Kết quả nghiên cứu đã phản ánh đầy đủ các
đặc trưng của các điều kiện tự nhiên hình thành
nên các đơn vị cảnh quan ở các đảo nổi và cho
thấy chúng có nét đặc trưng khác biệt so với
các đảo ven bờ. Dựa trên hai nguyên tắc phát
sinh - hình thái và đồng nhất tương đối của
tổng thể các thành phần tự nhiên, tác giả đã
phân chia đảo Trường Sa lớn và vùng nước
quanh đảo thành 7 diện địa lý dựa trên chỉ tiêu
hình thái của lớp phủ bề mặt, 5 nhóm diện theo
chỉ tiêu nền vật chất rắn, 2 dạng địa lý trong bờ
kè và ngoài bờ kè thuộc kiểu cảnh quan đảo san
hô nhiệt đới. Chúng được thể hiện trên bản đồ
cảnh quan ở tỷ lệ lớn 1:5.000.
Kết quả nghiên cứu cho phép đề xuất một
số kiến nghị sử dụng hợp lý các đơn vị cảnh
quan trên các đảo nổi ở quần đảo Trường Sa
như sau:
Hiện tại, hầu hết các đảo nổi khu vực quần
đảo Trường Sa đều đã được xây dựng kè kiên
cố. Như vậy, đối với dạng địa lý phía trong bờ
kè là tương đối ổn định, ít bị ảnh hưởng của các
yếu tố sóng và dòng chảy. Tuy nhiên, hiện nay
nhiều công trình dân sự và quân sự được xây
dựng đã phá hủy diện thực vật thân gỗ phát
triển trên nhóm đất phân chim, đây là diện địa
lý có chức năng lớn trong việc bảo vệ đảo và
giữ được lớp đất chứa nhiều nguyên tố vi lượng
có giá trị cần thiết đối với cây trồng trên đảo.
Do vậy, cần phải cân đối trong việc xây dựng
các công trình để giữ lại hiện trạng của diện địa
lý này.
Đối với các diện địa lý như thực vật thân
thảo phát triển trên nhóm đất phân chim và
nhóm đất cát thô sơ ven đảo cần phát triển các
loài thực vật thân gỗ phù hợp như phong ba,
dừa, phi lao để tạo nên cảnh quan vành đai
xanh, môi trường không khí trong sạch trên đảo
và đảm bảo trong việc phòng chắn các ảnh
hưởng của sóng gió, đặc biệt là bão và áp thấp
nhiệt đới thường xuyên xảy ra ở vùng biển này.
Đối với dạng địa lý phía ngoài bờ kè, đặc
biệt là nhóm diện bãi cát di chuyển theo mùa,
nên có nghiên cứu, tính toán xây dựng các kè
chắn có hướng vuông góc với hướng của hai
mùa gió để có thể ổn định các bãi cát này. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng
diện tích đảo và khi ổn định có thể phát triển
các công trình đảm bảo quốc phòng và an ninh
trên các đảo.
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 568 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan các đảo nổi san hô quần đảo Trường Sa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
238
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 3; 2014: 238-245
DOI: 10.15625/1859-3097/14/3/5161
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM CẢNH QUAN CÁC ĐẢO NỔI
SAN HÔ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
Trần Anh Tuấn
Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Email: tatuan@imgg.vast.vn
Ngày nhận bài: 26-3-2014
TÓM TẮT: Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu đặc điểm phân hóa điều kiện tự nhiên và
phân loại cảnh quan các đảo nổi san hô quần đảo Trường Sa bằng việc tích hợp các tài liệu về địa
chất, địa hình, địa mạo, thổ nhưỡng và tư liệu ảnh vệ tinh để thành lập bản đồ cảnh quan đảo
Trường Sa Lớn ở tỷ lệ lớn 1:5.000 và một mặt cắt cảnh quan điển hình. Nghiên cứu đã xác định
cảnh quan ở các đảo nổi san hô quần đảo Trường Sa thuộc kiểu cảnh quan đảo san hô nhiệt đới và
chúng được phân hóa thành hai dạng cảnh quan: dạng trong bờ kè và dạng ngoài bờ kè. Sử dụng
chỉ tiêu về nền vật chất rắn, dạng trong bờ kè được phân thành hai nhóm diện là nhóm đất phân
chim và nhóm đất cát thô sơ ven đảo; dạng ngoài bờ kè có ba nhóm diện là: bãi cát di chuyển theo
mùa, trầm tích vụn thô gắn kết và đá vôi san hô. Lớp phủ bề mặt được phân tích từ ảnh vệ tinh gồm
4 loại: thực vật thân gỗ, thực vật thân thảo, đất xây dựng công trình và khu vực ngập nước. Dựa
trên sự kết hợp hai chỉ tiêu nền vật chất rắn và lớp phủ bề mặt, các nhóm diện được phân chia
thành 7 diện địa lý khác nhau. Kết quả nghiên cứu là cơ sơ khoa học phục vụ công tác đánh giá cho
các mục tiêu phát triển kinh tế, quốc phòng và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên vùng quần đảo
Trường Sa.
