Tỷ lệ sống và năng suất
Tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức dao động
trong khoảng 56,0 - 75,0 %. Tỷ lệ sống của tôm cao
nhất ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các
nghiệm thức còn lại. Năng suất của tôm ở các nghiệm
thức dao động từ 1,6 - 2,1 kg/m3, trong đó nghiệm
thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần năng suất của tôm
cao nhất 2,1 kg/m3 khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Qua kết
quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung rỉ đường 1
ngày/lần để tạo biofloc cho tỷ lệ sống và năng suất
của tôm cao nhất.
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Các chỉ tiêu môi trường đều nằm trong khoảng
thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm
thẻ chân trắng. Các chỉ tiêu về biofloc được duy trì
ổn định trong suốt thời gian diễn ra thí nghiệm
Chu kỳ bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần tôm có khối
lượng đạt 13,7 g/con, tỷ lệ sống đạt 75%, năng suất
2,1 kg/m3 là tốt nhất.
4.2. Đề nghị
Áp dụng chu kì bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần
cho các nghiên cứu tiếp theo để xây dựng qui trình
nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh theo công
nghệ biofloc.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chu kỳ bổ sung rỉ đường trong nuôi siêu thâm canh tôm thẻ chân trắng theo công nghệ biofloc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
98
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
NGHIÊN CỨU CHU KỲ BỔ SUNG RỈ ĐƯỜNG
TRONG NUÔI SIÊU THÂM CANH TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
THEO CÔNG NGHỆ BIOFLOC
Trần Ngọc Hải1, Châu Tài Tảo1
TÓM TẮT
Nghiên cứu nhằm xác định chu kỳ bổ sung rỉ đường lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của nuôi tôm thẻ chân trắng
siêu thâm canh theo công nghệ biofloc. Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường khác nhau là
1 ngày/lần; 3 ngày/lần; 5 ngày/lần và 7 ngày/lần, mật độ 300 con/m3, bể nuôi tôm có thể tích 10 m3, tỷ lệ C : N = 12 : 1,
độ mặn 15‰. Kết quả nghiên cứu cho thấy sau 90 ngày nuôi các yếu tố môi trường, mật độ vi khuẩn tổng, vi khuẩn
Vibrio và thể tích biofloc ở các nghiệm thức nằm trong khoảng thích hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển tốt. Tôm
ở nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần cho kết quả tăng trưởng về khối lượng (13,7 ± 0,55 g/con), tỷ lệ
sống (75,0 ± 3,0 %) và năng suất (2,1 ± 0,1 kg/m3) lớn nhất khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm
thức còn lại. Vì vậy, chu kỳ bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần là tốt nhất.
Từ khóa: Biofloc, chu kỳ bổ sung rỉ đường, tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
1 Khoa Thủy sản - Đại học Cần Thơ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) là
một trong những đối tượng nuôi phổ biến trên thế
giới và Việt Nam. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (2017), diện tích nuôi tôm thẻ chân
trắng cả nước năm 2017 là 110.100 ha, sản lượng đạt
430.500 tấn. Cùng với sự tăng nhanh về diện tích
và sản lượng thì môi trường nuôi tôm ngày càng bị
ô nhiễm dẫn đến tình hình dịch bệnh xảy ra nhiều
hơn. Vì vậy việc nghiên cứu sử dụng các tác nhân
sinh học là xu hướng tích cực góp phần ổn định
môi trường nước, hạn chế dịch bệnh trong ao nuôi,
thông qua mô hình nuôi tôm theo công nghệ biofloc
(Lục Minh Diệp, 2012; Hargreaves, 2013). Hiện nay
các nghiên cứu ứng dụng công nghệ biofloc chủ yếu
tập trung ở giai đoạn ương giống tôm thẻ chân trắng
(Châu Tài Tảo và cộng tác viên., 2015), nuôi thâm
canh tôm thẻ chân trắng (Widanarni et al., 2010;
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2014; Tạ Văn Phương, 2016).
