng 1/1995: quyết định hưởng một mức nhưng đóng bảo hiểm xã hội lại một mức (chủ yếu khai mức thấp hơn lương thực tế), quyết định điều động việc này nhưng xếp lương đóng bảo hiểm xã hội việc khác, nhất là việc doanh nghiệp tự chuyển xếp lương theo nghị định 26/CP chưa thực hiện đúng quy định. Việc quản lý hồ sơ của các doanh nghiệp bị thất lạc, hoặc thực hiện các thủ tục trong công tác tổ chức thiếu kế hoạch làm cho hồ sơ thiếu: các quyết định tuyển dụng, điều động, nâng lương... thậm chí mất hết cả hồ sơ lý lịch gốc hoặc tẩy xoá, thậm chí làm sai lệch so với hồ sơ gốc.
Giám đốc doanh nghiệp thiếu quan tâm đến hồ sơ người lao động nên việc kiện toàn, rà soát hồ sơ còn có mức độ... đều làm ảnh hưởng đến việc xác nhận trên sổ bảo hiển xã hội để giải quyết chế độ cho người lao động. Do việc quản lý ở một số cơ quan doanh nghiệp chưa chặt chẽ, nhất là việc triển khai thực hiện Bộ luật lao động trong các doanh nghiệp nhà nước còn chậm nên một số doanh nghiệp đến nay việc lập danh sách và quản lý lao động có tham gia bảo hiểm xã hội chưa chính xác từ số lượng người đến mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội. Do vậy tình trạng kê khai thiếu người, khai giảm mức lương làm căn cứ trích nộp bảo hiểm xã hội từ các năm trước chưa được khắc phục.
Những đơn vị xếp tiền lương, tiền công theo bảng lương quy định theo nghị định 26/CP v/v chuyển xếp lương theo hệ số thì bắt buộc đơn vị phải có danh sách chuyển xếp lương, có đơn vị cấp trên, cấp ký thành lập xác nhận thế nhưng đến nay vẫn có doanh nghiệp chưa nhìn nhận đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ trong chính sách bảo hiểm xã hội theo cơ chế quản lý mới, vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, chưa tham gia trích nộp quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội nhưng lại muốn người lao động được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội như cơ chế quản lý trước đây. Cá biệt có doanh nghiệp biết nợ là phải trích nộp nhưng cứ muốn giãn kéo để được miễn giảm như một số loại đóng góp khác, cũng có khi cố tình chiếm dụng để làm vốn lưu động để kinh doanh, những DN này quá trình giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí chưa thể giải quyết được bởi không xác định được mức đóng góp của từng người chỉ đến khi giải quyết chế độ cho người lao động đơn vị buộc phải đưa ra căn cứ xác định như vậy gây nhiều rắc rối, phức tạp cho công tác thẩm định hồ sơ giải quyết chế độ cho người lao động.
Từ khi thực hiện Nghị định số 12/N Đ-CP ngày 20/01/1995 và Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ đã có nhiều doanh nghiệp nhận thức đầy đủ đúng đắn ý nghĩa đó nhưng cũng còn không ít doanh nghiệp hiểu chưa đủ, chưa đúng nên việc quyết tâm chỉ đạo quản lý để thực hiện trích nộp % quỹ tiền lương vào quỹ bảo hiểm xã hội chưa trở thành công việc thiết thực, thường kỳ của cán bộ quản lý cũng như sự lãnh đạo của cấp uỷ ở doanh nghiệp.
Tình hình trích nộp thiếu quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu còn diễn ra ở một số doanh nghiệp nhà nước trong toàn tỉnh, có những nguyên nhân chủ quan như đã nêu ở trên cũng còn những nguyên nhân khách quan, chi phối tác động tới những doanh nghiệp thực hiện các kế hoạch, dự án thiếu tính khả thi hoặc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kinh doanh đạt thấp, sản phẩm sản xuất ra chưa chiếm lĩnh và tiêu thụ được trên thị trường nội ngoại tỉnh. Những doanh nghiệp này trong những năm qua việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội tuy có cố gắng nhưng thực tế trích nộp quỹ bảo hiểm xã hội không đạt được kế hoạch, thiếu nợ kéo dài đ ến 31/12/2006 như:
Công ty chè Sông lô còn nợ tới 2,513 tỷ đồng
Công ty chè Tân Trào 1,676 tỷ đồng
Công ty phát triển công nghiệp Tuyên quang 1,532 tỷ đồng.
Ngoài ra còn các đơn vị thuộc tổng công ty Sông Đà đang thi công trên công trường thuỷ điện Tuyên Quang...
(theo số liệu báo cáo của phòng thu năm 2006).
- Công tác quản lý Nhà nước: sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ: nhiều Doanh nghiệp không đăng ký sử dụng lao động với cơ quan quản lý nhà nước về lao động trên địa bàn, HĐLĐ chưa đúng qui định nhưng không bị sử lý.
- Đối với ngành BHXH:
Công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các chế độ chính sách về quyền lợi khi tham gia BHXH trong thời gian qua còn ít, chưa có các hình thức tuyên truyền đa dạng phong phú rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng nên phần nào người lao động thiếu hiểu biết về các điều của điều lệ BHXH. Đây cũng là một hạn chế của ngành trong những năm qua đối với công tác thu BHXH.
Nhiều văn bản chỉ đạo có quy định nội dung và thời gian báo cáo chưa được thực hiện một cách triệt để nhất là khi thực hiện Nghị định số 01/2003/NĐ-CP về mở rộng đối tượng cho nên những vướng mắc không thể có biện pháp sử lý kịp thời.
Việc kểm tra đôn đốc thu nộp BHXH,BHYT bắt buộc vẫn còn buông lỏng, có những hạn chế, sai sót. ở một vài doanh nghiệp số tiền nợ đọng còn kéo dài, hoặc thu chưa đúng, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc xác nhận sổ BHXH.
Tác phong làm việc của một số cán bộ làm công tác thu còn chậm, nặng về hành chính sự vụ, sử lý công việc còn máy móc, chủ yếu theo đề nghị của đơn vị sử dụng lao động, chưa kiểm tra sâu sát đúng với yêu cầu của quản lý.
