Kết quả nghiên cứu có thể đưa ra một một
số nhận xét kết luận sau đây:
Đặc điểm địa mạo khu vực (biển ven bờ)
thềm lục địa Đà Nẵng - Phan Thiết cho thấy địa
hình có đặc trưng là tính phân bậc rõ rệt. Đặc
tính này của địa hình là kết quả của quá trình
sụt bậc của thềm lục địa miền Trung và các thời
kỳ hoạt động của biển để lại bằng chứng là hệ
thống thềm biển và các mực địa hình phân bố ở
các độ sâu khác nhau trên thềm lục địa.
Các trầm tích tầng mặt khu vực nghiên
cứu mang tính phân đới rất rõ nét, tính chất
phân đới các trường trầm tích phù hợp với các
đới động lực. Đới động lực có năng lượng caoNghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích
33
thường tạo ra trầm tích hạt thô (đới sóng vỡ),
đới động lực có năng lương thấp thì trầm tích
thường mịn và đới động lực có năng lượng
trung bình thì trầm tích lắng đọng sẽ có mặt cả
trầm tích thô và mịn (đới sóng biến dạng và phá
hủy). Tuy nhiên sự xuất hiện một của một số dị
thường là trầm tích thô phân bố ở các đới động
lực có năng lượng thấp là bằng chứng của các
thành tạo bờ cổ còn sót lại.
Qua phân tích kết quả đo sâu đơn tia, đa
tia, tài liệu mẫu địa chất đã xác định được 7
đường bờ cổ phân bố trên thềm lục địa Đà Nẵng
- Phan Thiết đặc trưng cho các thời kỳ biển dừng
trong Pleistocen - Holocen. Trong đó rõ nhất là
các sóng cát và cồn ngầm cấu tạo trầm tích hạt
thô xen các mảnh vỏ sinh vật phân bố ở độ sâu
20 - 25 m nước, 35 - 50 m nước, 50 - 65 m nước
và 90-130 m nước.
Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành với sự
hỗ trợ của đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm địa
mạo và lịch sử hình thành hệ thống thềm biển
trên thềm lục địa và ven bờ miền Trung Việt
Nam (từ Đà Nẵng đến Phan Thiết) trong mối
quan hệ với sự thay đổi mực nước biển và
chuyển động kiến tạo”. Mã số: KC.09.22/11-
15. Tập thể tác giả xin trân trọng cảm ơn.\
10 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 575 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích và mối liên hệ giữa chúng để xác định dấu vết các đường bờ cổ khu vực thềm lục địa Đà Nẵng - Phan Thiết, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
25
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 15, Số 1; 2015: 25-34
DOI: 10.15625/1859-3097/15/1/4254
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO, TRẦM TÍCH VÀ MỐI LIÊN HỆ
GIỮA CHÚNG ĐỂ XÁC ĐỊNH DẤU VẾT CÁC ĐƯỜNG BỜ CỔ KHU
VỰC THỀM LỤC ĐỊA ĐÀ NẴNG - PHAN THIẾT
Trần Anh Tuấn1*, Nguyễn Thế Tiệp2
1Viện Địa chất và Địa vật lý biển-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2Viện Nghiên cứu Ứng dụng Khoa học và Công nghệ biển-
Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
*E-mail: tatuan@imgg.vast.vn
Ngày nhận bài: 30-7-2014
TÓM TẮT: Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu về đặc điểm địa mạo, trầm tích tầng mặt và
mối liên hệ giữa chúng trong việc xác định các dấu vết đường bờ cổ khu vực thềm lục địa Đà Nẵng
- Phan Thiết dựa trên phân tích các tài liệu khảo sát gồm: đo sâu đơn tia, đa tia và các mẫu địa
chất khu vực nghiên cứu được thực hiện trong năm 2013. Trên cơ sở liên kết các mặt cắt địa hình
ba chiều và các mẫu trầm tích tương quan, nghiên cứu đã xác định được dấu vết của các đường bờ
cổ nằm ở 7 mực độ sâu khác nhau: 20 - 25 m, 35 - 50 m, 50 - 65 m, 70 - 80 m, 90 - 130 m, 130 -
150 m, và 180 m. Mỗi một đường bờ cổ này đặc trưng cho một thời kỳ biển dừng trên thềm lục địa
Nam Trung Bộ trong Pleistocen và Holocen.
Từ khóa: Địa mạo, trầm tích, đường bờ cổ, thềm lục địa, Đà Nẵng - Phan Thiết.
MỞ ĐẦU
Vùng ven biển miền Trung từ Đà Nẵng đến
Phan Thiết là không gian chuyển tiếp giữa lục
địa và biển, thường xuyên chịu sự tương tác
của các quá trình lục địa và quá trình biển, giữa
quá trình kiến tạo và quá trình ngoại sinh, giữa
các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người.