Từ khóa: Phân loại cảnh quan, đảo san hô, quần đảo Trường Sa.
MỞ ĐẦU
Các nghiên cứu về quần đảo Trường Sa đã
được tiến hành rất sớm bởi nhiều tác giả nước
ngoài ngay từ thế kỷ XVI. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu các đặc điểm điều kiện tự nhiên
trên các đảo nổi thực sự mới chỉ được bắt đầu
từ đầu thế kỷ XX. Một số nghiên cứu đáng chú
ý vào năm 1927 của các nhà địa chất Pháp đã
tiến hành nghiên cứu các đảo nổi nhằm tìm
kiếm khoáng sản rắn, cụ thể là nghiên cứu các
rạn san hô, phốt phát. Các khảo sát về thổ
nhưỡng và đất đai lần đầu tiên được tiến hành
vào năm 1973 ở đảo Nam Yết do Viện Khảo
cứu nông nghiệp thuộc Bộ phát triển Nông
nghiệp và Điền địa Sài Gòn thực hiện. Công
cuộc nghiên cứu vùng biển quần đảo Trường
Sa mới chỉ thực sự bắt đầu từ sau ngày thống
nhất đất nước năm 1975. Các kết quả nghiên
cứu đều có giá trị cao về mặt khoa học và tạo
nên những cơ sở thực tiễn cho việc khai thác và
sử dụng các đảo cũng như toàn bộ quần đảo.
Trên các đảo nổi, một loạt các công trình đã
được thực hiện nhằm nghiên cứu về đặc điểm
cấu tạo địa chất của các đảo nổi san hô [1-4],
cùng các nghiên cứu về địa hình, địa mạo [5,
6], thổ nhưỡng và thực vật [7, 8] đã cho thấy
một bức tranh tương đối đầy đủ về điều kiện tự
nhiên của các đảo nổi san hô vùng quần đảo
Trường Sa.
Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy rằng,
các đảo nổi và cụm đảo thuộc quần đảo Trường
Sa đều được cấu tạo bởi các thành tạo rạn san
hô có tuổi ít nhất từ Miocen sớm đến Đệ tứ.
Chúng phát triển trên nền sụt lún kiến tạo
Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan
239
tương đối liên tục và tạo thành các dạng địa
hình có tính phân bậc ở các độ sâu khác nhau
gọi chung là các cao nguyên san hô, trên đó
phát triển các đảo nổi. Các đảo nổi có độ cao từ
2,5 đến 3,5 m riêng đảo Song Tử Tây đạt đến
4-6 m. Diện tích đảo thường thay đổi theo mùa
và đa số có diện tích rất nhỏ, đảo lớn nhất là
đảo Ba Bình có diện tích khoảng 0,5 km2. Với
tính chất là một vùng biển khơi, xa bờ không
nhận được nguồn vật chất hữu cơ từ lục địa và
điều kiện khắc nghiệt của khí hậu nam Biển
Đông, á xích đạo đại dương nên các đảo nổi
chịu ảnh hưởng rất lớn của chế độ hải dương
như sóng, gió và dòng chảy. Bên cạnh đó, thảm
thực vật trên các đảo nổi có tuổi rất trẻ và chưa
phát triển, nên vai trò của chúng đến sự hình
thành đất còn nhiều hạn chế. Với các điều kiện
tự nhiên như vậy cho thấy cảnh quan trên các
đảo nổi có sự khác biệt rất lớn so với các đảo
ven bờ trong việc định hướng phát triển nói
chung. Tuy nhiên, bù lại ở đây phát triển mạnh
quần thể san hô với các loài san hô cùng với tảo
cộng sinh với chúng đã tạo ra một vùng nước
lân cận các đảo nổi có năng suất sinh học cao.