Việc khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT ở một vài cơ sở y tế còn gây nhiều phiền hà chưa thực sự đem lại niềm tin cho người bệnh từ đó tạo tâm lý chưa tốt cho người tham gia BHYT.
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ, nhưng thực tế tại Tuyên Quang triển khai thực hiện từ tháng 01/2006. Nên có ảnh hưởng đến việc thu BHXH và giải quyết chế độ chính sách cho những đối tượng này.
II. Quản lý thu BHXH tại Tuyên Quang.
1) Quản lý thu BHXH Tại BHXH Tuyên Quang.
Thực hiện Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995, Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 và Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ở nước ta đã được mở rộng, không chỉ bao gồm công nhân viên chức, lực lượng vũ trang mà gồm tất cả mọi người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế quốc dân, Mức đóng tăng theo từng mốc thời gian và sẽ ổn định 24% từ ngày 01/01/2014, tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng cũng thay đổi (bỏ không thu % phụ cấp khu vực), ngoài ra có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác như viện trợ nước ngoài, sự ủng hộ của các tổ chức và lãi từ hoạt động đầu tư….
* Phân cấp thu BHXH Tỉnh Tuyên Quang:
Bảo hiểm xã hội tỉnh tổ chức thu BHXH của các đơn vị sử dụng lao động đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm:
Các đơn vị do Trung ương quản lý.
Các đơn vị do Tỉnh trực tiếp quản lý.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các đơn vị, tổ chức quốc tế.
Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động với số lượng lớn (Do Giám đốc BHXH tỉnh xác định cụ thể).
Các cơ quan tổ chức, doanh nghiệp đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Đối với những đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện ,thị không đủ điều kiện thu BHXH thì BHXH tỉnh trực tiếp thu.
* Phân cấp quản lý thu BHXH đối với các đơn vị sử dung lao động:
Thực hiện quy định về quản lý thu BHXH thuộc hệ thống BHXH Việt Nam ban hành kèm theo quyết định số 2902/1999/QĐ BHXH ngày 23/11/1999 của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam.
Giám đốc BHXH Tỉnh Tuyên quang chỉ đạo tổ chức thực hiện Phòng thu và BHXH Huyện thu BHXH ở tất cả các đơn vị sử dụng lao động có tài khoản và trụ sở đóng trên địa bàn tỉnh theo phân cấp quản lý sau:
Bảo hiểm xã hội Tuyên quang thực hiện thu năm 2006: số đơn vị đóng trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang thuộc diện tham gia đóng bảo hiểm xã hội, BHYT là 2.233 đơn vị, với số lao động tham gia là 281.219 người. Trong đó:
* Phân cấp thu theo từng khối:
- Khối hành chính sự nghiệp: bao gồm các cơ quan và đoàn thể hưởng tiền lương từ ngân sách Nhà nước, tương đối ổn định vè con người, nhưng đi sâu thực tế nghiệp vụ thu lại rất đa dạng và phức tạ bởi qũy tiền lương của người lao động luôn biến động như chuyển ngạch, nâng bậc lương,.. tuy vậy khả năng thu từ khối này thuận lợi hơn các khối khác vì số tiền nộp trích theo quỹ tiền lương ngân sách cấp.
- Khối doanh nghiệp nhà nước với công tác thu BHXH từ các đơn vị này luôn được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp vì số lao động tham gia trực tiếp sản xuất khá đông phải đảm bảo quyền lợi cho họ, tuy nhiên trong quá trình thu cũng gặp khó khăn đó là do tình trạng hoạt động sản xuất kinh doanh gặp khó khăn, làm ăn kém hiệu quả dẫn tới trích nộp còn chậm có đơn vị còn nợ kéo dài.
- Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh gồm các đơn vị sản xuất kinh doanh công ty cổ phần, công ty TNHH, Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể… khối này có số đơn vị khá đông, số lao động nhiều những các quyền lợi từ chế độ BHXH lại rất hạn chế do chủ sử dụng lao động ít quan tâm, chốn tránh trách nhiệm…nên công tác thu ở khối này rất khó khăn phức tạp.
* BHXH Tỉnh (phòng Quản lý thu) bao gồm:
- Các đơn vị do trung ương quản lý
- Các đơn vị do phòng Quản lý thu trực tiếp quản lý 154 đơn vị, 249.971 lao động.
* BHXH các huyện thu những đơn vị do Huyện trực tiếp quản lý, các đơn vị doanh nghiệp nhỏ (dưới 50 lao động), các xã phường với 2.079 đơn vị, 31.248 lao động. Trong đ ó:
BHXH thị xã Tuyên Quang:
533 đơn vị
4.310 người
BHXH huyện Yên Sơn:
419 đơn vị
7.737 người
BHXH huyện Sơn Dương
390 đơn vị
6.760 người
BHXH huyện Hàm Yên
220 đơn vị
4.091 người
BHXH huyện Chiêm Hoá
295 đơn vị
5.707 người
BHXH huyện Na Hang
192 đơn vị
2.842
* Đối tượng tham gia BHXH - Mức thu 23%:
Khối DN nhà nước: 53 đơn vị với số lao động là 8.077 người
Khối DN ngoài quốc doanh: 267 đơn vị số lao động là 5.435 người
Trong đó:
DN cổ phần: 24 đơn vị với số lao động là 3.860 người
DNTN , TNHH: 243 đơn vị với số lao động là 1.575 người
Khối HCSN: 869 đơn vị với số lao động là: 18.815 Người
trong đó:
Khối cơ quan 277 đơn vị với số lao động 5.499 người
Khối giáo dục công lập: 432 đơn vị với số lao động 11.544 người
Khối Y tế: 160 đơn vị số lao động 1.772 người
Khối giáo dục ngoài công Lập: 152 đơn vị số lao động 1.976 người.
Hợp tác xã: 97 đơn vị số lao động 563 người
Hộ kinh doanh cá thể: 653 đơn vị số lao động 1.164 người
Đối với cán bộ xã phường :
số đơn vị 142 với số lao động tham gia 2.599 người
* Đối tượng tham gia BHYT - Mức thu 3%:
Bảo trợ xã hội: 21 người
Đại biểu HĐND 2.302 người
Thân nhân sỹ quan quân đội : 1.329 người
Người có công 7.466 người
Thân nhân sỹ quan công an : 1.714 người;
Người nghèo: 221.303 người;
Cựu chiến binh: 6.344 người;
Ngoài ra còn những đối tượng như: Người cao tuổi, trẻ em khó khăn...