Các nghiên cứu trên cho thấy bổ sung rỉ đường
vào ao nuôi tôm thẻ chân trắng thì sự hình thành
biofloc và cải thiện môi trường ao nuôi tốt hơn; tuy
nhiên cần đánh giá ảnh hưởng của chu kỳ bổ sung rỉ
đường lên biofloc, tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm
thẻ chân trắng nuôi siêu thâm canh theo công nghệ
biofloc là rất cần thiết.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
- Nước ót có độ mặn 90‰ được xử lý bằng
chlorine 100 ppm sục khí liên tục đến hết Chlorine
sau đó pha với nước ngọt để được nước có độ mặn
15‰, cấp nước vào bể nuôi tôm qua túi lọc 5 µm.
- Biofloc được tạo bằng nguồn carbohydrate từ rỉ
đường có hàm lượng carbon là 46,7%.
- Tôm thẻ chân trắng giống (PL10) được mua từ
Công ty tôm giống Cần Thơ, tôm có chất lượng tốt,
được kiểm sạch bệnh. Sau đó tôm được đem về trại
nuôi dưỡng trong thời gian 5 ngày trước khi bố trí.
Khối lượng tôm bố trí là 0,003 ± 0,01 g và chiều dài
1,11 ± 0,01 cm.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức với các chu kỳ bổ
sung rỉ đường 1 ngày/lần; 3 ngày/lần; 5 ngày/lần và
7 ngày/lần vào lúc 9 h, mỗi nghiệm thức lặp lại
3 lần, cách bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên. Thí nghiệm
bố trí trong bể 10 m3, mật độ 300 con/m3, thời gian
nuôi tôm 90 ngày.
2.2.2. Chăm sóc và quản lý
Tôm được cho ăn 4 lần/ngày (vào lúc 6 h, 11 h,
16 h và 20 h) bằng thức ăn công nghiệp hiệu Grobest
có hàm lượng protein từ 40 - 42%. Lượng thức ăn cho
tôm hằng ngày được xác định theo phần trăm trọng
lượng thân từ 3 - 10% tùy theo khối lượng của tôm
trong quá trình nuôi. Biofloc được tạo bằng rỉ đường,
tỷ lệ C/N = 12. Lượng rỉ đường bổ sung được tính
dựa trên hàm lượng protein trong thức ăn và lượng
thức ăn cho tôm ăn mỗi ngày (Avnimelech, 2012).
2.2.3. Phương pháp thu số liệu
- Môi trường nước: Các chỉ tiêu môi trường
nước như nhiệt độ, pH, được đo 2 lần/ngày (sáng
và chiều), bằng nhiệt kế và máy đo pH. Các yếu tố
khác như độ kiềm, oxy ammonia tổng số (TAN)
99
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
và nitrite (NO2-) được thu 7 ngày/lần. Ôxy được
đo bằng máy đo ôxy, độ kiềm được phân tích theo
phương pháp chuẩn độ acid, TAN được phân tích
theo phương pháp Indophenol Blue, NO2- được
phân tích theo phương pháp so màu 4500-NO2-B
(APHA et al., 1995).
Thể tích biofloc được xác định 30 ngày/lần bằng
cách đong 1 lít nước mẫu cho vào bình nón imhoff
và để lắng khoảng 30 phút, ghi nhận thể tích lắng
theo đơn vị ml/L
Các chỉ tiêu vi sinh: Thu mẫu và phân tích vi
khuẩn tổng số và vi khuẩn Vibrio 30 ngày/lần trong
nước, và trong tôm khi kết thúc thí nghiệm. Mật
độ vi khuẩn tổng được xác định bằng phương pháp
pha loãng và đếm trên đĩa thạch Nutrient agar có
bổ sung 1,5% NaCl (NA). Tương tự, mật độ Vibrio
tổng số được xác định bằng phương pháp pha loãng
và đếm trên đĩa thạch TCBS (Thiosulfat Citrate Bile
Salt Surcose), (Huys, 2002).
