KẾT LUẬN
ĐMMĐN thường có ba nhánh đó là nhánh
lên, nhánh ngang và nhánh xuống. Nhánh xuống
thường tách độc lập (11,7%), nhánh ngang và
nhánh lên thường có thân chung (83,3%). Do số
lượng nhánh ngang quá ít 6/60 (10%), không đảm
bảo cho việc khảo sát các đặc tính thống kê nên
chúng tôi chỉ mô tả một số đặc điểm của nhánh này
trong phần kết quả không đủ để kết luận. Nhánh
lên đa số có nguyên uỷ từ ĐMMĐN (76,7%), đường
kính nhánh lên tại nguyên uỷ trung bình là 2,6 ± 0,6
mm, chiều dài nhánh lên trung bình 95,9 ± 2,7 mm.
Nhánh lên cho trung bình 4,1 nhánh để nuôi các
cơ vùng đùi trước. Trung bình cho 2,8 mạch xuyên
da . Có 75,34% nhánh xuống (trong 73 nhánh) xuất
phát từ ĐMMĐN. Đường kính tại nguyên ủy lớn hơn
2,5 mm, trung bình mỗi nhánh xuống cho 8,9 ± 0,2
nhánh cơ và trung bình có 3,1 ± 0,3 nhánh xuyên
trên 01 tiêu bản đùi. Trong đó, số nhánh nuôi cơ
rộng ngoài là nhiều nhất 7,9 ± 0,4 nhánh.
Nhánh lên và nhánh xuống đều có thể xây dựng
trở thành vạt phức với thành phần vạt da và nhánh
bên cơ hoặc cân căng đùi. Trong đó, nhánh xuống
có nhiều ưu thế có nhiều mạch xuyên và nhánh bên
thuận lợi trong việc xây dựng vạt phức hợp hơn. Đây
là căn cứ quan trọng để xây dựng vạt ĐTN phức hợp
trên lâm sàng.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 39 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu phân nhánh động mạch mũ đùi ngoài ứng dụng trong xây dựng vạt phức hợp đùi trước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
89
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu phân nhánh động mạch mũ đùi ngoài
ứng dụng trong xây dựng vạt phức hợp đùi trước ngoài
Lê Hồng Phúc1, Trần Thiết Sơn2, Trần Đăng Khoa3
(1) Bộ Môn Ngoại, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Bộ Môn Phẫu thuật thực hành, Đại học Y Hà Nội;
Khoa Phẫu Thuật Tạo hình - Thẩm mỹ - Bệnh viện Xanh Pôn, Hà Nội
(3) Bộ Môn Giải phẫu, Đại Học Y Phạm Ngọc Thạch
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Nghiên cứu động mạch mũ đùi ngoài (ĐMMĐN) đã được nghiên cứu và ứng dụng trong
nhiều lĩnh vực lâm sàng. Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm giải phẫu phân nhánh của động mạch mũ đùi ngoài ứng
dụng trong xây dựng vạt phức hợp đùi trước ngoài (ĐTN). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 vùng
đùi của 30 xác người Việt trưởng thành đáp ứng các tiêu chuẩn nghiên cứu được tiến hành phẫu tích
mô tả cắt ngang. Kết quả: ĐMMĐN thường có ba nhánh đó là nhánh lên, nhánh ngang và nhánh xuống.
Nhánh xuống thường tách độc lập (11,7%), nhánh ngang và nhánh lên thường có thân chung (83,3%).
Nhánh lên đa số có nguyên uỷ từ ĐMMĐN (76,7%). Nhánh lên cho trung bình 4,1 nhánh để nuôi các cơ vùng
đùi trước. Trung bình cho 2,8 mạch xuyên da, không cho mạch xuyên da nào (11,7%), nhánh lên cho 2 – 3
mạch xuyên da là đa số (41,7%). Có 73 nhánh xuống thì có 75,34% nhánh xuống có nguyên uỷ từ ĐM MĐN,
8,22% nhánh xuống từ ĐM đùi và 16,44% nhánh xuống từ động mạch đùi sâu (ĐM ĐS). Trung bình mỗi nhánh
xuống cho 8,9 ± 0,2 nhánh cơ và trung bình có 3,1 ± 0,3 nhánh xuyên trên 01 tiêu bản đùi. Số nhánh nuôi cơ
rộng ngoài là nhiều nhất 7,9 ± 0,4 nhánh. Kết luận: Nghiên cứu giải phẫu phân nhánh động mạch mũ đùi
ngoài làm tiền đề xây dựng vạt phức hợp đùi trước ngoài với thành phần cân cơ căng mạc đùi hay với
thành phần phần cơ rộng ngoài có ý nghĩa trong việc tạo ra vật liệu tạo hình linh hoạt có giá trị ứng dụng
trong lâm sàng.