Đây là vùng giàu có về tài nguyên khoáng sản,
có tiềm năng du lịch biển với những bãi biển và
vũng vịnh nổi tiếng và là nơi kinh tế phát triển
đa dạng về ngành nghề. Để phát huy các thế
mạnh vốn có, trước hết phải có cơ sở khoa học
mà đầu tiên là nghiên cứu về lịch sử hình thành
và phát triển lãnh thổ, về tài nguyên, địa chất,
địa mạo, vận động tân kiến tạo của vỏ trái đất,
quy luật dao động của mực nước biển và mối
quan hệ với các quá trình nội và ngoại sinh
Việc nghiên cứu về địa mạo, các hệ thống
thềm biển và các trầm tích tương quan từ lâu đã
được quan tâm. Các đường bờ cổ cuối
Pleistocen muộn - Holocen đã được xác định
dựa theo đặc điểm địa hình, tổ hợp trầm tích
tầng mặt hoặc kết hợp cả hai đặc điểm nêu trên
[1-12]. Các nghiên cứu về dao động mực nước
biển được làm rõ nét nhất là thời kỳ Holocen
bằng việc xác định tuổi C14 [2, 3, 8], tuy nhiên
các dao động mực nước trong Pleistocen chưa
được làm rõ. Các kết quả nghiên cứu chủ yếu
mang tính dự báo dựa theo liên kết và so sánh
địa hình và trầm tích. Nhìn chung, các nghiên
cứu về cơ bản thống nhất có các đường bờ cổ
Holocen ở độ sâu 50 - 60 m và 25 - 30 m, [1, 5-
8] nhưng còn chưa khớp nhau ở các đường bờ
cổ hơn vào Pleistocen muộn, thể hiện ở các mực
độ sâu khác nhau: 100 - 110 m [4], 120 - 140 m
[6], 140 - 160 m [9] và 150 - 200 m [10].
Bài báo cung cấp một số tư liệu mới về địa
mạo và địa chất đã được khảo sát trên thềm lục
Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thế Tiệp
26
địa khu vực từ Đà Nẵng đến Phan Thiết bao
gồm các dữ liệu đo sâu đơn tia và đa tia, dữ liệu
địa chấn và các mẫu trầm tích đáy. Trên cơ sở
phân tích các tài liệu đó sẽ cung cấp một bức
tranh tổng quát về đặc điểm địa mạo, trầm tích
tầng mặt và mối liên hệ giữa chúng trong việc
xác định các dấu vết đường bờ cổ để cùng với
các nghiên cứu trước đây dần làm sáng tỏ sự
thay đổi mực nước biển của khu vực nghiên
cứu trong thời kỳ Pleistocen - Holocen.
CƠ SỞ TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Cơ sở tài liệu nghiên cứu
Tài liệu sử dụng trong nghiên cứu là các
tài liệu thu thập được qua đợt khảo sát ở khu
vực thềm lục địa từ Đà Nẵng đến Phan Thiết
trong thời gian tháng 10 và 11 năm 2013.
Nhiệm vụ này là một trong những nội dung
quan trọng của đề tài KC.09.22/11-15. Quá
trình khảo sát được thực hiện trên tàu khảo sát
mang số hiệu HQ888 thuộc Đoàn Đo đạc Biên
vẽ Hải đồ và Nghiên cứu biển với các trang
thiết bị đo đạc, hệ thống lấy mẫu đồng bộ và
hiện đại. Các kết quả khảo sát được thực hiện
trên 8 tuyến với tổng độ dài 700 km (hình 1a),
trong đó: đo sâu đơn tia 700 km bằng máy đo
sâu hồi âm DESO35/350; đo sâu đa tia 500 km
bằng máy quét đa tia Fansweep 20 kết nối trực
tiếp với máy định vị GPS SPS351; Đo địa
chấn nông phân giải cao 700 km bằng hệ
thống thiết bị địa chấn nông Sub-Bottom
Profiler và thu 63 mẫu địa chất bằng các thiết
bị ống phóng trọng lực và cuốc đại dương trên
tất cả các tuyến đo (hình 1b và hình 1c). Các
tài liệu địa hình và trầm tích trong khoảng độ
sâu từ 0 - 20 m nước được thu thập từ kết quả
điều tra cơ bản địa chất và khoáng sản vùng
biển nông Việt Nam [8].
Hình 1. a) Sơ đồ khảo sát khu vực thềm lục địa Đà Nẵng - Phan Thiết, b) quang cảnh thao tác
trên thực địa, c) một số mẫu địa chất thu được
a
b
c
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích
27
Các phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện bằng việc kết
hợp các phương pháp khảo sát thực địa và các
phương pháp nghiên cứu phân tích trong phòng:
Các phương pháp khảo sát thực địa: được
thực hiện trong quá trình thu thập số liệu thực
địa, nhằm xây dựng cơ sở tài liệu phục vụ cho
quá trình nghiên cứu. Các số liệu được khảo sát
bằng tàu biển chuyên dụng bao gồm: sử dụng
các phương pháp đo sâu hồi âm đơn tia và đa
tia, đo địa chấn nông phân giải cao và lấy mẫu
địa chất bằng các thiết bị cuốc đại dương và
ống phóng trọng lực.
Các phương pháp phân tích trong phòng:
Nhằm phân tích, đánh giá các dữ liệu đã thu
được trong công tác khảo sát thực địa bao gồm:
xử lý các dữ liệu độ sâu đơn tia và xây dựng
các mặt cắt địa hình 3 chiều bằng các phần
mềm GIS; phân tích đặc điểm hình thái địa
hình trên các mặt cắt, liên kết các đặc điểm
trầm tích tương ứng trên từng mặt cắt thông
qua các mẫu địa chất thu được để xác định dấu
vết của các đường bờ cổ.
ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO VÀ TRẦM TÍCH
TẦNG MẶT
Đặc điểm địa mạo
Trên cơ sở phân tích các mặt cắt địa hình
được xây dựng từ số liệu đo sâu hồi âm đơn tia
và đa tia ở độ sâu từ 0 - 200 m nước, có thể
thấy địa hình thềm lục địa từ Đà Nẵng đến
Phan Thiết có sự phân hóa rất phức tạp. Nhìn
chung, diện tích thềm lục địa mở rộng ở phần
phía bắc và phía nam và co hẹp lại ở phần giữa
khu vực nghiên cứu. Bề mặt đáy biển có độ dốc
nghiêng về phía sườn lục địa, độ dốc lớn thể
hiện ở hai khu vực là dải địa hình sát bờ và
phần ngoài của thềm. Những khu vực có các
đảo thì tính phức tạp của địa hình cũng tăng
lên. Phân tích các mặt cắt địa hình 3D và mẫu
trầm tích tương ứng trên các tuyến khảo sát khu
vực nghiên cứu cho thấy:
Từ độ sâu 0 - 5 m nước là địa hình tích tụ
mài mòn, nằm trong đới sóng vỡ do đó chịu tác
động mạnh của sóng, vật liệu cấu tạo thường có
kích thước lớn và độ chọn lọc kém.
Từ độ sâu 10 - 15 m nước, địa hình đáy
thoải hơn, vật liệu thành tạo địa hình thường là
cát hoặc cát bùn, do địa hình nằm trong đới
biến dạng và phá hủy.
Từ độ sâu 20 - 35 m nước là đới sóng lan
truyền, vai trò thành tạo địa hình chủ yếu là
dòng chảy, do vậy vật liệu tạo địa hình mịn,
trên thực tế đây là khu vực di chuyển bồi tích
từ phía lục địa xuống nên địa hình mang tính
đơn điệu, hình thái địa hình đơn giản (hình 2g).
Từ độ sâu 35 - 50 m nước, địa hình nằm
trong đới sóng lan truyền, vai trò thành tạo địa
hình là dòng chảy đáy. Những bề mặt địa hình
dốc, mấp mô đa số là do ảnh hưởng của các yếu
tố kiến tạo là chủ yếu (hình 2a).
Phân tích các mặt cắt 3D ở độ sâu 0 - 50
m nước ở các vùng biển khác nhau trong khu
vực nghiên cứu cho thấy có một số đặc điểm
đáng chú ý sau:
Vùng biển Quảng Nam - Quảng Ngãi,
đồng bằng tích tụ ở độ sâu 10 - 50 m nước có
các đảo ven bờ, nằm trên kiểu kiến trúc hình
thái đồng bằng nghiêng rất dốc sụt đơn nghiêng
có thể thấy trên các mặt cắt tuyến T1 và T2
(hình 2a và hình 2b).
Vùng biển Bình Định - Khánh Hòa, các
đồng bằng tích tụ ngầm ở độ sâu 10 - 50 m
nước có các đảo và vũng vịnh ven bờ. Tại vùng
biển tại Nha Trang, bề mặt địa hình từ độ sâu 0
- 20 m nước có nhiều biển đổi, nhưng từ độ sâu
20 - 45 m nước bề mặt nghiêng phẳng và 45 -
50 m nước xuất hiện vách dốc lớn (hình 2e).
Vùng biển Ninh Thuận - Bình Thuận:
Đồng bằng tích tụ ngầm ở độ sâu 10 - 40 m
nước có một số đảo, nằm trên kiến trúc sụt đơn
nghiêng của thềm lục địa. Thời gian thành tạo
địa hình tích tụ sót ở độ sâu 25 - 30 m nước là
vào khoảng 11.000 - 12.000 năm trước đây. Tại
vùng biển Phan Rang, cùng với độ sâu này địa
hình thể hiện là một bề mặt tích tụ nghiêng
phẳng về phía đông nam với độ dốc chỉ vài độ
(hình 2g). Vật liệu cấu tạo địa hình là bùn màu
xám đen (mẫu T6-1a, T6-2, T6-3a) và ra đến độ
sâu 53 m nước xuất hiện bùn sét (mẫu T6-3b).
Đặc biệt trên mặt cắt địa hình 3D tuyến 7 ở
phía đông nam cửa Phan Rí (hình 2i), từ độ sâu
12 m đến 20 m nước bề mặt đáy biển có sự
phân dị lớn về phân cắt sâu do xuất hiện các gò,
đồi nhô cao khỏi đáy từ 5 - 10 m nước. Đây là
các cồn cát màu vàng hạt thô đến trung, có
chứa lẫn vỏ sò ốc. Có thể nói các thành tạo cổ
còn sót lại trên bề mặt là một bằng chứng tồn
tại của một đới bờ cổ trong Holocen.
Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thế Tiệp
28
a) Tuyến T1 ở độ sâu từ 30 - 50 m nước
b) Tuyến T2 ở độ sâu từ 20 - 80 m nước
c) Tuyến T3 ở độ sâu từ 40 - 80 m nước
d) Tuyến T4 ở độ sâu từ 30 - 80 m nước
e) Tuyến T5 ở độ sâu từ 20 - 50 m nước
f) Tuyến T5 ở độ sâu từ 50 - 130 m nước
g) Tuyến T6 ở độ sâu từ 20 - 50 m nước
h) Tuyến T6 ở độ sâu từ 50 - 100 m nước
i) Tuyến T7 ở độ sâu từ 10 - 30 m nước
k) Tuyến T7 ở độ sâu từ 30 - 80 m nước
Hình 2. Mặt cắt địa hình 3D trên các tuyến khảo sát ở khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích
29
Từ độ sâu 50 - 80 m nước là bề mặt địa
hình tích tụ, trên mặt cắt địa hình 3D có thể
thấy chúng phân bố rộng rãi ở phía bắc và phía
nam khu vực nghiên cứu và thu hẹp ở giữa (từ
Quy Nhơn đến Khánh Hòa). Địa hình đáy biển
phân bố từ độ sâu 50 m đến 80 m nước có thể
phân biệt làm hai mực: 50 - 60 m nước và 70 -
80 m nước:
Mực địa hình 50 - 65 m nước tại vùng
biển Phan Rang, Phan Rí Cửa gặp gò, đồi nhô
cao 5 - 7 m trên mặt đáy biển, chúng cấu tạo từ
cát sạn màu vàng chứa mảnh vụn sò ốc. Các gò
đồi này có thể quan sát thấy trên các mặt cắt
tuyến T6 và T7 (hình 2h và 2k) và thể hiện ở
các mẫu T7-4a, T7-4b, T7-5a, T7-5b. Đa số bề
mặt địa hình này trên các tuyến đều dốc, riêng
ở khu vực từ Sa Huỳnh đến cửa Đà Rằng bề
mặt biểu hiện là một đồng bằng tích tụ khá
bằng phẳng, thể hiện trên các tuyến T3 và T4
(hình 2c và 2d) .
Mực địa hình 70 - 80 m nước là những
đồng bằng tích tụ nghiêng nhưng chúng có độ
dốc rất khác nhau. Khu vực Đà Nẵng đến bắc
Tuy Hòa và từ nam Phan Rang đến Phan Thiết
diện tích đồng bẳng được mở rộng. Đồng bằng
tích tụ này nhiều khi cũng khá dốc như ở vùng
biển Dung Quất, đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi trên
tuyến T2 (hình 2b), vùng biển Khánh Hòa trên
tuyến T5 (hình 2f), Phan Rang trên tuyến T6
(hình 2h) và Phan Rí Cửa trên tuyến T7
(hình 2k). Đa số số vật liệu thành tạo địa hình
đồng bằng là bùn cát, một số nơi xuất hiện cát
thô chứa mảnh vụn sinh vật như ở tuyến T6
(mẫu T6-5).
Từ độ sâu 90 - 130 m nước là bề mặt địa
hình có độ dốc lớn, nhiều khu vực có sự thay
đổi đột ngột có thể thấy trên các tuyến T1, T5,
T6. Từ 90 - 100 m nước ở phía đông Phan
Rang (trên tuyến T6) bề mặt gồ ghề bị phân cắt
do xuất hiện nhiều gò nhô cao tới hơn 10 m so
với đáy biển (hình 2h). Tại mặt cắt một đoạn
trên tuyến T6 bề mặt địa hình không chỉ dốc
mà còn bị phân cắt rất mạnh, giá trị phân cắt
dọc có thể đạt 10 m. Các thành tạo trầm tích
tầng mặt chủ yếu là bùn và bùn sét màu đen.
Địa hình ở độ sâu này hoàn toàn nằm trong đới
di chuyển bồi tích nên trầm tích lục nguyên
được dòng chảy đáy vận chuyển từ đới bờ ra và
tích tụ tại đây. Những phân dị về hình thái địa
hình chủ yếu là do cấu trúc tân kiến tạo, một số
rất ít do địa hình của dải đường bờ cổ còn sót
lại được thể hiện là những cồn và sóng cát hạt
thô có lẫn xác sinh vật.
Như vậy qua phân tích tài liệu khảo sát cho
thấy địa hình thềm lục địa khu vực nghiên cứu
từ Đà Nẵng đến Phan Thiết phân bố các mực
địa hình ở các độ sâu sau đây: 0 - 5 m nước, 10
- 15 m nước, 20 - 25 m nước, 35 - 50 m nước,
50 - 65 m nước, 70 - 80 m nước, 90 - 130 m
nước, 130 - 150 m nước và 160 - 200 m nước.
Các mực địa hình này bước đầu so sánh với
các kết quả nghiên cứu trước thì mực 100 m
nước có tuổi 14.720 năm trước đây, mực 54 m
nước có tuổi 10.130 ± 110 năm trước đây [2],
mực 35 - 45 m nước tương đương mực 43 m
nước ở biển phía đông Trung Quốc với thời
gian thành tạo là 11.640 ± 40 năm đến 12.022
± 189 năm trước đây [3]. Mực 20 - 25 m nước
có tuổi 11.000 - 12.000 năm trước đây theo xác
định tuổi tuyệt đối C14 của mẫu san hô ở vùng
biển Phan Rí Cửa - Phan Thiết và mực 10 -
15 m nước qua xác định vỏ sò, san hô ở vịnh
Nha Trang cho tuổi 7.000 - 5.000 năm
trước đây.