Thêm vào đó, các đảo nổi ở Trường Sa có vị
thế đặc biệt quan trọng cùng với giá trị của 3
kiểu di sản địa chất theo hệ thống phân loại
GILGES (Global Indicative List of Geological
Sites - GILGES) của Ủy ban Di sản Thế giới
của UNESCO gồm: kiểu A - Cổ sinh, kiểu B -
Địa mạo, kiểu I - Lịch sử địa chất [9] là những
tiềm năng lớn của các đảo nổi ở đây. Vì những
lẽ đó, việc nghiên cứu, đánh giá cảnh quan của
các đảo nổi cho các mục tiêu phát triển kinh tế,
đảm bảo an ninh, quốc phòng và bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam trên quần đảo Trường Sa
càng trở nên cấp thiết và quan trọng. Sự phân
hóa cảnh quan trên các đảo nổi ở đây mang
những đặc trưng về điều kiện hình thành cảnh
quan tương đối giống nhau, do vậy bài báo đi
vào nghiên cứu chi tiết cảnh quan đảo nổi
Trường Sa Lớn làm đại diện điển hình cho tất
cả các đảo nổi ở khu vực quần đảo Trường Sa.
TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Tài liệu nghiên cứu
Trong nghiên cứu sử dụng một số tư liệu
chủ yếu sau:
Ảnh vệ tinh Quickbird chụp ngày 13
tháng 6 năm 2007 từ nguồn Google Earth;
Bản đồ địa hình đảo Trường Sa Lớn tỷ lệ
1:5.000 tại vĩ tuyến 8038’50”, phép chiếu
Mecator, ellipsoid Krasovski được biên vẽ theo
tài liệu đo đạc năm 2002 của Đoàn Đo đạc,
Biên vẽ hải đồ và Nghiên cứu biển thuộc Quân
chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam;
Các tài liệu nghiên cứu về địa chất đảo
Trường Sa của các tác giả Nguyễn Văn Bách
(2000), Nguyễn Biểu (1985), Nguyễn Ngọc
(1998), Trần Đức Thạnh (1998) [1-4];
Các tài liệu về nghiên cứu địa mạo các đảo
nổi san hô Trường Sa của các tác giả Lê Đức An
(1999), Nguyễn Thế Tiệp (1998) [5, 6];
Các tài liệu nghiên cứu về đất trên các đảo
nổi Trường Sa của các tác giả Vũ Ngọc Quang,
Trần Duy Tứ (1998) [7, 8];
Các tài liệu khảo sát thực địa khu vực
quần đảo Trường Sa của Viện Địa chất và Địa
vật lý biển từ năm 1993 đến nay.
Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên hai
nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc phát sinh -
hình thái và nguyên tắc đồng nhất tương đối
của tổng thể các thành phần tự nhiên.
Nguyên tắc phát sinh - hình thái: Theo
nguyên tắc này, các đơn vị cảnh quan được
phân chia có sự giống nhau về những đặc trưng
mang tính đồng nhất cả về hình thái và cấu trúc
của các điều kiện tự nhiên và có chung một
nguồn gốc phát sinh và phát triển. Theo đó, các
đặc trưng hình thái dựa vào sự phân bố của lớp
phủ bề mặt. Sự kết hợp các đặc trưng hình thái
với các đặc trưng nền vật chất rắn cho phép xác
định được phạm vi phân bố các diện cảnh quan.
Nguyên tắc đồng nhất tương đối của tổng
thể các thành phần tự nhiên: Theo nguyên tắc
này, các đơn vị cảnh quan vừa có tính đồng
nhất lại vừa có sự phân hoá: tính đồng nhất dựa
trên một số chỉ tiêu nhất định, nhưng đồng thời
vẫn có sự phân hoá nội bộ khiến cho mỗi đơn
vị lại có thể phân chia ra những đơn vị cảnh
quan cấp thấp hơn.
Bên cạnh hai nguyên tắc trên, nghiên cứu
sử dụng một số phương pháp chính sau:
Trần Anh Tuấn
240
Phương pháp khảo sát thực địa: Đây là
một phương pháp quan trọng nhất trong phân
vùng địa lí tự nhiên nói chung và phân loại
cảnh quan nói riêng. Phương pháp được sử
dụng trong việc điều tra, bổ sung các dữ liệu
thực tế, đồng thời kiểm tra lại ranh giới các đơn
vị cảnh quan đã được vạch ra trong phòng để
có những điều chỉnh thích hợp.
Phương pháp chồng xếp bản đồ trên GIS:
Phương pháp này sử dụng các bản đồ thành
phần tự nhiên là các hợp phần cảnh quan và
chồng xếp chúng lên nhau để có thể định
hướng vạch ra ranh giới sự phân hóa tự nhiên
thành các địa tổng thể trên cơ sở có sự trùng
hợp giữa các ranh giới bộ phận.