Từ khoá: động mạch mũ đùi ngoài,
Abstract
To investigate branched anatomical features of the lateral femoral
circumflex artery used in the construction of the composite
anterolateral thigh (ALT) flap
Le Hong Phuc1, Tran Thiet Son2, Tran Dang Khoa3
(1) Dept. of Surgery, Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Hanoi Medical Univerity;
Xanhpon Hospital, Hanoi
(3) Dept. of Anatomy, Pham Ngoc Thach Medical Univeristy
Introduction: The research of the lateral femoral circumflex artery has been studied and applied in many
clinical fields. Objectives: To investigate branched anatomical features of the lateral femoral circumflex artery
used in the construction of the composite anterolateral thigh (ALT) flap. Patients and research methods: 60
thigh areas of 30 Vietnamese adult cadavers meeting the research standards were conducted cross-sectional
descriptive analysis. Result: lateral femoral circumflex artery usually has three branches that are ascending
branch, oblique branch and descending branch. Descending branch usually separated independently (11.7%),
oblique branch and ascending branch often have common body (83.3%). The majority of ascending branches
have origin from lateral femoral circumflex (76.7%). Ascending branche has average of 4.1 branches to supply
the anterior thigh muscles. Ascending branches has 2-3 cutaneous perforators were the majority (41.7%).
There are 73 descending branch, 75.34% descending branch from the original branch of the lateral femoral
circumflex artery, 8.22% lateral femoral circumflex artery from femoral artery and 16.44% descending branch
from deep femoral artery. Averaging descending branch has 8.9 ± 0.2 branches to muscles of anteriolateral
thigh area and on average had 3.1 ± 0.3 perforators per thigh specimen. The number of branches to lateralis
Địa chỉ liên hệ: Lê Hồng Phúc, email: lhphuc@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 23/6/2020; Ngày đồng ý đăng: 2/8/2020
DOI: 10.34071/jmp.2020.4.12
90
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
muscles was at most 7.9 ± 0.4 branhes. Conclusion: Anatomical research of the lateral femoral circumflex
artery branching as a premise to build a composite ALT flaps with lateralis component or with TFL makes
sense in the creation of workhorse materials in clinical application.
Keywords: lateral femoral circumflex artery
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu giải phẫu Động mạch mũ đùi ngoài
(ĐMMĐN) và giải phẫu mạch máu ứng dụng từ
ĐMMĐN đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên
cứu rất đa dạng trên các cộng đồng người khác
nhau như: Chen, Choi, Tansatit trên người châu Á
[1],[2],[3], Üzel, Yu trên người châu Âu [4],[5].
Trên người Việt, chúng tôi thấy có một số nghiên
cứu như: nghiên cứu về giải phẫu ứng dụng ĐMMĐN
của Trần Đăng Khoa [6], nghiên cứu ứng dụng vạt
đùi trước ngoài (ĐTN) trong điều trị khuyết rộng
phần mềm vùng cổ mặt của Nguyễn Thị Kiều Thơ
[7], đặc điểm giải phẫu ứng dụng của vạt ĐTN của
Phạm Thị Việt Dung [8] và gần đây là Dương Mạnh
Chiến [9] nghiên cứu nhánh xuống từ ĐMMĐN.
Tuy nhiên, trong kết quả nghiên cứu của các tác
giả còn có sự khác biệt, đặc biệt là xây dựng các
yếu tố liên quan phân nhánh, liên quan nhánh cơ
và nhánh xuyên da của các nhánh bên để xây dựng
vạt phức hợp trên lâm sàng nhằm phục vụ cho phẫu
thuật tạo hình một thì cho các tổn khuyết phức tạp
chưa đề cập đến nhiều trong các nghiên cứu. Vì
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giải phẫu phân
nhánh ĐMMĐN ứng dụng xây dựng vạt phức hợp
ĐTN trên 60 tiêu bản xác với mục đích để so sánh với
các kết quả mà các tác giả trong, ngoài nước đã công
bố và góp phần xây dựng vạt phức hợp từ vùng ĐTN.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu giải phẫu được thực hiện trên 60
tiêu bản ở 30 xác người Việt trưởng thành. Mỗi
tiêu bản được bảo quản bằng formol 10% tại Bộ
môn Giải phẫu Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc
Thạch, thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian: từ 2015
đến 2015.
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
Xác người Việt trên 18 tuổi.
Có thời gian ngâm trong dung dịch formol 10%
trong 3 năm đầu tiên
Vùng đùi còn nguyên vẹn.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
Bất thường do bẩm sinh hoặc bệnh lý (u bướu,
u mạch máu,)
Đã thực hiện các phẫu thuật vùng đùi (nối
mạch, ghép mạch, tạo shunt,...) làm thay đổi hoặc
biến dạng cấu trúc giải phẫu của hệ mạch máu từ
động mạch đùi, động mạch đùi sâu, động mạch mũ
đùi ngoài.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu là nghiên cứu mô tả cắt
ngang trên xác phẫu tích để thu thập các chỉ số định
lượng và định tính như sau:
- Nhánh bên ĐMMĐN: số lượng nhánh bên,
nguyên ủy, đường kính ngoài của mạch tại nguyên
uỷ, chiều dài mạch.