- Các chỉ tiêu theo dõi tôm: Thu mẫu 2 tuần/lần,
mỗi lần 30 con/bể, theo dõi tăng trưởng của tôm:
Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối (DLG), tốc độ
tăng trưởng chiều dài tương đối (SGRL), tốc độ tăng
trưởng khối lượng tuyệt đối (DWG), tốc độ tăng
trưởng khối lượng tương đối (SGR). Tỷ lệ sống và
năng suất của tôm được thu khi kết thúc thí nghiệm.
2.2.4. Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu thu thập được tính toán các giá trị
trung bình, độ lệch chuẩn và tỷ lệ phần trăm bằng
phần mềm Excel. Tìm sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê giữa các nghiệm thức ở mức (p < 0,05) theo
phương pháp phân tích ANOVA, bằng phép thử
Duncan thông qua phần mềm SPSS 20.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thí nghiệm được thực hiện từ tháng 3 đến tháng
7 năm 2018, tại trại thực nghiệm nước lợ, Khoa Thủy
sản, Trường Đại học Cần Thơ.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các yếu tố môi trường
Nhiệt độ: Bảng 1 cho thấy sự biến động nhiệt
độ buổi sáng và buổi chiều giữa các nghiệm thức từ
26,5 - 27,1°C. Trần Viết Mỹ (2009) cho rằng nhiệt độ
từ 27 - 30°C được xem là nhiệt độ tối ưu nhất cho sự
phát triển của tôm thẻ chân trắng.
pH: Buổi sáng pH biến động trong khoảng
(7,93 - 7,95), buổi chiều pH biến động trong khoảng
(8,02 - 8,16). Trần Ngọc Hải và cộng tác viên (2017)
cho rằng pH thích hợp cho tôm thẻ chân trắng từ
7,5 đến 8,5.
Hàm lượng ôxy của các nghiệm thức dao động từ
5,80 mg/L - 5,95 mg/L. Theo Trần Ngọc Hải và cộng
tác viên (2017), nhu cầu Oxy cho nuôi tôm thẻ chân
trắng là > 4 mg/L.
Độ kiềm: Trong suốt quá trình thí nghiệm độ kiềm
dao động trong khoảng 145,4 - 149,2 mg CaCO3/L.
Theo Trần Viết Mỹ (2009), độ kiềm lý tưởng cho
tăng trưởng và phát triển của tôm thẻ chân trắng từ
120 - 160 mg CaCO3/L.
Hàm lượng TAN trung bình ở các nghiệm thức
dao động trong khoảng 0,38 - 0,46 mg/l, NO2- biến
động trong khoảng 0,84 - 0,90 mg/l. Theo Boyd
(1998) và Chanratchakool (2003) thì hàm lượng
TAN thích hợp cho nuôi tôm là 0,2 - 2 mg/L. và NO2-
nhỏ hơn 2 mg/l. Nhìn chung tất cả các yếu tố môi
trường trong quá trình thí nghiệm nằm trong
khoảng thích hợp cho tôm thẻ chân trắng sinh
trưởng và phát triển tốt.