Phương pháp phân tích liên kết các thành
phần tự nhiên: Phương pháp này dựa trên các
bản đồ thành phần, tiến hành phân tích, so sánh
để tìm ra mối quan hệ cơ bản hình thành nên
các đặc điểm của các đơn vị cảnh quan các cấp.
ĐẶC ĐIỂM CẢNH QUAN ĐẢO TRƯỜNG
SA LỚN
Các hợp phần thành tạo cảnh quan các đảo
nổi ở quần đảo Trường Sa
Nhiều công trình nghiên cứu đã cho rằng
các đảo nổi ở quần đảo Trường Sa có tuổi
Pleixtoxen muộn - Holoxen, chúng phát triển
trên phần đỉnh của các cao nguyên san hô được
hình thành trên một nền móng phức tạp. Địa
tầng tổng hợp ở các đảo nổi quần đảo Trường
Sa về cơ bản là giống nhau, chúng được cấu tạo
bởi 3 loại thành tạo địa chất chính là đá vôi san
hô (ở dưới), đá vụn thô gắn kết (ở giữa) và các
trầm tích bở rời (ở trên) [3].
Đá vôi san hô: là thành tạo địa chất cơ bản
tạo nên phần ngập nước của đảo. Đá thường có
màu trắng, trắng xám tái kết tinh, tuy có kết cấu
rắn chắc nhưng đá có độ rỗng lớn chứa nhiều
nước. Một vài nghiên cứu cho rằng loại đá này
còn gặp ở độ sâu 30-50 m và dưới nó là gì thì
chưa thể khẳng định được [3, 4]. Tuy nhiên,
bằng dẫn liệu của các tàu khảo sát nước ngoài
(Nga, Pháp) đã thu lượm được các tảng bazan ở
phần Tây Nam Trường Sa, tác giả Nguyễn Thế
Tiệp, 1998 [6] cho rằng một số đảo ở quần đảo
Trường Sa có nền gốc là đá bazan.
Đá vụn thô gắn kết: Nằm trực tiếp trên bề
mặt phong hóa của đá vôi san hô, gồm chủ yếu
là các lớp cuội kết, sỏi kết và răm sạn kết. Đá
có màu xám sáng, xám vàng, kết cấu rắn chắc
được định tuổi vào Plextocen muộn [3, 6].
Thành tạo địa chất này là vật liệu chính tạo nên
phần nổi của các đảo với bề dày không đồng
đều, khoảng trên dưới 2 m.
Các trầm tích bở rời: Bao gồm cát, cuội,
sạn, sỏi có độ mài tròn khác nhau với thành phần
chủ yếu là canxi cacbonat nguồn gốc từ mảnh
vôi sinh vật. Trong tầng này gặp các lớp kẹp
trầm tích phân chim tạo thành các lớp mỏng
khoảng 0,2-0,3 m. Tuổi của thành tạo trầm tích
này từ Holoxen sớm-giữa đến muộn [3].
Trong quần đảo Trường Sa, tại các khu vực
đảo nổi và lân cận chúng như các đảo Song Tử
Tây, Trường Sa, Nam Yết địa hình thể hiện
hai phần khác biệt đó là địa hình trên mực nước
biển và địa hình dưới mực nước biển. Địa hình
trên mực nước là những phần đảo nổi có chiều
cao từ 2,5 đến 3,5 m riêng đảo Song Tử Tây đạt
đến 6 m. Diện tích đảo thường thay đổi theo
mùa, tùy thuộc vào điều kiện khí tượng và hải
văn của khu vực. Địa hình trên các đảo thể hiện
3 mực độ cao khác nhau: 4-6 m; 2-3,5 m; 0,5-
1,5 m [6].
Các đảo nổi của quần đảo Trường Sa có
quá trình phát sinh và thành tạo đất rất đặc biệt,
từ đá mẹ là trầm tích san hô phong hoá thành
tạo đất trên các đảo nổi. Trong quá trình thành
tạo đất, một lượng phân chim dày hàng mét đã
làm thay đổi rất quan trọng tính chất vật lý và
hoá học của đất cát san hô, làm cho đất có độ
phì rất cao. Nghiên cứu của các tác giả Vũ
Ngọc Quang, Trần Duy Tứ, 1998 [7] cho rằng
trên các đảo nổi ở quần đảo Trường Sa có hai
loại đất gồm: đất cát san hô thường phân bố
chung quanh rìa các đảo nổi, phân chia ranh
giới các mép nước biển và phần cao của đảo;
đất phân chim phân bố chủ yếu trên bề mặt đảo
và rất phổ biến ở quần đảo Trường Sa.