- Phân nhánh, nhánh xuyên từ các nhánh: số
lượng, nguyên uỷ, đường kính ngoài tại nguyên uỷ
của các nhánh xuyên, chiều dài các nhánh xuyên, vị
trí, hướng nhánh xuyên ra da, loại nhánh xuyên.
- Nhánh nuôi cơ (không phải nhánh xuyên): số
lượng, nguyên uỷ, đường kính ngoài tại nguyên uỷ,
chiều dài, cấp máu cho cơ.
- Liên quan giữa nhánh xuyên và nhánh bên cơ,
cân để làm cơ sở xây dựng vạt phức hợp.
Dụng cụ thu thập số liệu
Cách thức phẫu tích và thu thập số liệu:
- Bộc lộ các nhánh bên ĐMMĐN theo tác giả Wei
F.C [10]
+ Dùng dao rạch da dọc theo bờ trong cơ may từ
gai chậu trước trên đến bờ trong xương bánh chè,
đường rạch này phân chia đùi thành hai phần: vùng
đùi trước ngoài và vùng đùi trước trong (Hình 1).
Hình 1. Đường rạch da dọc theo bờ trong cơ may
vùng trước trong đùi
(Tiêu bản xác số 20, chân phải)
+ Bóc tách qua từng lớp da, dưới da, cân, cơ để
vào tam giác đùi, tìm động mạch đùi, động mạch
đùi sâu, thần kinh đùi. Lần theo đường đi của động
mạch đùi và đùi sâu tìm động mạch mũ đùi ngoài từ
đó xác định nhánh xuống ĐMMĐN.
+ Bộc lộ các nhánh bên từ ĐMMĐN: bóc tách dọc
theo đường đi của các nhánh bên để tìm các mạch
xuyên ra da, các mạch nuôi cơ thẳng đùi, cơ rộng
91
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
ngoài (không phải mạch xuyên), cơ căng cân đùi,
nhánh nuôi cân để xác định làm cơ sở phối hợp trên
cùng cuống mạch xây dựng vạt phức hợp.
+ Dùng xanh methylene và thước dây vẽ một
đoạn thẳng từ gai chậu trước trên đến điểm giữa bờ
ngoài xương bánh chè (gọi là “đường chuẩn”).
+ Xây dựng hệ trục tọa độ OXY trên bề mặt da
vùng đùi trước ngoài với gốc tọa độ O tại gai chậu
trước trên. Trục Y là trục chứa đoạn thẳng nối từ
gai chậu trước trên đến điểm giữa bờ ngoài xương
bánh chè, hướng dương của trục Y hướng xuống
bàn chân. Trục X vẽ vuông góc với trục Y tại gai chậu
trước trên, hướng dương của trục X hướng ra ngoài.
+ Lấy điểm giữa đường chuẩn làm tâm vẽ một
vòng tròn có bán kính là 3cm.
+ Tiếp theo, tại vị trí mạch xuyên vào da, dùng
kim đâm theo hướng vào da của mạch xuyên để xác
định vị trí của mạch xuyên trên mặt ngoài của da.
Xác định tọa độ vị trí kim đâm ra da trên hệ trục Oxy.
- Chỉ số định tính:
+ Nguyên ủy, đường đi, liên quan của các nhánh
ĐMMĐN.
+ Nguyên ủy, đường đi, phân nhánh cơ, da các
nhánh ĐMMĐN.
+ Loại mạch xuyên ra da từ các nhánh ĐMMĐN.
+ Vị trí các mạch xuyên ra da từ các nhánh
ĐMMĐN, các nhánh vào cơ so với nhánh xuyên da.
+ Đường kính ngoài các loại mạch: ép dẹp thành
các động mạch tại nguyên ủy, dùng thước kẹp đo
khoảng cách hai bên thành mạch rồi tính đường
kính ngoài của mạch theo công thức: Đường kính
mạch máu = 2 x khoảng cách/π.
+ Số lượng phân nhánh vào các cơ vùng đùi
trước ngoài từ các nhánh động mạch mũ đùi ngoài.
Số lượng nhánh trung bình, liên quan giữa nhánh
xuyên da và nhánh bên cơ làm cơ sở xây dựng vạt
phức hợp.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm phân nhánh ĐMMĐN
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 60 tiêu bản đùi
trên 30 xác chúng tôi ghi nhận, nguyên ủy ĐMMĐN
trong nghiên cứu của chúng tôi đa số tách từ mặt
ngoài động mạch đùi sâu (ĐMĐS) (85%), còn lại
tách từ động mạch đùi (ĐMĐ) (15%), hoặc từ mặt
sau ĐMĐS (1,7%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về nguyên ủy ĐMMĐN giữa chân phải và
chân trái p > 0,05.