Đặc điểm trầm tích tầng mặt
Trên diện tích vùng nghiên cứu, trầm tích
tầng mặt chủ yếu là các vật liệu hạt mịn bao
gồm bùn, bùn cát. Các diện tích nhỏ hẹp với
thành phần là sét cát, sạn cát phân bố rải rác
trong vùng, chủ yếu tập trung ở phần rìa phía
đông vùng nghiên cứu. Thành phần thô hơn
như dăm sạn chỉ gặp với diện phân bố rất nhỏ
phía đông và đông nam khu vực. Ngoài ra còn
quan sát thấy hiện tượng sóng cát có thành
phần trầm tích tầng mặt là cát sét, cát bùn trong
phạm vi diện tích phía nam vùng nghiên cứu, từ
khu vực đảo Phú Quý kéo dài về phía vịnh
Phan Thiết.
Kết quả khảo sát cho thấy trầm tích tầng
mặt khu vực phân bố theo các đới khác nhau
nhưng nhìn chung tuân theo quy luật động lực
thành tạo chúng. Các đới này phân bố tương
đối song song với bờ biển, đôi khi bị chia cắt
do các địa hình đảo ven bờ, các núi lửa ngầm,
các khối nhô và các hệ thống sông suối ngầm
của thềm lục địa theo các độ sâu khác
nhau, gồm:
Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thế Tiệp
30
Đới sạn, cát thô phân bố sát với đường bờ
đến độ sâu 5 m nước:
Đây là đới chịu tác động của sóng vỗ bờ
nên vật liệu trầm tích thường có kích thước lớn
và độ chọn lọc từ tốt đến kém. Dọc theo bờ biển
Đà Nẵng, Hội An, Quảng Ngãi, Cà Ná, Quy
Nhơn, Nha Trang đến Phan Thiết đới này phân
bố chủ yếu là cát thô đến cát trung xen lẫn các
vỏ sò ốc, các mảnh vụn san hô, đôi khi có cả bùn
bả thực vật do sông mang ra như ở Cửa Đại, Hội
An, Phan Rí Cửa, Tuy Hòa, Sông Cầu ...
Đới cát bùn phân bố ở độ sâu 5 - 26 m nước:
Mẫu có ký hiệu T1-1 trên tuyến T1
(thuộc vùng biển Đà Nẵng) tại độ sâu 26 m
nước gặp cát trung có màu vàng; trên tuyến T2
có hai mẫu T2-6a và T2-6b lấy từ độ sâu 20 m
nước cho thấy cát hạt mịn lẫn bùn màu xám
đen; trên tuyến số T4, tại độ sâu 26 m nước đã
lấy được mẫu bùn màu xám đen; trên tuyến T5,
tại độ sâu 21 m nước cũng lấy được mẫu bùn
màu đen; trên tuyến T6 tại độ sâu 25 m nước,
lấy 2 mẫu có ký hiệu T6-1a và T6-1b là bùn có
màu xám đen; trên tuyến T7, tại độ sâu 22 m
nước lấy được 1 mẫu cát sạn màu vàng hạt từ
trung bình đến thô xen lẫn vụn vỏ sinh vật.
Trên tuyến T8 thuộc biển Bình Thuận, tại độ
sâu 21 m nước cũng gặp cát bùn màu xám lẫn
các mảnh vụn sinh vật. Qua các thống kê như
trên cho thấy đới trầm tích này có thành phần
không đồng nhất do sự xáo trộn của đới sóng
biến dạng và phá hủy. Tại đới này trong khu
vực nghiên cứu thấy xuất hiện dấu tích của 2 dị
thường trầm tích ở độ sâu 21 m và 26 m nước
(hạt thô lẫn xác sinh vật). Đây có thể là một
sóng cát nhô cao là di tích sót lại của đường
bờ cổ.
Đới bùn sét phân bố từ độ sâu 26 m đến
45 m nước:
Bề mặt đáy biển từ 26 m đến 45 m nước
tương đối phẳng, các thành tạo trầm tích chủ yếu
là bùn và bùn sét. Tại tuyến T4 ở độ sâu 38 m
nước lấy được 2 mẫu bùn màu đen, tuyến T5, có
2 mẫu bùn màu xám nâu lấy được ở độ sâu 38 m
nước và 2 mẫu ở độ sâu 28 m nước cũng là bùn
màu đen. Trên tuyến T6, ở độ sâu 41 m nước
cũng xác định 1 mẫu bùn màu xám đen.
Riêng vùng biển Bình Thuận, trong đới
độ sâu này thành phần trầm tích có sự khác
biêt, ở tuyến T7 cát sạn màu vàng xen lẫn xác
sinh vật phân bố ở độ sâu từ 35 m nước (mẫu
T7-2a, T7-2b), ở độ sâu 42 m nước (mẫu T7-
5a, T7-5b) và ở 48m nước (mẫu T7-4a, T74b)
và 4 mẫu trên tuyến T8 cát sạn màu vàng xen
lẫn vỏ sinh vật phân bố từ độ sâu 32 m đến
45 m nước.