Bảng 1. Kết quả thu bảo hiểm xã hội từ năm 2003 đến năm 2006
Năm
Số lao động / đơn vị
Kết quả thu BHXH, BHYT (Tỷ đồng)
Tỷ lệ đạt(%)
2002
33.658/1.104
41,764
101,86
2003
46.846/1.303
70,757
101,083
2004
75.050/1.597
76,451
101,93
2005
68.162/2.023
99,383
104,61
2006
281.219/2.233
130,622
108,85
(Nguồn số liệu:Báo cáo thu các năm từ 2003 - 2006 của BHXH Tuyên Quang )
2) Đánh giá công tác thu BHXH tại BHXH Tuyên Quang:
Trong mười năm qua, ngành BHXH đạt được kết quả như bây giờ và đã có những bước đột phá là được sự quan tâm giúp đỡ của Thường trực HĐND, Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Tuyên Quang và sự phối hợp của các cơ quan ban ngành và tập thể cán bộ công nhân viên chức BHXH toàn tỉnh đã không ngừng nỗ nực phấn đấu tu dưỡng rèn luyện sáng tạo để phát triển mạnh mẽ toàn nghành về thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình quỹ tài chính của BHXH tỉnh đã được ổn định và phát triển trên cơ sở hình thành được quỹ BHXH độc lập ngoài NSNN. Với nguồn đóng góp chủ yếu từ người sử dụng lao động và người lao động quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH được tiến hành trên nguyên tắc có đóng mới có hưởng, chính vì vậy mà các quan hệ tài chính trong BHXH đã rõ ràng, việc quản lý quỹ được hình thành tốt, phục vụ tốt hơn quyền lợi của NLĐ do đó trong thời gian qua BHXH Tuyên Quang đã gặt hái được rất nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực.
Thực hiện kế hoạch hàng năm BHXH Tuyên Quang đã triển khai công tác thu với số đơn vị và số lao động đều tăng qua các năm, năm 2000 BHXH Tuyên Quang quản lý 935 đơn vị với 30.368 lao động, số thu tiền BHXH là: 32,632tỷ đồng, đến năm 2006 đã có 2.233 đơn vị với 281.219 lao động, số thu tiền BHXH là: 130,622 tỷ đồng (năm 2006 so với năm 2000 số thu tăng gần 4 lần).
Để đạt được những kết quả trên BHXH tỉnh đã tập trung thực hiện một số giải pháp sau:
- Tăng do đối tượng tham gia BHXH, BHYT do Chính phủ bổ sung các nghị định nên đối tượng tham gia được mở rộng; Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 bổ sung Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ (về chế độ BHXH); Nghị định số 63/2005/NĐ CP, ngày 16/5/2005 bổ sung cho Nghị định số: 58/1998/NĐ-CP ngày 13 /8 /1998 của Chính phủ (về chế độ BHYT).
- Chỉ thị 15/CT TU ngày 26/5/1997của Bộ chính trị và thông báo số 62/TB TU của Thường trực Tỉnh uỷ đã có tác động mạnh mẽ thực sự đi vào cuộc sống của người lao động, các đồng chí lãnh đạo, cấp uỷ, Đảng, chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị doanh nghiệp, đã có nhận thức đúng đắn về việc trích nộp bảo hiểm xã hội để đảm bảo nghĩa vụ và quyền lợi cho người lao động.
Được sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Tỉnh uỷ, UBND Tỉnh và Bảo hiểm xã hội Việt Nam , Lãnh đạo Tỉnh đã dành nhiều thời gian để nghe báo cáo về tình hình hoạt động của Bảo hiểm xã hội địa phương, quan tâm chỉ đạo việc sơ kết, tổng kết của ngành để đánh giá những việc đã làm được và chưa làm được, kịp thời động viên những đơn vị điển hình thực hiện tốt chính sách bảo hiểm xã hội và chỉ ra những biện pháp khắc phục những tồn tại của cơ quan Bảo hiểm xã hội , cùng với sự kết hợp với hỗ trợ có hiệu quả của các Sở, ban ngành có liên quan cùng với sự cộng tác chặt chẽ, thường xuyên của các đơn vị sử dụng lao động.
Có được kết quả trên là nhờ sự nỗ lực của toàn ngành nói chung mà trước hết là cán bộ thu bảo hiểm xã hội, đội ngũ cán bộ được giao quản lý thu của Bảo hiểm xã hội Tỉnh và các huyện thị đã có nhiều cố gắng, năng lực công tác ngày một nâng cao, luôn bám sát nắm cơ sở Bảo hiểm xã hội Tỉnh đôn đốc các đơn vị lập đầy đủ danh sách đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội hàng năm, danh sách tăng giảm về lao động và tiền lương hàng quý nên quản lý thu quỹ tiền lương của số lao động tham gia bảo hiểm xã hội luôn đúng, đủ, luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Việc thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, trong đó có việc nộp BHXH của các đơn vị đã gắn với việc bình xét Chi, Đảng bộ trong sạch vững mạnh, công tác thi đua từ đó các cấp các ngành, các đơn vị doanh nghiệp đã chuyển biến tích cực trong việc thực hiện chế độ chính sách bảo hiểm xã hội cho người lao động.