Trên các đảo nổi san hô tồn tại các túi
nước lợ mà theo nhiều nghiên cứu đã khẳng
định chúng được hình thành từ nước mưa tích
tụ trong các tầng nông gần bề mặt trong trạng
thái cân bằng thủy lực. Nguồn nước ngầm trên
đảo được đánh giá là nguồn nước cứng không
Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan
241
đảm bảo cho ăn uống và sinh hoạt của con
người, tuy nhiên chúng có thể được dùng
trong chăn nuôi và trồng trọt trên các đảo.
Do điều kiện đặc thù của các đảo xa bờ nên
thảm thực vật ở các đảo nói chung rất trẻ và
nghèo về thành phần loài, hệ số chi thấp và
chưa có loài đặc hữu. Các loài thân gỗ điển
hình như phi lao (Casuarina equisetifolia J. R
et G. Forst), bàng (Ternminalia catappa L.),
bàng quả vuông (Barringtonia asiatica (L.)
Kurz), phong ba (Messerchmidia argentea),
dừa (Cocos nucifera L.) và thực vật thân thảo
như: cỏ lào (Eupatorium odoratum L.); ké hoa
vàng (Spinifex littoreus L.), đặc biệt rau
muống biển (Ipomoea pes-caprae (L.) Sweet)
có ở hầu hết các đảo nổi [8].
Cảnh quan trên các đảo nổi san hô khu vực
quần đảo Trường Sa được hình thành trong
điều kiện khí hậu nam Biển Đông với nền nhiệt
cao, trung bình năm vào khoảng 270C, biên độ
dao động nhiệt trong năm không vượt quá 40C.
Tổng lượng mưa trung bình hàng năm khoảng
2.575 mm và tập trung chủ yếu vào mùa mưa,
từ tháng V đến tháng I năm sau. Chế độ gió
thịnh hành theo hai hướng chính là Đông Bắc
và Tây Nam và thể hiện thành hai mùa rõ rệt.
Các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão và
áp thấp nhiệt đới thường xuyên xảy ra, thống
kê giai đoạn 1976-2008, mỗi năm có 2 đến 3
cơn bão ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
quần đảo Trường Sa.
Nhìn chung, các điều kiện tự nhiên ở quần
đảo Trường Sa chịu sự chi phối mạnh mẽ của
chế độ hải dương tạo nên sự phân hóa khác biệt
so với lục địa và các đảo, quần đảo ven bờ. Các
hợp phần tự nhiên này đã ảnh hưởng và tác
động tương tác lẫn nhau tạo nên cảnh quan rất
đặc biệt của các đảo san hô nhiệt đới khu vực
quần đảo Trường Sa.
Phân loại cảnh quan đảo Trường Sa Lớn
Các đảo nổi thuộc quần đảo Trường Sa
thuộc kiểu cảnh quan đảo san hô nhiệt đới. Tại
đây, các hợp phần thổ nhưỡng và thực vật được
hình thành trong điều kiện khắc nghiệt giữa
biển khơi là những yếu tố góp phần tạo nên các
đơn vị cảnh quan tương đối đặc biệt so với các
đảo ven bờ. Khi chưa có sự tác động của con
người, các đảo nổi ở quần đảo Trường Sa có bề
mặt tự nhiên dạng mai rùa, chúng được hình
thành trên các rạn san hô với diện tích hầu hết
đều rất nhỏ hơn (< 0,5 km2), do vậy để nghiên
cứu cảnh quan các đảo nổi san hô thì các đơn vị
cấu trúc hình thái được xem là cơ bản, trên bản
đồ thể hiện các đơn vị dạng và diện địa lý.
Dạng địa lý
Hình 1. Ảnh vệ tinh Quickird đảo Trường Sa
Lớn ngày 13/6/2007 (nguồn Google Earth)
Hình 2. Bãi cát di chuyển theo mùa phía ngoài
bờ kè, Tây Nam đảo Trường Sa (ảnh chụp
7/5/2010)
Hiện ở quần đảo Trường Sa, hầu hết các
đảo nổi đều đã được kè kiên cố để phòng tránh
quá trình xói lở bờ đảo. Hoạt động này đã khiến
cho sự phân hóa cảnh quan các đảo nổi Trường
Trần Anh Tuấn
242
Sa thành 2 dạng: Dạng trong bờ kè và dạng
ngoài bờ kè.