Đới sét - bùn phân bố từ 45 m đến
200 m nước:
Kết quả lấy mẫu bằng cuốc đại dương và
bằng ống phóng trong lực đều thu được trầm
tích tầng mặt chủ yếu là sét bùn màu xám hoặc
màu đen. Sản phẩm này có nguồn gốc lục
nguyên được lắng đọng trong đới di chuyển bồi
tích, trải dải thành một dải rộng lớn trên thềm
lục địa từ vùng biển Đà Nẵng đến Phan Thiết.
Tuy nhiên qua khảo sát cũng thấy xuất hiện
một số các dị thường trầm tích (trầm tích hạt
thô) nổi trên bề mặt ví dụ: trên tuyến T1, mẫu
T1-8 lấy ở độ sâu 93 m nước là cát thô màu
xám đen; trên tuyến T2 các mẫu cát vàng xen
lẫn vỏ sinh vật xuất hiện ở độ sâu 58 m, 67 m,
và 85 m nước; trên tuyến T6, có một mẫu cát,
sạn màu vàng xen vỏ sò ốc nằm ở độ sâu 75 m
nước, trên tuyến T7 thành tạo này xuất hiện ở
độ sâu 48 m nước (mẫu T7-4a và T7-4b). Đây
có thể là những thành tạo cổ còn sót lại của
đường bờ trong Pleistocen và Holocen.
LUẬN GIẢI CÁC KẾT QUẢ ĐỊA MẠO,
TRẦM TÍCH ĐỂ XÁC ĐỊNH DẤU VẾT
CỦA CÁC ĐƯỜNG BỜ CỔ
Số liệu đo sâu đơn tia và đa tia cho thấy
hình ảnh bề mặt địa hình đáy biển khu vực
nghiên cứu trên các tuyến khảo sát theo không
gian ba chiều (hình 2). Trên cơ sở phân tích địa
hình cho thấy những đường bờ cổ thường thể
hiện là các doi cát ngầm, các dải tích tụ thể
hiện dưới dạng các địa hình dương còn sót lại,
phân bố cao hơn so với địa hình xung quanh từ
0,5 m đến một vài mét. Đương nhiên để xác
định những địa hình này có phải là đường bờ cổ
hay không còn phải xác định các thành tạo trầm
tích thông qua việc lấy mẫu địa chất ở các độ
sâu tương ứng.
Các mặt cắt địa hình được thiết lập theo các
tuyến đo cắt từ bờ ra đến độ sâu 200 m nước.
Đối sánh các mặt cắt địa hình với các tài liệu
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích
31
thu thập được đã xác định được một số dải bề
mặt phân bố ở các độ sâu: 0 - 5 m nước, 10 -
15 m nước, 20 - 25 m nước, 35 - 50 m nước, 50
- 65 m nước, 70 - 80 m nước, 90 - 130 m nước,
130 - 150 m nước và 180 m nước là các địa
hình tích tụ vật liệu trầm tích hạt thô, trong đó,
các mực độ sâu dự đoán là đường bờ cổ thể
hiện trên các mặt căt 3D phổ biến là: 35 - 50 m
nước, 90 - 130 m nước, 130 - 150 m nước,
180 m nước. Các mực địa hình này có thể so
sánh với các mực biển nằm ở các độ sâu đã xác
định ở bờ biển phía đông Trung Quốc. Trong
đó, các mực độ sâu 5 m nước, 20 - 25 m nước,
35 - 50 m nước ở khu vực biển Đà Nẵng - Phan
Thiết có thể so sánh với các mực độ sâu ở khu
vực bắc Biển Đông. Đây là các mực biển dừng
có tuổi Holocen: 5 m nước có tuổi 7.000 -
8.000 năm trước đây, 20 m nước có tuổi 8.500
năm trước đây và 40 m nước có tuổi 8.000 -
10.000 năm trước đây.
Qua các mẫu địa chất tầng mặt thu được, sơ
bộ có thể thấy một số mẫu phân bố ở các độ sâu
khác nhau có biểu hiện các dị thường khác biệt.
Đó là những mẫu có thành phần hạt thô lại
phân bố ở độ sâu lớn so với các mẫu hạt mịn
phân bố ở độ sâu nhỏ hơn. Hiện tượng này
hoàn toàn ngược với quy luật phân bố trầm tích
biển (càng xa bờ trầm tích xuất hiện có độ hạt
càng mịn). Do vậy các mẫu lấy được ở các độ
sâu: 93 m nước, 85 m nước, 75 m nước, 73 m
nước, 57 m nước, 58 m nước, 45 m nước, 41 m
nước, 37 m nước, 26 m nước, 24 m nước và
20 m nước chỉ có thể đặc trưng cho môi trường
động lực có năng lượng lớn trong quá khứ
(bảng 1).