Bảng 1. Trung bình các yếu tố môi trường của các nghiệm thức
Chỉ tiêu
Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường
1 ngày/lần 3 ngày/lần 5 ngày/lần 7 ngày/lần
Nhiệt độ (°C)
Sáng 26,5 ± 0,9 26,6 ± 1,1 26,5 ± 1,0 26,6 ± 0,8
Chiều 27,0 ± 1,0 27,0 ± 1,1 27,1 ± 1,0 27,1 ± 0,9
pH
Sáng 7,93 ± 0,42 7,95 ± 0,40 7,95 ± 0,41 7,95 ± 0,41
Chiều 8,02 ± 0,35 8,16 ± 1,73 8,02 ± 0,35 7,99 ± 0,37
Oxy (mg/L) 5,85±0,98 5,93±0,92 5,80±1,03 5,95±0,92
TAN (mg/L) 0,38 ± 0,37 0,44 ± 0,63 0,42 ± 0,62 0,46 ± 0,62
NO2- (mg/L) 0,84 ± 0,51 0,86 ± 0,53 0,80 ± 0,55 0,90 ± 0,55
Độ kiềm (mgCaCO3/L) 148,5 ± 11,2 149,2 ± 5,9 148,3 ± 5,9 145,4 ± 7,3
100
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
3.2. Vi khuẩn tổng và Vibrio ở các nghiệm thức
trong thời gian nuôi
Bảng 2 cho thấy sau 30 ngày nuôi mật độ vi khuẩn
tổng thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường
1 ngày/lần nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Đến
90 ngày nuôi mật độ vi khuẩn tổng trong nước cao
nhất ở nghiệm thức bổ sung 7 ngày/lần nhưng giữa
các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05). Sau 90 ngày nuôi mật độ vi khuẩn tổng
trong ruột tôm thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung
rỉ đường 5 ngày/lần và khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
Bảng 2. Mật độ vi khuẩn tổng trong nước (104CFU/ml) và trong ruột tôm (104CFU/g)
Chỉ tiêu Ngày thu
Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường
1 ngày 3 ngày 5 ngày 7 ngày
Trong nước
30 0,27 ± 0,06a 0,47 ± 0,23a 0,67 ± 0,32a 0,37 ± 0,20a
60 0,23 ± 0,06a 0,37 ± 0,21a 0,60 ± 0,26a 0,50 ± 0,26a
90 1,50 ± 0,46a 1,90 ± 0,26a 1,33 ± 0,49a 2,13 ± 0,41a
Trong ruột tôm 90 1,33 ± 1,32a 1,53 ± 0,31a 1,30 ± 0,20a 2,03 ± 0,95a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Sau 30 ngày nuôi mật độ vi khuẩn vibrio cao nhất
ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường 5 ngày/lần khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm
thức còn lại. Đến 60 ngày nuôi mật độ vi khuẩn
vibrio trong nước thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung
rỉ đường 3 ngày/lần, khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so với nghiệm thức bổ sung rỉ đường
7 ngày/lần, nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại.
Đến 90 ngày nuôi mật độ vi khuẩn vibrio thấp nhất
ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần khác biệt
không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm
thức bổ sung rỉ đường 3 ngày/lần, nhưng khác biệt
có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với 2 nghiệm thức
còn lại. Khi phân tích mật độ vi khuẩn vibrio trong
ruột tôm thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường
1 ngày/lần nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống
kê (p > 0,05) so với 3 nghiệm thức còn lại.
Bảng 3. Mật độ vi khuẩn Vibrio trong nước (104CFU/ml) và trong ruột tôm (104 CFU/g)
Chỉ tiêu Ngày thu
Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường
1 ngày/lần 3 ngày/lần 5 ngày/lần 7 ngày/lần
Trong nước
30 0,23 ± 0,06a 0,10 ± 0,01a 0,43 ± 0,12b 0,20 ± 0,10a
60 0,30 ± 0,10ab 0,23 ± 0,20a 0,57 ± 0,31ab 0,73 ± 0,23b
90 0,97 ± 0,06a 1,23 ± 0,25ab 1,97 ± 0,40c 1,50 ± 0,20bc
Trong ruột tôm 90 1,27 ± 0,11a 1,30 ± 0,21a 1,31 ± 0,26a 1,38 ± 0,32a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
3.3. Thể tích biofloc
Bảng 4 cho thấy sau 30 ngày nuôi thể tích biofloc
ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần lớn nhất
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các
nghiệm thức còn lại. Đến 60 ngày nuôi nghiệm thức
bổ sung rỉ đường 7 ngày/lần thấp nhất khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nghiệm thức bổ
sung rỉ đường 1 ngày/lần và 5 ngày/lần, tuy nhiên
khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so
với nghiệm thức bổ sung rỉ đường 3 ngày/lần. Đến
90 ngày nuôi thể tích biofloc lớn nhất ở nghiệm thức
bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm thức bổ
sung rỉ đường 3 ngày/lần, nhưng khác biệt không
có ý nghĩa thông kê (p > 0,05) so với 2 nghiệm thức
còn lại. Nghiện thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần thì
sự hình thành biofloc tốt hơn dẫn đến chất lượng
nước tốt hơn.