Dạng trong bờ kè: Chiếm hầu hết diện tích
phần nổi của các đảo, đa số nằm trong khoảng
độ cao 2,5-3,5 m, đặc biệt ở đảo Song Tử Tây
cao đến 6 m. Lớp phủ thổ nhưỡng đặc trưng
của dạng cảnh quan này là Nhóm đất quần đảo
san hô nhiệt đới [7] với các loài thực vật chịu
mặn tốt và có tuổi còn rất trẻ gồm các loài cây
thân gỗ điển hình như bàng, bàng quả vuông,
phong ba và các loài thân thảo như muống
biển, cỏ lào, ké hoa vàng.
Dạng ngoài bờ kè: đa phần là các bãi biển
tích tụ hiện đại, đôi chỗ xuất hiện các tảng đá
vôi san hô kết tinh, khung cốt san hô hay cát sạn
kết san hô gốc bị xói mòn trơ trọi [2]. Dạng cảnh
quan này chịu ảnh hưởng mạnh của các quá
trình hải dương và hình dạng thường bị biến đổi
theo mùa. Ngoài các bãi triều là khu vực nước
nông quanh đảo với thành phần cấu tạo chủ yếu
là cát, sạn san hô và vụn vỏ sinh vật.
Trong mỗi dạng lại được phân chia thành
nhóm diện và diện theo các chỉ tiêu nền vật
chất rắn và các loại hình lớp phủ bề mặt.
Nhóm diện địa lý
Nhóm diện được phân loại dựa vào chỉ tiêu
nền rắn hình thành nên các đảo nổi và vùng
nước lân cận. Theo các nghiên cứu về trầm tích
và thổ nhưỡng ở đây chúng tôi phân thành 5
nhóm chính bao gồm:
Nhóm diện địa lý đất phân chim: phân bố
chủ yếu ở khu vực trung tâm của đảo, trên
nhóm đất này có các loài thực vật mọc tự nhiên
và cả cây trồng bao gồm cả thân cỏ và thân
thảo. Tuy nhiên, hiện nay trên nhóm đất này
nhiều công trình đã được xây dựng do vậy diện
tích đất đã bị thu hẹp đáng kể.
Nhóm diện địa lý đất cát thô sơ ven đảo:
phân bố chủ yếu ở khu vực xung quanh rìa của
đảo. Trên loại đất này chủ yếu các loại thực vật
thân thảo mọc tự nhiên. Hiện tại, các đảo nổi ở
quần đảo Trường Sa đã được xây kè kiên cố, do
vậy nhóm đất cát này tương đối ổn định, ít bị
xáo trộn bởi các quá trình sóng gió theo các
mùa khác nhau.
Nhóm diện địa lý bãi cát di chuyển theo
mùa: phân bố phía ngoài bờ kè với đặc trưng
chính là không ổn định, thường bị biến đổi theo
hai mùa gió Đông Bắc và Tây Nam. Thành
phần trầm tích hỗn độn gồm cả tảng, cuội sỏi
và cát với nhiều mảnh vụn san hô, sò ốc. Các
loài thực vật thân thảo như muống biển mọc rải
rác trên các bãi cát này.
Nhóm diện địa lý trầm tích vụn thô gắn
kết: Bị ngập nước và phân bố ở phía ngoài của
nhóm trên, ở độ sâu dưới 2 m và tương đối
bằng phẳng. Đây chính là các thềm hay hành
lang bao quanh các đảo nổi.
Nhóm diện địa lý đá vôi san hô: Phân bố
phía ngoài các thềm ở trên với độ sâu cách mặt
đảo khoảng 4-6 m. Đặc trưng chính của nhóm
này là có sự thay đổi lớn về độ dốc và thường
xuyên bị ngập nước. Bề mặt màu xám đen, xù
xì bị rong tảo bám, động vật đáy đục khoét, có
nhiều hang hốc vi caxtơ.