Thân chính ĐMMĐN hiện diện trong 76,7%
trường hợp, xuất phát cách nguyên uỷ ĐMMĐN
khoảng 21,1 ± 15,1 mm, đường kính tại nguyên
uỷ ĐMMĐN trung bình 4,1 ± 0,9 mm. Chúng tôi
nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về các kích thước này ở chân phải và trái với
giá trị p > 0,05.
Về phân nhánh ĐMMĐN trong nghiên cứu
chúng tôi nhận thấy, ĐMMĐN thường có ba
nhánh lên, ngang và nhánh xuống. Nhánh xuống
thường tách độc lập (16,7%), nhánh ngang và
nhánh lên thường có thân chung (83,3%). Không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguồn gốc
các phân nhánh ĐMMĐN giữa hai chân phải và
trái với giá trị p > 0,05.
Các nhánh của ĐMMĐN đều có đường kính
tại nguyên uỷ lớn hơn 2mm, đường kính nguyên
uỷ nhánh xuống là lớn nhất 2,9 ± 0,3 mm, đường
kính nguyên uỷ nhánh lên trung bình 2,6 ± 0,6 mm;
đường kính nguyên uỷ nhánh ngang trung bình 2,0
± 0,3mm.
3.2. Đặc điểm giải phẫu các nhánh bên ĐMMĐN
3.2.1. Đặc điểm giải phẫu nhánh lên
Nhánh lên đa số có nguyên uỷ từ ĐMMĐN
(76,7%), hoặc từ ĐMĐS (21,7%), rất ít khi bắt nguồn
từ ĐMĐ (1,6%). Chúng tôi nhận thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguyên uỷ nhánh
lên giữa hai chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
Nhánh lên có thể cho thêm một phân nhánh
ngang (81,7%) hoặc không có phân nhánh nào
(18,3%).
Đường kính nhánh lên tại nguyên uỷ trung bình
là 2,6 ± 0,6mm, chiều dài nhánh lên trung bình 95,9
± 2,7mm. Ở mỗi chân, nhánh lên cho trung bình 4,1
nhánh để nuôi các cơ vùng đùi trước (1 – 11 nhánh).
Trung bình cho 2,8 mạch xuyên da, có thể không
cho mạch xuyên da nào (11,7%), có thể cho tối đa 8
mạch xuyên, trong đó đa số là cho 2 – 3 mạch xuyên
da (41,7%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về số lượng mạch xuyên nuôi cơ của nhánh lên ở
chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
3.2.2. Đặc điểm giải phẫu nhánh ngang động
mạch mũ đùi ngoài
Chúng tôi chỉ ghi nhận là nhánh ngang khi nhánh
này tách chung gốc với nhánh lên và nhánh xuống
(xem hình 3.4). Nhánh ngang của ĐMMĐN gặp trong
6 tiêu bản (10%), còn lại 54 tiêu bản (90%) không
tồn tại nhánh ngang. Do số lượng nhánh ngang quá
ít, không đảm bảo cho việc khảo sát các đặc tính
thống kê nên chúng tôi chỉ mô tả một số đặc điểm
của nhánh này.
3.2.3. Đặc điểm chung của nhánh xuống ĐM-
MĐN
Trong 60 tiêu bản đùi thì có 73 nhánh xuống (47
tiêu bản đùi có 1 nhánh xuống và 13 tiêu bản đùi có
2 nhánh xuống). Trong số 73 nhánh xuống thì có 55
nhánh xuống có nguyên uỷ từ ĐM MĐN, 6 nhánh
xuống từ ĐM đùi và 12 nhánh xuống từ ĐM ĐS.
92
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Đường kính tại nguyên uỷ nhánh trung bình là
2,9 ± 0,1mm. xuống ngoài có đường kính trung có
đường kính trung bình là 2,5 ± của nhánh xuống
trong trường hợp có một Với trường hợp có 2
nhánh xuống thì nhánh bình là 2,9 ± 0,3mm và
nhánh xuống trong 0,2 mm.
Chiều dài của nhánh xuống được tính từ nguyên
uỷ cho tới vị trí nhánh xuống thông nối tận với
nhánh động mạch gối trên ngoài của động mạch đùi
và nối vào vòng nối động mạch trên khớp gối. Chiều
dài nhánh xuống ngoài trung bình là 262,7 ± 4,3 mm,
chiều dài nhánh xuống trong trung bình là 196,9 ±
17,5 mm.
3.3. Đặc điểm các mạch xuyên da từ các nhánh
lên và nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài
Qua kết quả, do số lượng nhánh ngang và
số lượng mạch xuyên ra da từ nhánh ngang rất ít
(3/405 mạch xuyên) nên chúng tôi chỉ tiến hành
khảo sát chi tiết các mạch xuyên từ nhánh lên và
nhánh xuống của ĐMMĐN.
3.3.1. Mạch xuyên da từ nhánh lên
Tổng số lượng mạch xuyên ra da của nhánh lên
là 176 nhánh, chiếm 43,5% trong tổng số 405 mạch
xuyên ra da của động mạch mũ đùi ngoài.