Hệ thống bảo hiểm xã hội ở địa phương đã thực hiện tốt các cơ chế mới về công tác thu. Đó là nộp toàn bộ số thu bảo hiểm xã hội của các cơ quan đơn vị hành chính sự nghiệp vào tài khoản thu bảo hiểm xã hội tại kho bạc nhà nước. Số thu của các doanh nghiệp nộp vào tài khoản tiền gửi Ngân hàng nông nghiệp Tỉnh theo định kỳ 10 ngày một lần trích chuyển về Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Những năm đầu mới thành lập việc cấp sổ BHXH cho người lao động mới tập trung đảm bảo về số lượng chưa chú trọng tới chất lương chủ động phối hợp với ngành lao động thương binh và xã hội; cơ quan Tổ chức chính quyền tỉnh ra văn bản hướng dẫn đơn vị kiện toàn hồ sơ cấp sổ cho người lao động, việc triển khai công tác cấp sổ bảo hiểm xã hội là một trong những động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc tham gia bảo hiểm xã hội của các đơn vị, nhất là đối với các doanh nghiệp nhà nước. Đa số các đơn vị sử dụng lao động đã có chuyển biến nhận thức đầy đủ về Bộ luật lao động và điều lệ Bảo hiểm xã hội nhất là một số đơn vị sản xuất kinh doanh tuy có khó khăn về vốn, việc làm, tiêu thụ sản phẩm song đơn vị vẫn thực hiện đầy đủ trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động theo mức lương ngạch thực tế.
Triển khai nghị định 09/NĐ-CP ngày 23/9/1998 và Nghị định 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của chính phủ về chế độ, chính sách đối với cán bộ xã phường, thị trấn, được sự phối, kết hợp chặt chẽ của các cấp chính quyền địa phương và các ngành tài chính, Ban tổ chức chính quyền, kho bạc nên đã hoàn thành thu bổ sung về tiền lương và mức nộp cho đối tượng này trong quý trong năm 2006.
Kiện toàn từng bước công tác thu bảo hiểm xã hội, theo dõi và quản lý chặt chẽ, chính xác về số lao động và xác định được mức lương của từng người tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 4/1993 đến nay. Việc trích nộp 23% (trước tháng 1 năm 2003 thu 20%) quỹ tiền lương của từng đơn vị đã được xác lập. Những đơn vị nợ đọng vừa lập danh sách trích nộp bảo hiểm xã hội đồng thời xác định được mức nợ của người lao động và của đơn vị sử dụng lao động, việc xác định nợ bảo hiểm xã hội đến từng người ở các doanh nghiệp có số nợ kéo dài đã chỉ ra được rõ ràng trách nhiệm của cá nhân và của đơn vị sử dụng lao động, BHXH đã đề ra gải pháp thu nợ đó là những người đến thời hạn giải quyết chế độ thì yêu cầu đơn vị sử dụng lao động phải nộp toàn bộ số tiền BHXH phát sinh trong năm và nộp trước một phần nợ trước để giải quyết chế độ kịp thời cho người lao động. Mặt khác khi có người lao động có nhu cầu được chuyển công tác , đến tuổi nghỉ hưu, để không ùn tắc gây khó khăn cho người lao động và đơn vị từ cuối năm 1996, Thông qua việc giải quyết này giúp cho đơn vị khắc phục khó khăn về tổ chức cũng như giữ ổn định về tình hình tập trung sản xuất. Cũng vì thế hầu hết các chủ sử dụng lao động từ nhận thức đối với công tác thu còn mang tính bao cấp, đến nay đã xác định được trách nhiệm của mình quan tâm đến quyền lợi của người lao động, trước đây việc trích nộp bảo hiểm xã hội chưa đưa vào chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm được đúng nay đơn vị nào cũng lập được kế hoạch thu đúng theo mức tiền lương của từng người và phân công cán bộ chuyên trách về theo dõi quản lý thu, đảm baỏ trích nộp bảo hiểm xã hội đúng đủ cho người lao động. - Để có những thông tin về đơn vị sử dụng lao động , người lao động và hoạt động của đơn vị, BHXH Tỉnh xác định cách làm mang lại hiệu qủa nhất và gắn kết mối quan hệ giữa cơ quan BHXH với đối tượng tham gia đó là Cán bộ BHXH phải thường xuyên đến với đơn vị, nắm bắt tình hình biến động, lao động tiền lương, thu nhập của đối tượng, hướng dẫn, vận động, đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện và tham gia BHXH, BHYT của đơn vị sử dụng lao động và người lao động.
Chủ động phối hợp với các ngành Lao động thương binh và xã hội; Liên đoàn lao động tỉnh; Sở kế hoạch và đầu tư; Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, cơ quan thuế… để nắm bắt tình hình lao động việc làm và thu nhập của người lao động, do tình trạng hồ sơ người lao động bị thất lạc nhiều BHXH đã phối hợp với các cơ quan, ngành có liên quan ra các văn bản hướng dẫn giúp đơn vị nhanh chóng kiện toàn hồ sơ thu và cấp sổ BHXH cho người lao động để có biện pháp thu phù hợp... Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động cho người lao động và các đối tượng để tham gia BHXH, BHYT.
Hằng tháng báo cáo tình hình thực hiện chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh, đồng thời tham mưu, đề xuất các biện pháp có tính khả thi giúp cấp ủy và chính quyền chỉ đạo cơ sở thực hiện tốt chế độ, chính sách BHXH, BHYT. Thông qua công tác thông tin, tuyên truyền chế độ, chính sách và các quy định mới về BHXH, BHYT trước hết là quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sử dụng lao động và các đối tượng tham gia BHXH, BHYT đã tạo ra chuyển biến tích cực về mặt nhận thức của người lao động và các đơn vị sử dụng lao động trong việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH trên địa bàn tỉnh, đã tạo môi trường lành mạnh, thống nhất cho mọi loại hình lao động trong tỉnh có thể di chuyển nơi làm việc từ cơ quan, đơn vị này sang các doanh nghiệp, cơ sở khác trong mọi thành phần kinh tế mà không ảnh hưởng đến quyền được bảo vệ của Nhà nước và xã hội về BHXH, BHYT; góp phần tích cực vào việc phát triển của các thành phần kinh tế đất nước.
Đi đôi với công tác thu BHXH, năm 2006 đã cấp được 282.000 thẻ BHYT khám chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, đặc biệt trong năm đã cấp thẻ BHYT cho đối tượng người nghèo (221.303 thẻ), Cựu chiến binh tham gia Quân đội trước ngày 30/4/1975 (6.361 thẻ) và đối tượng thân nhân sỹ quan quân đội, thân nhân sỹ quan công an đang tại ngũ và đang còn công tác... kịp thời.