Diện địa lý
Diện địa lý được phân loại dựa vào đặc
trưng của lớp phủ bề mặt. Như đã nêu, ở các
đảo nổi chủ yếu là các loài thực vật chịu mặn
tốt và nghèo thành phần loài. Ngoài những diện
tích có lớp phủ thực vật còn có một diện tích
khá lớn dùng cho xây dựng các công trình phục
vụ dân sinh và quốc phòng. Phía ngoài bờ kè là
bãi cát di chuyển theo mùa với các loài thực vật
thân thảo mọc rải rác và các diện ngập nước
thường xuyên. Bằng tư liệu ảnh vệ tinh
Quickbird có độ phân giải cao, tác giả đã phân
tích và xác định có 4 loại hình lớp phủ chủ yếu
là: thực vật thân gỗ, thực vật thân thảo, thực vật
khu dân cư và sinh vật thủy sinh. Sử dụng
phương pháp chồng xếp bản đồ trên GIS và
liên kết các thành phần tự nhiên đã cho phép
xác định được 7 diện địa lý trên đảo nổi Trường
Sa Lớn (hình 3 và 4).
Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan
243
Hình 3. Bản đồ cảnh quan đảo Trường Sa Lớn tỷ lệ 1:5.000
Hình 4. Mặt cắt cảnh quan điển hình đảo Trường Sa lớn
Trần Anh Tuấn
244
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Với vị thế đặc biệt quan trọng của các đảo
nổi thuộc quần đảo Trường Sa, thì việc nghiên
cứu đặc điểm cảnh quan và đặc điểm phân hóa
không gian cảnh quan các đảo nổi có ý nghĩa
lớn trong việc quy hoạch và sử dụng hợp lý các
đảo nổi góp phần phát triển kinh tế biển, bảo vệ
tài nguyên môi trường trên đảo cũng như trong
công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt
Nam trên Biển Đông, đặc biệt là vùng biển
quần đảo Trường Sa.
Kết quả nghiên cứu đã phản ánh đầy đủ các
đặc trưng của các điều kiện tự nhiên hình thành
nên các đơn vị cảnh quan ở các đảo nổi và cho
thấy chúng có nét đặc trưng khác biệt so với
các đảo ven bờ. Dựa trên hai nguyên tắc phát
sinh - hình thái và đồng nhất tương đối của
tổng thể các thành phần tự nhiên, tác giả đã
phân chia đảo Trường Sa lớn và vùng nước
quanh đảo thành 7 diện địa lý dựa trên chỉ tiêu
hình thái của lớp phủ bề mặt, 5 nhóm diện theo
chỉ tiêu nền vật chất rắn, 2 dạng địa lý trong bờ
kè và ngoài bờ kè thuộc kiểu cảnh quan đảo san
hô nhiệt đới. Chúng được thể hiện trên bản đồ
cảnh quan ở tỷ lệ lớn 1:5.000.
Kết quả nghiên cứu cho phép đề xuất một
số kiến nghị sử dụng hợp lý các đơn vị cảnh
quan trên các đảo nổi ở quần đảo Trường Sa
như sau:
Hiện tại, hầu hết các đảo nổi khu vực quần
đảo Trường Sa đều đã được xây dựng kè kiên
cố. Như vậy, đối với dạng địa lý phía trong bờ
kè là tương đối ổn định, ít bị ảnh hưởng của các
yếu tố sóng và dòng chảy. Tuy nhiên, hiện nay
nhiều công trình dân sự và quân sự được xây
dựng đã phá hủy diện thực vật thân gỗ phát
triển trên nhóm đất phân chim, đây là diện địa
lý có chức năng lớn trong việc bảo vệ đảo và
giữ được lớp đất chứa nhiều nguyên tố vi lượng
có giá trị cần thiết đối với cây trồng trên đảo.
Do vậy, cần phải cân đối trong việc xây dựng
các công trình để giữ lại hiện trạng của diện địa
lý này.
Đối với các diện địa lý như thực vật thân
thảo phát triển trên nhóm đất phân chim và
nhóm đất cát thô sơ ven đảo cần phát triển các
loài thực vật thân gỗ phù hợp như phong ba,
dừa, phi lao để tạo nên cảnh quan vành đai
xanh, môi trường không khí trong sạch trên đảo
và đảm bảo trong việc phòng chắn các ảnh
hưởng của sóng gió, đặc biệt là bão và áp thấp
nhiệt đới thường xuyên xảy ra ở vùng biển này.
Đối với dạng địa lý phía ngoài bờ kè, đặc
biệt là nhóm diện bãi cát di chuyển theo mùa,
nên có nghiên cứu, tính toán xây dựng các kè
chắn có hướng vuông góc với hướng của hai
mùa gió để có thể ổn định các bãi cát này. Điều
này có ý nghĩa quan trọng trong việc mở rộng
diện tích đảo và khi ổn định có thể phát triển
các công trình đảm bảo quốc phòng và an ninh
trên các đảo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Bách, 2000. Cơ chế hình thành
các rạn san hô ở vùng biển Trường Sa. Tạp
chí địa chất, loạt A, số 260. Tr 9-10.