Mạch xuyên da của nhánh lên có đường kính tại
nguyên uỷ trung bình 0,98 ± 0,5mm, đường kính vào
da trung bình 0,91 ± 0,5mm, chiều dài mạch xuyên
trung bình 27,1 ± 15,7mm. Không có sự khác biệt có
ý nghĩa thống kê về các kích thước này ở hai chân
phải và trái với giá trị p > 0,05.
Khi khảo sát về loại mạch xuyên ra da của nhánh
lên, chúng tôi ghi nhận chiếm tỷ lệ ưu thế là loại mạch
xuyên cơ ra da (nhánh xuyên loại M) (bảng 1).
Bảng 1. Loại mạch xuyên da của nhánh lên (n = 176)
Loại mạch
xuyên
Đùi trái Đùi phải Chung
Loại M 78(86,7%)
77
(89,5%)
155
(88,1%)
Loại S 0(0%)
0
(0%)
0
(0%)
Loại D 12(13,3%)
9
(10,5%)
21
(11,9%)
Phép kiểm
χ2
0,362
Tổng 90(100%)
88
(100%)
176
(100%)
Nhận xét: Mạch xuyên da loại M chiếm đa số
(88,1%), mạch xuyên loại D chiếm tỷ lệ thấp (11,9%),
không có mạch xuyên loại S. Không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về các loại nhánh xuyên giữa hai
chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
Bảng 2. Phân lớp đường kính của mạch xuyên da của nhánh lên
Phân lớp đường kính
Đường kính nguyên uỷ Đường kính vào da
Đùi trái Đùi phải Chung Đùi trái Đùi phải Chung
< 0,5 mm
21
(23,3%)
16
(18,6%)
37
(21%)
23
(25,6%)
19
(22,1%)
42
(23,9%)
0,5 – 1 mm
45
(50%)
47
(54,7%)
92
(52,3%)
45
(50%)
48
(55,8%)
93
(52,8%)
> 1 mm
24
(26,7%)
23
(26,7%)
47
(26,7%)
22
(24,4%)
19
(22,1%)
41
(23,3%)
Phép kiểm χ2 0,723 0,738
Tổng
90
(100%)
86
(100%)
176
(100%)
90
(100%)
86
(100%)
176
(100%)
Nhận xét: Đường kính mạch xuyên da của nhánh lên tại nguyên uỷ đa số lớn hơn 0,5 mm (79%). Đường kính
mạch xuyên da của nhánh lên tại vị trí ra da đa số lớn hơn 0,5 mm (76,1%). Không có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê về các phân lớp đường kính này ở hai chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
3.3.2. Đặc điểm phân nhánh của nhánh xuống ĐMMĐN
3.3.2.1. Đặc điểm nhánh bên của nhánh xuống
Nhánh bên của nhánh xuống được chia làm 2 loại là nhánh xuyên (xuyên cơ, xuyên vách) để ra da, cấp
máu cho da và nhánh bên cơ (đi vào cơ, cấp máu cho cơ và không xuyên ra da).
- Số lượng nhánh bên trung bình của nhánh xuống: Tổng số nhánh bên của 73 nhánh xuống là 880 trong
đó có 654 nhánh cơ và 226 mạch xuyên. Trung bình mỗi nhánh xuống cho 12,1 ± 0,2 nhánh, trong đó có 8,9
± 0,2 nhánh cơ và 3,1 ± 0,3 nhánh xuyên.
- Mối tương quan giữa nhánh xuyên da và nhánh bên cơ.
93
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Bảng 4. Mối tương quan giữa nhánh xuyên da và nhánh bên cơ (n=73)
Nhánh bên cơ
Nhánh xuyên da
Từ 0 - 5 Từ 6 - 10 Từ 11 - 15 > 15 Tổng
0 3 2 0 1 6
1 4 4 2 0 10
2 1 10 4 2 17
3 2 10 2 1 15
4 1 5 0 1 7
5 6 0 0 2 8
6 0 4 0 1 5
7 0 2 0 0 2
8 0 0 0 2 2
9 0 0 1 0 1
Tổng 17 37 9 10 73
Nhận xét: Trong 73 nhánh xuống, mỗi nhánh xuống cho từ 0 đến 9 nhánh xuyên da và có thể từ 0 đến trên
15 nhánh bên cơ. Trong đó, số nhánh xuống cho 2 nhánh xuyên da là nhiều nhất (17 nhánh xuống), số nhánh
xuống cho từ 6 đến 10 nhánh bên cơ là nhiều nhất (37 nhánh xuống).
3.3.2.2. Nhánh bên nuôi cơ
Số lượng nhánh bên nuôi cơ của nhánh xuống cho từng loại cơ.