Bảng 1. Các mẫu trầm tích thu được thể hiện các thành tạo của đường bờ cổ
trên đáy biển khu vực Đà Nẵng đến Phan Thiết
TT
Ký
hiệu
mẫu
Độ
sâu
lấy
mẫu
Thành phần trầm tích
Thông số trầm tích
Kích thước hạt
trung bình (Md
= mm)
Hệ số chọn
lọc (So)
Hệ số đối
xứng (Sk)
1 T1-6a 93 m Cát mịn màu xám đen 0,064 4,99 6,31
2 T2-2 85 m Cát màu vàng lẫn nhiều mảnh vỏ sò ốc 0,18 1,35 0,66
3 T6-3 75 m Cát đen hạt thô chứa nhiều mảnh sinh vật 0,31 1,36 0,74
4 T1-4 73 m Cát hạt trung bình đến mịn xen bùn màu xám 0,065 5,57 5,62
5 T1-3a 57 m Cát hạt trung bình lẫn bùn màu xám 0,31 1,36 0,76
6 T2-3a 58 m Cát màu vàng bở rời hạt trung đến mịn 0,18 1,30 0,72
7 T7-4a 45 m Cát sạn màu vàng lẫn các mảnh vỏ sò ốc 0,54 2,02 1,56
8 T7-5a 41 m Cát sạn màu vàng lẫn nhiều xác sinh vật 0,48 1,51 1,09
9 T7-6a 37 m Cát sạn màu vàng lẫn nhiều xác sinh vật 0,30 1,66 1,07
10 T1-1 26 m Cát màu vàng hạt trung bình 0,18 1,09 1,00
11 T7-8a 24 m Cát màu xám đen lẫn vụn vỏ sinh vật 0,19 1,19 1,18
12 T2-5a 20 m Cát bùn màu xám đen 0,18 4,07 0,30
Như vậy, bằng việc liên kết các đặc điểm
địa mạo trên các mặt cắt địa hình và phân tích
các thành phần trầm tích tương ứng nói trên, có
thể xác định được dấu vết đường bờ cổ trên 7
mực địa hình ở các độ sâu sau: 20 - 25 m nước,
35 - 50 m nước, 50 - 65 m nước, 70 - 80 m
nước, 90 - 130 m nước, 130 - 150 m nước, và
180 m nước, thể hiện trên hình 3.
Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thế Tiệp
32
a) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T1
b) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T2
c) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T3
d) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T5
e) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T6
f) Dấu vết đường bờ cổ trên tuyến T7
Hình 3. Liên kết địa mạo và trầm tích để xác định dấu vết các đường bờ cổ
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu có thể đưa ra một một
số nhận xét kết luận sau đây:
Đặc điểm địa mạo khu vực (biển ven bờ)
thềm lục địa Đà Nẵng - Phan Thiết cho thấy địa
hình có đặc trưng là tính phân bậc rõ rệt. Đặc
tính này của địa hình là kết quả của quá trình
sụt bậc của thềm lục địa miền Trung và các thời
kỳ hoạt động của biển để lại bằng chứng là hệ
thống thềm biển và các mực địa hình phân bố ở
các độ sâu khác nhau trên thềm lục địa.
Các trầm tích tầng mặt khu vực nghiên
cứu mang tính phân đới rất rõ nét, tính chất
phân đới các trường trầm tích phù hợp với các
đới động lực. Đới động lực có năng lượng cao
Nghiên cứu đặc điểm địa mạo, trầm tích
33
thường tạo ra trầm tích hạt thô (đới sóng vỡ),
đới động lực có năng lương thấp thì trầm tích
thường mịn và đới động lực có năng lượng
trung bình thì trầm tích lắng đọng sẽ có mặt cả
trầm tích thô và mịn (đới sóng biến dạng và phá
hủy). Tuy nhiên sự xuất hiện một của một số dị
thường là trầm tích thô phân bố ở các đới động
lực có năng lượng thấp là bằng chứng của các
thành tạo bờ cổ còn sót lại.
Qua phân tích kết quả đo sâu đơn tia, đa
tia, tài liệu mẫu địa chất đã xác định được 7
đường bờ cổ phân bố trên thềm lục địa Đà Nẵng
- Phan Thiết đặc trưng cho các thời kỳ biển dừng
trong Pleistocen - Holocen. Trong đó rõ nhất là
các sóng cát và cồn ngầm cấu tạo trầm tích hạt
thô xen các mảnh vỏ sinh vật phân bố ở độ sâu
20 - 25 m nước, 35 - 50 m nước, 50 - 65 m nước
và 90-130 m nước.
Lời cảm ơn: Bài báo được hoàn thành với sự
hỗ trợ của đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm địa
mạo và lịch sử hình thành hệ thống thềm biển
trên thềm lục địa và ven bờ miền Trung Việt
Nam (từ Đà Nẵng đến Phan Thiết) trong mối
quan hệ với sự thay đổi mực nước biển và
chuyển động kiến tạo”. Mã số: KC.09.22/11-
15. Tập thể tác giả xin trân trọng cảm ơn.\
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Biểu, Nguyễn Tiến Hải, Nguyễn
Huy Phúc, Nguyễn Quốc Hưng, 2006. Sự
thay đổi mực nước biển và các trầm tích đi
kèm thời kỳ Pleistocen muộn - Holocen ở
thềm lục địa Nam Trung Bộ. Tạp chí Địa
chất, A/292. Hà Nội. Tr. 10-24.