Thực hiện Nghị định số: 58/1998/NĐ-CP ngày 13 /8 /1998 và Nghị định số: 63/2005/NĐ- CP ngày 16 / 5 / 2005 của Chính phủ, đối tượng tham gia BHYT tự nguyện trong những năm qua được mở rộng, số lượng người tham gia ngày càng nhiều (tính đến hết 31/12/2006 đã phát hành được 51.931 thẻ BHYT, tương ứng số tiền 2,650tỷ đồng) ngoài việc tiếp tục thực hiện tốt BHYT học sinh, đã mở rộng thêm đối tượng là dân cư theo địa giới hành chính và thân nhân người lao động, đặc biệt đã phối hợp tuyên truyền, quan tâm thực hiện BHYT tự nguyện kịp thời đối với hội viên Hội Nông dân, Phụ nữ, đoàn thanh niên và Hội chữ thập đỏ.…
Công tác chi trả: Luôn được trú trọng từ khâu xác nhận hồ sơ, tính toán số tiền được hưởng của đối tượng về các chế độ BHXH (ngắn hạn, dài hạn) được giải quyết theo đúng quy trình, tập trung vào một đầu mối, công khai và công bằng đặc biệt là các chế độ hưu trí, MSLĐ, trợ cấp hàng tháng, BHXH tỉnh đã thực hiện ký hợp đồng với người lao động làm công tác chi trả theo định kỳ , hàng tháng phối hợp với chính quyền địa phương và lực lượng bảo vệ nên công tác chi trả đảm bảo đến tận tay người được hưởng theo địa bàn cư trú kịp thời và an toàn.
Bảng 2: Báo cáo chi trả các chế độ BHXH tại tỉnh Tuyên Quang
Năm
Nguồn ngân sách NN
Nguồn Quỹ BHXH
Người
Tiền (đồng)
Người
Tiền (đồng)
2002
18.524
82.045.326.300
1.783
8.133.267.600
2003
18.028
112.791.919.800
2.350
15.249.207.900
2004
17.601
115.846.010.000
3.368
21.961.442.800
2005
17.240
134.201.552.000
4.139
37.092.155.100
2006
16.956
172.060.371.100
5.898
65.995.234.400
( Nguồn: Phòng chế độ chính sách BHXH tỉnh Tuyên Quang)
CHƯƠNG III
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH
và chống thất thu BHXH tại Tuyên Quang
I. Phương hướng hoàn thiện công tác thu BHXH.
Thường xuyên giáo dục rèn luyện cán bộ làm công tác thu có tình thần thái độ phục vụ tận tình chu đáo, tránh máy móc đòi hỏi sách nhiễu gây phiền hà; tổ chức học tập các quy định mới theo Luật BHXH, tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác thu
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền với nhiều hình thức đa dạng phong phú về các chính sách BHXH chế độ quyền lợi đối với người lao động.
Khai thác triệt để đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và BHYT Tự nguyện.
Thực hiện đúng nguyên tắc BHXH đó là có nộp tiền vào quỹ BHXH thì mới được hưởng các chế độ BHXH, giải quyết kịp thời, đúng chế độ BHXH, đảm bảo quyền lợi cho người lao động có tham gia BHXH tạo niềm tin cho người lao động. Đối với đơn vị nợ BHXH kéo dài hoặc nộp BHXH chậm kiên quyết không giải quyết bất cứ trường hợp nào khi chưa đóng đủ tiền BHXH theo quy định đồng thời phải xử lý theo luật định.
Thành lập bộ cán bộ phận thuộc phòng thu chuyên theo dõi, hướng dẫn BHXH các huyện, thị thường xuyên kiểm tra nắm bắt tình hình thu BHXH của các huyện thị xã để kịp thời đề ra các biện pháp chỉ đạo, tháo gỡ cùng với chính quyền địa phương, đơn vị, để hoàn thành bằng được chỉ tiêu thu hằng năm.
Phối hợp chặt chẽ với các cấp, các nghành chức năng (cơ quan thuế, tài chính, Lao động thương binh xã hội, Kế hoạch đầu tư, Thống kê, Giáo dục, Y tế, công an), tăng cường công tác kiểm tra giám sát, nắm bắt tình hình đơn vị để kịp thời phát hiện những sai phạm, phản ảnh những tồn tại chấn chỉnh kịp thời và kiến nghị những biện pháp giải quyết với cấp uỷ và chính quyền địa phương trong việc thực hiện chính sách BHXH của từng đơn vị.
II . Một số giải pháp về công tác thu BHXH tại Tuyên Quang
1) Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội.
Trong công cuộc đổi mới đất nước và đang trên con đường hội nhập quốc tế, đòi hỏi các chính sách được thể hiện trong các bộ Luật phải ngang tầm với khu vực và thế giới trong đó có chính sách Bảo hiểm xã hội.
Tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI, đã thông qua Luật BHXH Ngày 29/6/2006; ngày 22/12/2006 Chính phủ đã ban hành nghị định số 152/N Đ-CP hướng dẫn thực hiện Luật BHXH, đây là cơ sở pháp lý tạo điều kiện thuận lợi cho công tác triển khai thực hiện các chế độ về BHXH. Mỗi cán bộ viên chức phải thường xuyên học tập nắm vững các điều luật, đồng thời cơ quan phải có kế hoạch tập huấn cho cán bộ những nội dung cần thiết, tăng cường thông tin tuyên truyền tới mọi ngành, mọi đối tượng trên phạm vi toàn tỉnh về các quy định về BHXH.
Nâng cao chất lượng cũng như khả năng thực thi của các văn bản mang tính pháp lý về hoạt động bảo hiểm xã hội, hình thành hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội phù hợp với mọi thành phần kinh tế và mọi hoạt động kinh tế trong cả nước để đảm bảo tính chất xã hội hoá của bảo hiểm xã hội. Cần xác định rõ trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, vai trò của công đoàn, để đảm bảo đầy đủ quyền lợi hợp pháp và quyền bình đẳng cho mọi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội.