Bảng 5. Số lượng nhánh bên cơ cho từng loại cơ
Cơ
Số lượng nhánh
Cơ thẳng đùi Cơ rộng trong Cơ rộng giữa Cơ rộng ngoài
0 4 39 18 0
1 18 13 22 0
2 21 7 12 1
3 12 1 4 3
4 4 0 2 5
5 0 0 2 4
6 0 0 0 9
7 1 0 0 8
8 0 0 0 6
9 1 0 0 7
10 0 0 0 6
11 0 0 0 1
12 0 0 0 4
13 0 0 0 2
14 0 0 0 2
15 0 0 0 1
16 0 0 0 1
Số nhánh TB 2,0 ± 0,1 0,5 ± 0,1 1,3 ± 0,2 7,9 ± 0,4
Nhận xét: Số lượng nhánh nuôi cơ rộng ngoài nhiều nhất với trung bình 7,9 ± 0,4 nhánh cho 01 cơ, trong
đó nhiều nhất là 16 nhánh. Trung bình có 2,0 ± 0,1 nhánh cho cơ thẳng đùi, 0,5 ± 0,1 cho cơ rộng trong và 1,3
± 0,2 nhánh cho cơ rộng giữa.
94
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
3.3.2.3. Đặc điểm nhánh xuyên từ nhánh xuống
- Số lượng nhánh xuyên trung bình trên một nhánh xuống
Trong 60 tiêu bản đùi có tổng số 226 nhánh xuyên từ nhánh xuống, trung bình có 3,7 ± 0,3 nhánh xuyên
trên 01 tiêu bản đùi. Tiêu bản có nhiều nhánh xuyên nhất là 11. 30 tiêu bản đùi bên phải có 109 nhánh xuyên,
trung bình là 3,6 ± 0,4 nhánh xuyên trên 01 tiêu bản. 30 tiêu bản đùi trái có 117 nhánh xuyên, trung bình là
3,9 ± 0,4 nhánh xuyên trên 01 tiêu bản. Sự khác biệt giữa 2 đùi phải và trái không có ý nghĩa thống kê. Nếu
xét số lượng nhánh xuyên trung bình trên một nhánh xuống (73 nhánh xuống) thì có 3,1 ± 0,3 nhánh xuyên.
Có 6 nhánh xuống không cho nhánh xuyên nào, trong đó 5 nhánh xuống là nhánh xuống trong (trong trường
hợp có 2 nhánh xuống). Nhánh xuống cho nhiều nhánh xuyên nhất là 9.
- Phân bố số lượng từng loại nhánh xuyên cho một nhánh xuống
Bảng 5. Bảng phân bố số lượng từng loại nhánh xuyên của một nhánh xuống (n=73 nhánh xuống)
Số nhánh xuyên/1 nhánh xuống 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Tổng
Loại
nhánh
xuyên
M 0 10 29 30 19 34 25 12 16 8 183
S 0 0 5 13 8 5 3 0 0 1 35
D 0 0 0 2 1 1 2 2 0 0 8
Số nhánh xuống 6 10 17 15 7 8 5 2 2 1
226
73
Nhận xét: Theo bảng trên ta thấy với 73 nhánh xuống có 226 nhánh xuyên, trong 226 nhánh xuyên thì có
183 nhánh xuyên loại M, 35 loại S và 8 loại D. Có 17 nhánh xuống cho 2 nhánh xuyên, trong 34 nhánh xuyên
này thì loại M có 29 và loại S có 5. Có 6 nhánh xuống không cho nhánh xuyên nào.
- Đường kính của mạch xuyên
Bảng 6. Phân lớp đường kính mạch xuyên da của nhánh xuống
Phân lớp đường kính
Đường kính nguyên uỷ Đường kính vào da
Đùi trái Đùi phải Chung Đùi trái Đùi phải Chung
< 0,5 mm 28(23,9%)
23
(21,1%)
51
(22,6%)
30
(25,6%)
27
(24,8%)
57
(25,2%)
0,5 – 1 mm 53(45,3%)
40
(36,7%)
93
(41,2%)
55
(47%)
43
(39,4%)
98
(43,4%)
> 1 mm 36(30,8%)
46
(42,2%)
82
(35,3%)
32
(27,4%)
39
(35,8%)
71
(31,4%)
Phép kiểm χ2 0,197 0,361
Tổng 117(100%)
109
(100%)
226
(100%)
117
(100%)
109
(100%)
226
(100%)
Nhận xét: Đường kính mạch xuyên da của nhánh xuống tại nguyên uỷ đa số lớn hơn 0,5 mm (76,5%).
Đường kính nhánh xuyên da của nhánh xuống khi vào da đa số lớn hơn 0,5mm (74,8%). Không có sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê về các phân lớp đường kính này ở hai chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
4 BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm phân nhánh và hình thái mạch
máu để xây dựng vạt phức hợp
Thân chính ĐMMĐN hiện diện trong 76,7%
trường hợp, thường xuất phát cách nguyên uỷ
ĐMĐS khoảng 21,1 ± 15,1 mm, đường kính tại
nguyên uỷ ĐMMĐN trung bình 4,1 ± 0,9 mm. Chúng
tôi nhận thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê về các kích thước này ở chân phải và trái với giá
trị p > 0,05.