Bảng 4. Thể tích (ml/L) biofloc của các nghiệm thức
Thời
gian
nuôi
Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường
1 ngày/
lần
3 ngày/
lần
5 ngày/
lần
7 ngày/
lần
30 ngày 4,5 ± 0,2b 3,8 ± 0,3a 3,3 ± 0,3a 3,4 ± 0,4a
60 ngày 7,0 ± 0,4b 6,8 ± 0,3ab 6,9 ± 0,3b 6,3 ± 0,2a
90 ngày 9,1 ± 0,4b 8,5 ± 0,5ab 8,3 ± 0,2a 7,9 ± 0,5a
Ghi chú: Các số liệu trong cùng một hàng có chữ cái
khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
101
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
3.4. Tốc độ tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng
3.4.1. Tăng trưởng về chiều dài
Sau 90 ngày nuôi chiều dài trung bình của tôm
ở các nghiệm thức dao động từ 10,2 - 11,3 cm/con,
trong đó giá trị lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung rỉ
đường 1 ngày/lần (11,3 cm/con) và khác biệt không
có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với nghiệm thức bổ
sung rỉ đường 3 ngày/lần (10,8 cm/con), nhưng khác
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm
thức còn lại. Tốc độ tăng trưởng về chiều dài tuyệt
đối và tăng trưởng về chiều dài tương đối của tôm ở
các nghiệm thức dao động từ (0,10 - 0,11 cm/ngày và
2,46 - 2,58%/ngày). Trong đó nghiệm thức bổ sung
rỉ đường 1 ngày/lần tôm có tốc độ tăng trưởng về
chiều dài tuyệt đối và tăng trưởng về chiều dài tương
đối cao nhất (0,11 cm/ngày và 2,58 %/ngày) và khác
biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) so với các
nghiệm thức bổ sung rỉ đường 3 ngày/lần nhưng
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,05) so với các
nghiệm thức còn lại (p < 0,05).
Bảng 5. Trung bình tốc độ tăng trưởng về chiều dài (cm) tôm sau 90 ngày nuôi
Chỉ tiêu
Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường
1 ngày/lần 3 ngày/lần 5 ngày/lần 7 ngày/lần
Chiều dài tôm bố trí (cm) 1,11 ± 0,01 1,11 ± 0,01 1,11 ± 0,01 1,11 ± 0,01
Chiều dài tôm kết thúc thí nghiệm (cm) 11,3 ± 0,10b 10,8 ± 0,55b 10,2 ± 0,58a 10,2 ± 0,17a
DLG (cm/ngày) 0,11 ± 0,01b 0,11 ± 0,01b 0,10 ± 0,01a 0,10 ± 0,01a
SGRL (%/ngày) 2,58 ± 0,01c 2,52 ± 0,06bc 2,46 ± 0,01a 2,47 ± 0,02ab
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.4.2. Tăng trưởng về khối lượng
Sau 90 ngày nuôi khối lượng của tôm ở các
nghiệm thức dao động từ 10 - 13,7 g/con. Ở nghiệm
thức có bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần có khối lượng
tôm cao nhất (13,7 g/con), khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức còn
lại. Tốc độ tăng trưởng về khối lượng tuyệt đối và
tăng trưởng về khối lượng tương đối dao động từ
0,11 - 0,16 g/ngày và 9,0 - 9,4%/ngày. Trong đó,
nghiệm thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần tôm có tốc
độ tăng trưởng về chiều dài tuyệt đối và tương đối
tốt nhất (0,14 g/ngày và 7,5%/ngày) và khác biệt có
ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức
còn lại.