Chính phủ cần tăng cường sự điều hành, thanh tra, kiểm tra và kiểm soát việc thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội với cơ quan bảo hiểm xã hội, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chức năng trong việc ban hành các văn bản điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội và đề ra các chính sách bảo hiểm xã hội phù hợp. tăng cường bảo hiểm xã hội để phát hiện kịp thời những trường hợp vi phạm hoặc những điểm không phù hợp với thực tế.
2) Có chương trình quy hoạch đào tạo và sử dụng cán bộ
Là một ngành được thành lập hơn mười năm , quá trình hoạt động cũng là quá trình đào tạo, Cán bộ nhân viên đều chuyển từ các ngành sang cho nên không tránh khỏi những tồn tại yếu điểm từ nhận thức đến chuyên môn nghiệp vụ kể cả tác phong nề lối làm việc chưa thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành mà Đảng và nhà nước giao cho.Trong nh ững n ăm gần đây BHXH các Tỉnh đã quan tâm giải quyết cho hầu hết cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp vừa công tác vừa đi học tại chức tại các trường đại học để họ nâng cao được trình độ nghiệp vụ cũng như trình độ quản lý. Song đó mới chỉ là giải pháp mang tính chất tình thế nên khó tránh khỏi tình trạng chắp vá cả về số lượng và chất lượng. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một định hướng đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ của toàn ngành bảo hiểm xã hội.
Quản lý, đào tạo phát triển nguồn nhân lực, muốn xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội của Việt Nam vững mạnh thì Đảng và Nhà nước phải tăng cường đầu tư cho ngành để có một chương trình đào tạo và sử dụng hợp lý và khoa học. Bên cạnh đó bản thân ngành bảo hiểm xã hội cũng phải nỗ lực triển khai các chương trình đào tạo đó.
Để có một lực lượng CBVC ngành BHXH vững mạnh đủ sức đảm nhận nhiệm vụ ngày càng nặng nề chúng ta cần quan tâm tới nguồn nhân lực mà phải bắt đầu từ việc tuyển dụng cán bộ ngành bảo hiểm xã hội không chỉ chú ý đến số lượng mà phải quan tâm đến chất lượng cán bộ, đặc biệt là đối với chức danh giám đốc và kế toán trưởng, trưởng, phó phòng. Cần lựa chọn các có nhân tiêu biểu, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường đúng đắn,
3) Mở rộng nguồn thu bảo hiểm xã hội
Nước ta đang trên con đường hội nhập quốc tế, kinh tế tăng trưởng không ngừng, đời sống xã hội của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao, nguyện vọng của người lao động và phương hướng xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương thực hiện bảo hiểm xã hội cho mọi người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế thể hiện trong Luật Bảo hiểm xã hội . Khi mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội chính là đã tạo ra mạng lưới bảo vệ rộng khắp, che chắn cho mọi người lao động không bị rơi vào cảnh nghèo khó, Nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số sống bằng nghề nông, ngoài ra còn có thợ thủ công, người buôn bán nhỏ... Các đối tượng này chiếm đại bộ phận trong tổng số lao động nước ta vẫn chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Trên thực tế mới chỉ có khoảng 4 triệu lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn hơn 30 triệu lao động chưa có điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội. Do vậy, Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 09/01/2003; từ này 01/01/2007 thực hiện Luật bảo hiểm xã hội: số đối tượng bắt buộc tham gia BHXH được mở rộng như: Doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể không còn phụ thuộc vào số người như quy định trước (doanh nghiệp phải có từ 10 lao động trở lên mới được tham gia BHXH) như vậy mọi người lao động đều được tham gia bảo hiểm xã hội. Tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bắt buộc được quy định: Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là mức tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản phụ cấp khu vực (từ 01/01/2007 không thu phụ cấp khu vực), phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có) tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung tại thời điểm đóng. Người lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động.
Tổng mức đóng được tăng theo từng mốc thời gian cụ thể:
Từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2009 mức đóng bằng 20%,
trong đó: NLĐ: 5%; NSDLD: 15%
Từ tháng 01/2010 đến tháng 12/2011 mức đóng bằng 22%,
trong đó: NLĐ: 6%; NSDLD: 16%
Từ tháng 01/2012 đến tháng 12/2013 mức đóng bằng 24%
trong đó: NLĐ: 7%; NSDLD: 17%
Từ tháng 01/2014 trở đi mức đóng bằng 26%
trong đó: NLĐ: 8%; NSDLD: 18%
Nên có quy định bắt buộc các doanh nghiệp này khi đăng ký kinh doanh đồng thời phải đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội thì mới cấp giấy phép kinh doanh. Đây là một vấn đề bức xúc cần được làm ngay.
4) Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội.
Luật BHXH đã được ban hành đối với đối tượng BHXH bắt buộc thực hiện từ ngày 01/01/2007, BHXH tự nguyện thực hiện từ ngày 01/01/2008 và BH thất nghiệp thực hiện từ ngày 01/01/2009. Đối với đối tượng tham gia BHXH bắt buộc có nhiều nội dung thay đổi so với các văn bản quy định về BHXH trước đây, bởi vậy muốn triển khai thực hiện có hiệu quả các chính sách chế độ BHXH ngành BHXH phải tăng cường công tác tuyên truyền với nhiều hình thức khác nhau mang đến cho đối tượng những điều cần thiết khi tham gia BHXH. Bảo hiểm xã hội Việt Nam mới đi vào hoạt động theo cơ chế mới, hạch toán độc lập, cân đối thu chi nên việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội là hết sức cần thiết. Công tác thông tin, tuyên truyền về bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được những kết quả đáng ghi nhận:
Đã nâng cao nhận thức xã hội đối với bảo hiểm xã hội, đưa ra những hình thức tuyên truyền hiệu quả hơn và đã xây dựng được đội ngũ đông đảo cộng tác viên. Nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ chung của ngành, công tác thông tin tuyên truyền về bảo hiểm xã hội còn nhiều hạn chế, tồn tại cần khắc phục. Nhìn chung vẫn còn không ít người lao động, chủ sử dụng lao động chưa có hiểu biết rõ ràng về bảo hiểm xã hội, thêm vào đó công tác tuyên truyền chưa được quan tâm một cách đúng mức, kinh phí tuyên truyền còn quá ít ỏi, hiệu quả tuyên truyền thấp. Để nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền cần phải thực hiện theo các hướng sau:
Về nội dung: Ngoài tuyên truyền chính sách, pháp luật và các chế độ bảo hiểm xã hội, giải đáp hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, kết quả các mặt hoạt động của ngành... Cần đặc biệt quan tâm đến nội dung mà lâu nay ít được đề cập đến đó là tuyên truyền về mục đích, bản chất nhân đạo nhân văn của bảo hiểm xã hội. Nếu chúng ta làm được điều đó thì sẽ từng bước thay đổi được tâm lý nặng nề của họ hiện nay là "bắt buộc" phải đóng bảo hiểm xã hội. Từ đó hình thành ở họ thái độ tự giác, tự nguyện tham gia bảo hiểm xã hội và có trách nhiệm nộp bảo hiểm xã hội. Mục đích thu BHXH không đơn thuần là thu tiền về quỹ BHXH mà chúng ta nên hiểu cặn kẽ ngọn nguồn của công tác thu là thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động , đó mới là biện pháp để thực hiện mục đích nhân đạo. Nội dung tuyên truyền mới chỉ dành riêng cho nội bộ ngành, chưa thu hút được đông đảo người lao động, chủ sử dụng lao động và các thành viên khác trong xã hội.