2. Nguyễn Biểu, 1985. Vài nét về đặc điểm địa
chất quần đảo Trường Sa. Địa chất, số 169,
Hà Nội. Tr. 20-21.
3. Nguyễn Ngọc, Nguyễn Hữu Cử, 1998. Về
ranh giới địa tầng Pleixtoxen-Holocen ở
khu vực đảo nổi Trường Sa. Tuyển tập các
công trình nghiên cứu về điều kiện tự nhiên và
tài nguyên thiên nhiên vùng quần đảo Trường
Sa. Nxb. KH & KT, Hà Nội. Tr. 77-85.
4. Trần Đức Thạnh, 1998. Một số đặc điểm
địa chất đảo san hô Trường Sa. Tuyển tập
các công trình nghiên cứu về điều kiện tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên vùng quần
đảo Trường Sa. Nxb. Khoa học & Kỹ thuật.
Hà Nội. Tr. 93-103.
5. Lê Đức An, 1999. Số liệu khái quát về địa mạo
các cao nguyên san hô vùng biển Hoàng Sa và
Trường Sa. Tạp chí Các Khoa học về Trái đất,
21(2), Hà Nội. Tr 153-160.
6. Nguyễn Thế Tiệp, 1998. Đặc điểm địa mạo và
địa chất vùng quần đảo Trường Sa. Tuyển tập
các công trình nghiên cứu về điều kiện tự
nhiên và tài nguyên thiên nhiên vùng quần đảo
Trường Sa. Nxb. KH & KT, Hà Nội. Tr. 26-
36.
7. Vũ Ngọc Quang, Trần Duy Tứ, 1998. Đặc
điểm lớp phủ đất quần đảo Trường Sa.
Tuyển tập các công trình nghiên cứu về
điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
vùng quần đảo Trường Sa. Nxb. Khoa học
Nghiên cứu đặc điểm cảnh quan
245
& Kỹ thuật, Hà Nội. Tr. 263-270
8. Trần Duy Tứ, 1998. Khái quát một số nét
về các điều kiện tự nhiên và lớp phủ thổ
nhưỡng của một số đảo thuộc quần đảo
Trường Sa. Tuyển tập các công trình
nghiên cứu về điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên vùng quần đảo Trường
Sa. Nxb. Khoa học & Kỹ thuật, Hà Nội. Tr.
271-276.
9. La Thế Phúc, Lương Thị Tuất, Phùng Văn
Phách, 2011. Tiềm năng tài nguyên thiên
nhiên quần đảo Trường Sa, vấn đề bảo tồn
di sản thiên nhiên và bảo vệ chủ quyền toàn
vẹn vùng biển đảo Việt Nam. Tuyển tập
báo cáo Hội nghị khoa học và công nghệ
biển toàn quốc lần thứ V, Quyển 3: Địa lý,
địa chất và địa vật lý biển. Nxb.
KHTN&CN, Hà Nội. Tr. 683-691.
RESEARCH ON LANDSCAPE CHARACTERISTICS OF CORAL
ISLANDS IN THE TRUONG SA ARCHIPELAGO
Tran Anh Tuan
Institute of Marine Geology and Geophysics-VAST
ABSTRACT: This paper presents a result of research on the differentiation characteristics of
natural conditions and landscape classification of coral islands in the Truong Sa archipelago by
integrating data on geology, topography, geomorphology, soil and the surface cover from satellite
imagery for establishing the landscape map of Truong Sa island in a large scale of 1:5000 and a
typical landscape cross section. The research has identified the landscape in emerged coral islands
in the Truong Sa archipelago as landscape type of tropical coral island and they were differentiated
into two forms of landscapes: the form on the inside of the embankment and the form on the outside
of the embankment. Using the substrate criterion, the form on the inside of the embankment was
divided into two area groups: the group of guano soils and the group of coastal primitive sandy
soils; the form on the outside of the embankment had three area groups: the seasonal moving
sandbanks, the cemented clastic rocks and the coral limestone. The surface cover analyzed from
satellite images consisted of four types: woody plants, herbaceous plants, construction land and
submerged areas. Based on a combination of two criteria (substrate and surface cover), area
groups were divided into 7 different geographical areas. The research results are the scientific
basis to assess the targets of economic development, national defense and national sovereignty
protection in the Truong Sa archipelago.
Keywords: Landscape classification, coral island, Truong Sa archipelago.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5161_20916_1_pb_4947_2079651.pdf