Bảng 6. Trung bình tốc độ tăng trưởng về khối lượng (g) của tôm sau 90 ngày nuôi
Chỉ tiêu Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường1 ngày/lần 3 ngày/lần 5 ngày/lần 7 ngày/lần
Khối lượng tôm bố trí (g) 0,003 ± 0,01 0,003 ± 0,01 0,003 ± 0,01 0,003 ± 0,01
Khối lượng tôm 90 ngày nuôi (g) 13,7 ± 0,55c 11,7 ± 1,6b 10,0 ± 0,1a 10,1 ± 0,1a
DWG (g/ngày) 0,16 ± 0,01b 0,13 ± 0,02a 0,11 ± 0,01a 0,11 ± 0,02a
SGR (%/ngày) 9,4 ± 0,05c 9,2 ± 0,15b 9,0 ± 0,01a 9,0 ± 0,02a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
3.5. Tỷ lệ sống và năng suất
Tỷ lệ sống của tôm ở các nghiệm thức dao động
trong khoảng 56,0 - 75,0 %. Tỷ lệ sống của tôm cao
nhất ở nghiệm thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần
khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với các
nghiệm thức còn lại. Năng suất của tôm ở các nghiệm
thức dao động từ 1,6 - 2,1 kg/m3, trong đó nghiệm
thức bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần năng suất của tôm
cao nhất 2,1 kg/m3 khác biệt có ý nghĩa thống kê
(p < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Qua kết
quả thí nghiệm cho thấy việc bổ sung rỉ đường 1
ngày/lần để tạo biofloc cho tỷ lệ sống và năng suất
của tôm cao nhất.
Bảng 7. Tỷ lệ sống và năng suất của tôm sau 90 ngày nuôi
Chỉ tiêu Nghiệm thức chu kỳ bổ sung rỉ đường1 ngày/lần 3 ngày/lần 5 ngày/lần 7 ngày/lần
Tỷ lệ sống % 75,0 ± 3,0b 62,3 ± 2,5a 59,7 ± 2,5a 56,0 ± 6,6a
Năng suất (kg/m3) 2,1 ± 0,1b 1,7 ± 0,2a 1,6 ± 0,2a 1,7 ± 0,1a
Ghi chú: Các giá trị cùng một hàng có kí tự giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
102
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 2(111)/2020
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Các chỉ tiêu môi trường đều nằm trong khoảng
thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm
thẻ chân trắng. Các chỉ tiêu về biofloc được duy trì
ổn định trong suốt thời gian diễn ra thí nghiệm
Chu kỳ bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần tôm có khối
lượng đạt 13,7 g/con, tỷ lệ sống đạt 75%, năng suất
2,1 kg/m3 là tốt nhất.
4.2. Đề nghị
Áp dụng chu kì bổ sung rỉ đường 1 ngày/lần
cho các nghiên cứu tiếp theo để xây dựng qui trình
nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh theo công
nghệ biofloc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 2017. Báo
cáo kết quả thực hiện kế hoạch tháng 12 năm 2017
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Châu Tài Tảo, Hồ Ngọc Ngà, Trần Ngọc Hải, 2015.
Ảnh hưởng của mật độ lên tăng trưởng và tỷ lệ sống
của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
ương giống theo công nghệ biofloc. Tạp chí khoa học,
Đại học Cần Thơ, 37 (1): 65-71.