Về hình thức tuyên truyền: Tạp chí bảo hiểm xã hội Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc lịch sử trong công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội. Để phục vụ độc giả tốt hơn, tạp chí bảo hiểm xã hội phải đa dạng hoá nội dung và hình thức thực hiện. Trước hết là đội ngũ phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên phải có những bài viết sát thực tế và có chất lượng cao. Đòi hỏi đội ngũ biên tập viên, cộng tác viên trong và ngoài ngành phải có trình độ chuyên môn, trách nhiệm cao.
Tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng (Đài truyền hình, truyền thanh, báo chí...) để tuyên truyền sâu rộng hơn về bảo hiểm xã hội. Nội dung tuyên truyền cần ngắn gọn, dễ hiểu, gây được sự chú ý của mọi người.
Tổ chức các hội nghị khách hàng, các cuộc họp trong đó có các đại diện của cơ quan bảo hiểm xã hội, chủ sử dụng lao động, đại diện của người lao động để nhằm mục đích tuyên truyền về bảo hiểm xã hội giúp các bên tham gia hiểu rõ tính pháp luật của các bảo hiểm xã hội, nắm được quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Đồng thời qua đó thu nhập tổng hợp các ý kiến thắc mắc đóng góp từ phía người lao động, chủ sử dụng lao động để đưa ra các biện pháp phù hợp với nguyên vọng của họ.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các nội dung về BHXH được quy định trong luật BHXH theo từng nội dung, theo từng chuyên đề với các hình th c : thi viết, tiểu phẩm văn nghệ...thi tuyên truyền viên giỏi...
Phấn đấu mỗi cán bộ bảo hiểm xã hội là một tuyên truyền viên vì hơn ai hết họ hiểu rõ mục đích, bản chất, tác dụng và cách thức thực hiện các chính sách bảo hiểm xã hội .
Hiệu quả của tuyên truyền phải được đánh giá bởi mức độ ảnh hưởng thay đổi nhận thức, thái độ của đối tượng tham gia theo mục đích đã định, số lượng đối tượng được tuyên truyền, chi phí cho tuyên truyền, kết quả thể hiện số người tham gia BHXH và được hưởng các quyền lợi BHXH tăng lên.
5. Hoàn thiện nghiệp vụ thu và chống thất thu quỹ BHXH.
Những cán bộ làm công tác thu đòi hỏi phải năng động, sáng tạo, nhiệt tình say mê trong công việc, có đức tính trung thực, tinh thông nghiệp vụ. Công tác thu rất phức tạp và nhiều khó khăn bởi vì không đơn thuân là thu mà để có được một số tiền thu chính xác đối với một người đòi hỏi cán bộ thu phải xác định đúng đối tượng với quá trình công tác của người lao động, mức và tiền lương tiền công, thời gian... phải nộp, Do vậy cần có những chế độ ưu đãi đối với họ như: phương tiện đi lại, thanh toán công tác phí theo chế độ riêng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó chúng ta cũng nên quan tâm đến các tổ chức, đơn vị mà chúng ta quản lý. Chúng ta tiến hành các hình thức biểu dương khen thưởng các đơn vị luôn thực hiện đúng tiến độ thu bảo hiểm xã hội. Còn đối với các đơn vị nộp chậm, nộp thiếu tiền bảo hiểm xã hội thì chúng ta nên xem xét tình hình cụ thể của đơn vị. Nếu đơn vị thực sự gặp khó khăn thì đề nghị các cơ quan chức năng tạo điều kiện thuận lợi, giúp họ nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn. Nếu đơn vị cố tình chiếm dụng quỹ trong khi có đủ khả năng nộp tiền bảo hiểm xã hội thì phải có các biện pháp xử phạt nghiêm khắc. Chúng ta không thể dừng lại ở các biện pháp xử phạt hành chính vì nhiều đơn vị sẵn sàng chấp nhận nộp phạt nếu như họ thấy tiền lãi thu được do việc chiếm dụng quỹ bảo hiểm xã hội vào hoạt động sản xuất kinh doanh lớn hơn số tiền họ phải nộp phạt mà trong một số trường hợp chúng ta phải mạnh dạn đề nghị các cơ quan thực thi pháp luật tiến hành truy tố họ vì không đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Đối với các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thời vụ thì cần xác định thời điểm thu hợp lý để tạo điều kiện cho họ nộp đúng, nộp đủ.