2. Nguyễn Địch Dỹ, Doãn Đình Lâm, Vũ Văn
Hà, Nguyễn Trọng Tấn, Đặng Minh Tuấn,
Nguyễn Minh Quảng, Nguyễn Thị Thu Cúc,
2010. Phân vị địa tầng mới - hệ tầng Bình
Đại, tuổi Holocen sớm vùng cửa sông ven
biển châu thổ sông Cửu Long. Tạp chí Các
Khoa học về Trái đất, 32(4): 335-342.
3. Han, Y., and Meng, G., 1987. On the sea
level changes along the eastern coast of
China during the past 12,000 years. Late
Quaternary Sea Level Changes. China
Ocean Press, Beijing, 119-136.
4. Trịnh Thế Hiếu, 2003. Trầm tích Đệ tứ thềm
lục địa nam Việt Nam. Tuyển tập HNKH
Công trình và địa chất biển. Đà Lạt.
Tr. 265-276.
5. Trần Nghi, Đinh Xuân Thành, Nguyễn Thanh
Lan, Mai Thanh Tân, 2004. Nhìn lại sự thay
đổi mực nước biển trong Đệ tứ trên cơ sở
nghiên cứu trầm tích vùng ven biển và biển
nông ven bờ từ Nha Trang đến Bạc Liêu.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển,
4(3): 1-9.
6. Trần Nghi, Mai Thanh Tân, Đinh Xuân
Thành, Nguyễn Thanh Lan, Trần Thị Thanh
Nhàn, 2005. Đặc điểm tướng đá, cổ địa lý
và lịch sử phát triển địa chất Pliocen - Đệ
tứ thềm lục địa Đông Nam Việt Nam. Tạp
chí Địa chất (Số đặc biệt chào mừng 60
năm thành lập ngành Địa chất Đông
Dương). Hà Nội. Tr. 140-153.
7. Trần Nghi, Nguyễn Địch Dỹ, Đinh Xuân
Thành, Ngô Quang Toàn, 2013. Địa tầng
trầm tích Đệ tứ thềm lục địa Việt Nam tiếp
cận từ địa tầng phân tập. Tuyển tập báo cáo
khoa học Hội nghị khoa học địa chất biển
toàn quốc lần thứ 2. Nxb. KHTN&CN, Hà
Nội. Tr. 431-443.
8. Vũ Trường Sơn, Nguyễn Biểu, Đào Mạnh
Tiến, Dương Văn Hải, Lê Văn Học, Lê Anh
Thắng, 2009. Một số kết quả công tác điều
tra cơ bản địa chất và khoáng sản vùng biển
nông Việt Nam. Tạp chí Địa chất, A/315.
Hà Nội. Tr. 1-11.
9. Nguyễn Văn Tạc, Trịnh Phùng, 1992. Một
vài kết quả nghiên cứu địa mạo phần phía
nam thềm lục địa Việt Nam. Tuyển tập
nghiên cứu biển, Tập IV. Nha Trang.
Tr. 100-114.
10. Phạm Văn Thơm, 1992. Một số vấn đề địa
chất vùng thềm lục địa phía nam. Tuyển tập
nghiên cứu biển, Tập IV. Nha Trang.
Tr. 73-88.
11. Nguyễn Thế Tiệp, 1989. Lịch sử phát triển
các mực biển cổ ở Việt Nam. Tuyển tập địa
chất Biển Đông và các miền kế cận. Hà
Nội. Tr. 50-54.
12. Phạm Bá Trung, 2013. Đặc điểm địa hình
đáy và trầm tích tầng mặt vùng biển ven bờ
tỉnh Bình Định. Tuyển tập báo cáo khoa
học Hội nghị khoa học địa chất biển toàn
quốc lần thứ 2. Nxb. KHTN&CN, Hà Nội.
Tr. 260-270.
Trần Anh Tuấn, Nguyễn Thế Tiệp
34
RESEARCH ON THE GEOMORPHOLOGICAL AND SEDIMENTARY
FEATURES, AND THEIR RELATIONSHIP FOR IDENTIFYING
TRACES OF THE ANCIENT COASTLINES ON THE CONTINENTAL
SHELF FROM DA NANG TO PHAN THIET
Tran Anh Tuan1, Nguyen The Tiep2
1Institute of Marine Geology and Geophysics-VAST
2Institute for Applied Research of Marine Science and Technology-VUSTA
ABSTRACT: This paper presents the research results of geomorphological and surface
sedimentary features and their relationship for identifying traces of ancient coastlines on the
continental shelf from Da Nang to Phan Thiet based on the analysis of survey data such as single-
beam bathymetry, multi-beam bathymetry and geological samples of the study area collected in
2013. On the basis of linking the three dimensional topographic cross sections to sediment samples,
the research has identified traces of the ancient coastlines located in 7 different deep levels: 20 - 25
m, 35 - 50 m, 50 - 65 m, 70 - 80 m, 90 - 130 m, 130 - 150 m, and 180 m. Each of these ancient
coastlines represents a standing period of sea on the continental shelf of South Central Vietnam
during Pleistocene and Holocene.
Keywords: Geomorphology, sediments, ancient coastline, continental shelf, Da Nang - Phan
Thiet.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4254_22085_1_pb_2011_2079629.pdf