Lục Minh Diệp, 2012. Ứng dụng công nghệ biofloc, giải
pháp kỹ thuật thay thế cho nghề nuôi tôm he thương
phẩm hiện nay tại Việt Nam. Trong Kỷ yếu hội thảo
khoa học ứng dụng công nghệ mới trong nuôi trồng
thủy sản. Trường Đại học Nha Trang.
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2014. Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ biofloc trong nuôi thâm canh tôm thẻ
chân trắng (Litopenaeus vannamei). Đề tài cấp Bộ.
Tạ Văn Phương, 2016. Phát triển quy trình công nghệ
biofloc và khả năng ứng dụng trong nuôi tôm thẻ chân
trắng (Litopenaeus vannamei). Luận án Tiến sĩ ngành
Nuôi trồng Thủy sản - Đại học Cần Thơ.
Trần Ngọc Hải, Châu Tài Tảo và Nguyễn Thanh
Phương, 2017. Kỹ thuật sản xuất giống và nuôi giáp
xác. Nhà xuất bản Đại học Cần Thơ, 211 trang.
Trần Viết Mỹ, 2009. Cẩm nang nuôi tôm chân trắng
thâm canh (Penaeus vannamei). Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tp. Hồ Chí Minh, Trung tâm
Khuyến nông.
APHA, AWWA and WEF, 1995. “Standard Methods
for the Examination of Water and Wastewater”,
19th Edition. APHA, AWWA VÀ WEF, FRANSON,
M.A.H., (Ed.).
Avnimelech Y., 2012. Biofloc technology - a practical
guide book. Second edition, The World Aquaculture
Society, Baton Rouge, Louisiana, United States, 272 pp.
Boyd, C.E., 1998. Pond water aeration systems.
Aquaculture Engineering, 18: 19-40.
Chanratchakool, P., 2003. Problem in Penaus monodon
culture in low salinity areas. Aquacuture Asia, 8 (1):
54-55.
Hargreaves. A. John., 2013. Biofloc Production Systems
for Aquaculture. Southern Regional Aquaculture
Center Publication. No. 4503.
Huys, G., 2002. Preservation of bacteria using commercial
cryopreservation systems. Standard Operation
Procedure, Asia resist. 35 pages.
Widanarni, Deby Yuniasari, Sukenda Asia resist,
Julie Ekasari, 2010. Nursery culture performance
of Litopenaeus vannamei with Probiotics addition
and different C/N ratio under laboratory condition.
HAYATI Journal of Biosciences, 17: 115-119.
Study on frequency of adding molasses for super intensive
whiteleg shrimp farming by biofloc technology
Tran Ngoc Hai, Chau Tai Tao
Abstract
The study aimed to find the cycle supplement from molasses for growth and survival of super-intensive whiteleg
shrimp farming by biofloc technology. The experiment included 4 treatments with different cycles of supplemental
molasses: (i) every 1 day; (ii) every 3 days; (iii) every 5 days; (iv) every 7 days, shrimp was stocked in composite
tanks (10 m3) at salinity of 15 ‰, at stocking density of 300 ind/m3, molasses was applied with ratio of C/N = 12:1.
The results showed that after 90 days of rearing the environmental factors, total bacterial density, Vibrio bacteria
and biofloc volume in the treatments were in the range suitable for shrimp growth and development. the factors for
the growth of weight (13.7 ± 0.55 g/shrimp), survival rate (75 ± 3%) and production (2.1 ± 0.1 kg/m3) of treatment
supplemental molasses cycles every 1 day was highest and significant difference (p < 0,05) compared to remaining
treatments. As a result, supplementing molasses every 1 day is the best supplemental cycle.
Key word: Biofloc, frequency of adding molasses, whiteleg shrimp (Litopenaeus vannamei)
Ngày nhận bài: 06/02/2020
Ngày phản biện: 19/02/2020
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Kim Liên
Ngày duyệt đăng: 27/02/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_chu_ky_bo_sung_ri_duong_trong_nuoi_sieu_tham_canh.pdf