6 . Ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công tác quản lý
Áp dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực quản lý quỹ BHXH, quản lý đối chiếu thu, quản lý các đối tượng tham gia BHXH, giải quyết các chế độ ngắn hạn và dài hạn, in thẻ BHYT...giúp giảm bớt thủ tục hành chính, thống kê, báo cáo số liệu được nhanh chóng. Ngành bảo hiểm xã hội cũng đã đưa hệ thống tin học vào hoạt động của mình nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ có máy vi tính. Hiện nay ở hầu hết các cơ quan bảo hiểm xã hội đều có máy vi tính nhưng số lượng cán bộ bảo hiểm xã hội biết sử dụng thành thạo nó thì có rất là ít, thậm chí có nơi không có. Các cán bộ của ngành bảo hiểm xã hội mới chỉ dừng lại việc bắt đầu biết sử dụng máy tính mà chưa khai thác được hết hiệu quả mà máy tính đem lại trong công tác thu chi quỹ bảo hiểm xã hội. Mặt khác do chưa được quan tâm đúng mức nên hệ thống các chương trình phần mềm chuyên ngành của ngành bảo hiểm xã hội chưa được đồng bộ (mới có phần mềm phục vụ một số nghiệp vụ), chưa tạo ra sự thuận tiện cho các cán bộ khi làm việc trực tiếp với máy tính. Chính vì vậy mà trong những năm tiếp theo Nhà nước nên cung cấp kinh phí cho ngành bảo hiểm xã hội để họ có đủ điều kiện đưa hoạt động tin học trong quản lý có hiệu quả cao thông qua việc mua máy vi tính, mua phần mềm quản lý cũng như việc mở các lớp đào tạo tin học cho tất cả các cán bộ trong toàn ngành bảo hiểm xã hội cả về các kỹ năng sử dụng máy tính và kỹ năng khai thác hiệu quả phần mềm chuyên ngành.
7. Bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Để đảm bảo khả năng chi trả tức là quỹ BHXH không được thâm hụt, từ điều 42 đến điều 45 Nghị đinh số 152/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của chính phủ quy định cụ thể mức đóng BHXH tăng dần tới năm 2014 trở đi mức thu đạt 26% ,tuy vậy để bảo tồn và tăng trưởng quỹ thì phải có các biện pháp: cần phải sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm quỹ, cần tăng nguồn thu, chi đúng mục đích, đối tượng và tăng cường công tác kiểm tra sử dụng quỹ. Do vậy, cần phải đầu tư quỹ sao cho có hiệu quả cao nhất trên nguyên tắc đảm bảo an toàn, hạn chế rủi ro. Trong những năm tới chúng ta vẫn phải tiến hành đầu tư trên các lĩnh vực quen thuộc như: mua tín phiếu, trái phiếu của Chính phủ, cho các tổ chức tín dụng của Nhà nước vay, đầu tư vốn vào các doanh nghiệp lớn được sự bảo hộ của Nhà nước. Bên cạnh đó chúng ta sẽ phải tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao hơn mặc dù yếu tố rủi ro cũng tăng lên để đa dạng hoá các loại hình đầu tư. Đây là hình thức đầu tư phổ biến trên thế giới vừa đem lại lợi nhuận cao hơn vừa hạn chế được yếu tổ rủi ro.
8. Cải cách thủ tục hành chính
Hành chính quan liêu , cửa quyền hách dịch đó là những tồn tại của những năm bao cấp nó còn ảnh hưởng tới một số ít cán bộ viên chức trong cơ quan, Đối tượng cũng hay phàn nàn về thủ tục hành chính quá rườm rà cải cách thủ tục hành chính. Đ ầu n ăm 2006 BHXH tỉnh đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính với cơ chế “một cửa” đã giảm bớt những phần công việc, giấy tờ không cần thiết, tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động đến giải quyết các chế độ BHXH.
Kết luận
Bảo hiểm xã hội là một nhu cầu khách quan của người lao động. Vì vậy nó đã trở thành một trong những quyền về con người. BHXH ngày nay là một trong những chính sách xã hội lớn của quốc gia, chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý nhà nước.
Quá trình phân tích tình hình thu và chống thất thu quỹ bảo hiểm xã hội của Chuyên đề đã khẳng định được vai trò quan trọng của công tác thu BHXH , Có tác dụng ổn định và phát triển quỹ BHXH, đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH, góp phần ổn định kinh tế xã hội, trật tự và an toàn xã hội. Để hoàn thiện công tác thu và chống thất thu hiện nay, Chuyên đề đã đưa ra một số giải pháp cơ bản, để thực hiện được tốt những vấn đề đó cần có thêm sự hỗ trợ tích cực của các ban ngành liên quan, từ đó nâng cao hiệu
Qua quá trình thực hiện Chuyên đề này, Em chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo Bùi Đức Thọ và Ban Giám đốc, Cán bộ CNVC Bảo hiểm xã hội tỉnh Tuyên quang. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng do trình độ bản thân và thời gian có hạn nên chuyên đề còn có những thiếu xót nhất định. Kính mong Thầy giáo và Ban Giám đốc, Cán bộ cơ quan BHXH Tuyên quang tận tình chỉ bảo để Em hoàn thành chuyên đề được tốt hơn./..
Tuyên quang, ngày 10 tháng 01 năm 2007
Sinh viên: Phan Văn Dũng
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế lao động (trường đại học KTQD - 1998)
2. Giáo trình Bảo hiểm (Trường đại học kinh tế quốc dân - Hà Nội- 2005);
3. Luật BHXH (ngày 29/6/2006);
4. Hệ thống văn bản hiện hành về lao động thương binh và xã hội - 1996;
5. Bảo hiểm xã hội những điều cần biết - 2003;
6. Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 của Chính phủ;
7. Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ;
8. Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ;
9. Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ;
10. Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ;
11.Nghị định số 58/1998/NĐ-CP ngày 13/8 /1998 của Chính phủ;
12.Nghị định số 63/2005/NĐ/-CP ngày16/5/2005của Chính phủ;
13. Các văn bản quy định chế độ Bảo hiểm xã hội của Bộ lao động Thương binh xã hội in Tháng 10/1995 (lưu hành nội bộ);
14. Báo cáo tổng kết năm 2006 của BHXH Tuyên Quang;
15. Tài liệu thu chi các năm của BHXH Tuyên Quang;
16. Các văn bản pháp luật của nhà nước về BHXH;
17.Và một số các Quyết định, Nghị định, văn bản khác của Chính phủ, của BHXH Việt Nam, Bộ lao động Thương binh và xã hội, Bộ tài chính, Bộ Y tế và một số văn bản của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Tuyên Quang.
NhËn xÐt cña gi¸o viªn híng dÉn
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………………
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1157.docx