Trong nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có 23,3%
trường hợp vùng đùi có hai nhánh xuống.
Theo đó, ĐMMĐN thường có ba nhánh đó là
nhánh lên, nhánh ngang và nhánh xuống. Nhánh
xuống thường tách độc lập (11,7%), nhánh ngang và
nhánh lên thường có thân chung (83,3%). Không có
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguồn gốc các
phân nhánh ĐMMĐN giữa hai chân phải và trái với
giá trị p > 0,05.
Các nhánh của ĐMMĐN đều có đường kính tại
nguyên uỷ lớn hơn 2 mm, đường kính nguyên uỷ
nhánh xuống là lớn nhất, đường kính nguyên uỷ
nhánh lên trung bình 2,6 ± 0,6 mm; đường kính
nguyên uỷ nhánh ngang trung bình 2,0 ± 0,3 mm.
95
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về đường
kính nguyên uỷ các nhánh ĐMMĐN giữa hai chân
phải và trái với giá trị p > 0,05.
So sánh với nghiên cứu của Ngô Thái Hưng [11]
trên 40 tiêu bản và nghiên cứu Wong [12] là kết quả
tương tự: dạng 1, mạch máu của vạt phát từ nhánh
xuống của ĐM mũ đùi ngoài ở 26/40 tiêu bản (65%);
dạng 2, mạch máu của vạt xuất phát từ nhánh chếch
của ĐM mũ đùi ngoài ở 9/40 tiêu bản (22,5%); dạng
3, mạch máu của vạt xuất phát từ nhánh ngang
của ĐM mũ đùi ngoài ở 2/40 tiêu bản (5%); dạng 4,
mạch máu của vạt xuất phát từ ĐM đùi sâu ở 2/40
tiêu bản (5%); dạng 5, mạch máu của vạt xuất phát
từ ĐM đùi chung ở 1/40 tiêu bản (2,5%).
4.1.1. Đặc điểm giải phẫu nhánh lên
Nhánh lên đa số có nguyên uỷ từ ĐMMĐN
(76,7%), hoặc từ ĐMĐS (21,7%), rất ít khi bắt nguồn
từ ĐMĐ (1,7%). Chúng tôi nhận thấy không có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê về nguyên uỷ nhánh
lên giữa hai chân phải và trái với giá trị p > 0,05.
Nhánh lên có thể cho thêm một phân nhánh
ngang (81,7%) hoặc không có phân nhánh nào
(18,3%).
Trong nghiên cứu này, qua 60 mẫu đùi khảo sát
chúng tôi nhận thấy trung bình mỗi chân có 4,1
nhánh vào nuôi các cơ rộng ngoài, cơ rộng giữa,
cơ rộng trong. Nhánh lên cho trung bình 2,8 mạch
xuyên ra da, có thể không cho mạch xuyên nào
ra da nhưng cũng có thể cho một số lượng mạch
xuyên rất lớn là 8 nhánh. Tỷ lệ số nhánh nuôi cơ của
nhánh lên động mạch mũ đùi ngoài của chúng tôi
như vậy là khá tương đồng so với kết quả của tác
giả, Choi S.W. [3] (trung bình 4,2 nhánh/đùi), Kimata
[13] (2,31 nhánh/đùi), Kawai [14] (trung bình 4,26
nhánh/đùi). Điều này cho thấy rằng nếu khi phẫu
tích vạt đùi trước ngoài mà không tìm thấy mạch
xuyên của nhánh xuống thì có thể dời vị trí bóc vạt
lên cao hơn về phía gai chậu thì có thể gặp mạch
xuyên của nhánh lên dễ dàng. Hoặc cũng có thể khi
cần che phủ một tổn thương quá lớn thì có thể kết
hợp cả vạt đùi trước ngoài và vạt cơ căng mạc đùi
do nhánh lên và nhánh xuống cấp máu, khi đó ta sẽ
có một vạt rời có một diện tích đáng kể phục vụ cho
yêu cầu của lâm sàng đây là một dạng vạt phức hợp
kiểu kết hợp. Trong nghiên cứu của chúng tôi đường
kính ngoài của nhánh lên trung bình là 2,6mm, phù
hợp với kết quả của nhánh này trong nghiên cứu của
Tansatit T. là 2,4 mm [3] và trong nghiên cứu của
Choi S.W. là 2,6 mm [2].
Theo y văn kinh điển thì nhánh xuống và nhánh
lên là hai nhánh có đường kính lớn so với các nhánh
ngang. Như vậy có thể nói kết quả các nghiên cứu
trên và của chúng tôi là tương đồng với các tài liệu y
văn kinh điển. Do đó, trong ứng dụng lâm sàng đây
là vạt có cuống mạch tương đối lớn thuận tiện trong
nối ghép miệng nối và có thể sử dụng xây dựng vạt
phức hợp trong lâm sàng mặc dù nhánh bên cơ và
nhánh xuyên tương đối ít. Do đó, nghiên cứu xây
dựng vạt phức hợp từ nhánh xuống ĐM- MĐN là rất
cần thiết; cần phân tích và đánh giá kỹ lưỡng đặc
điểm giải phẫu, phân nhánh và khả năng ứng dụng
lâm sàng.
4.1.2. Đặc điểm giải phẫu nhánh xuống động
mạch mũ đùi ngoài
Nghiên cứu của chúng tôi, với 60 tiêu bản đùi trên
30 xác thì có 73 nhánh xuống. Trong 73 nhánh xuống
có 55 nhánh xuống có nguyên uỷ từ ĐM MĐN chiếm
75,3%, 12 nhánh xuống từ ĐM ĐS chiếm 16,5% và 6
nhánh xuống từ ĐM đùi chiếm 8,2%. Một số nghiên
cứu của các tác giả nước ngoài và trong nước cũng
cho kết quả tương tự [4],[6],[10],[12],[13]. Các
nghiên cứu đều chỉ ra rằng nguyên uỷ của nhánh
xuống chủ yếu là từ ĐM- MĐN, một số trường hợp
biến đổi giải phẫu nhánh xuống có thể tách trực tiếp
từ ĐM đùi sâu hoặc ĐM đùi.
Trong 60 tiêu bản đùi thì 47 tiêu bản có 1 nhánh
xuống (chiếm 78,3%) còn lại 13 tiêu bản đùi có 2
nhánh xuống là nhánh xuống ngoài và nhánh xuống
trong (chiếm 21,7%). Một số tác giả [6],[15-17],
không gọi là nhánh xuống ngoài và nhánh xuống
trong mà tác giả gọi là nhánh xuống (descending
branch) và nhánh chếch (oblique branch). Theo
Wong C.H. [12] nghiên cứu trên 88 tiêu bản thì có
31 trường hợp có nhánh chếch (35%). Kết quả này
cũng tuơng tự như kết quả của chúng tôi và của
Antonionio C.C. và cs [19] nghiên cứu trên 40 tiêu
bản đùi ở 25 người trưởng thành thì 8 tiêu bản có
nhánh chếch (32%).
Đường kính tại nguyên uỷ của nhánh xuống
trong trường hợp có một nhánh trung bình là 2,9
± 0,1 mm. Với trường hợp có 2 nhánh xuống thì
nhánh xuống ngoài có đường kính trung bình là 2,9
± 0,3 mm và nhánh xuống trong có đường kính trung
bình là 2,5 ± 0.2 mm. Kết quả này cũng tương đồng
với một số tác giả như, Sung W.C. [15] (2,9mm),
Tansatit T. [3] (3,4 mm), Trần Quốc Hoà [19] (2,08
mm). Đường kính tại nguyên uỷ của nhánh xuống
theo đa số tác giả đều lớn (từ 2 đến 3,5 mm) do đó
hoàn toàn có thể nối mạch bằng kỹ thuật vi phẫu.
Đây là một đặc điểm thuận lợi của cuống vạt đùi
trước ngoài.
Chúng tôi xác định chiều dài của nhánh xuống
được tính từ nguyên uỷ nhánh xuống đến vị trí
nhánh xuống nối tận với động mạch gối trên ngoài
của động mạch đùi và nối vào vòng nối động mạch
trên khớp gối. Chiều dài nhánh xuống ngoài trung
96
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
bình là 262,7 ± 4,3 mm, chiều dài nhánh xuống
trong trung bình là 196,9 ± 17,5 mm. Do cách xác
định chiều dài nhánh xuống có khác nhau giữa các
tác giả nên kết quả thu được cũng có sự khác biệt.
Theo Sung W.C. [15] chiều dài nhánh xuống được
tính từ nguyên uỷ nhánh xuống cho đến chỗ vào da
của mạch xuyên gần nhất và có kết quả lần lượt là
là 83,3 ± 10,5 mm và 120,1 ± 10,5 mm. Kết quả này
thấp hơn so với kết quả của chúng tôi, là do cách xác
định chiều dài nhánh xuống khác nhau nên kết quả
khác nhau. Hay như Kimata Y [13] và Trần Quốc Hoà
[19] xác định chiều dài nhánh xuống từ nguyên uỷ
đến chỗ vào da của nhánh xuyên xa nhất. Với cách
xác định này thì kết quả của các tác giả tương ứng là
200 mm và 141,0 ± 18,5 mm.
4.2. Đặc điểm các mạch xuyên da từ các nhánh
lên và nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài
Do số lượng nhánh ngang và số lượng mạch
xuyên ra da từ nhánh ngang rất ít (3/405 mạch
xuyên) nên chúng tôi chỉ tiến hành khảo sát chi tiết
các mạch xuyên từ nhánh lên và nhánh xuống của
ĐMMĐN để xây dựng vạt phức hợp trên lâm sàng.
4.2.1. Mạch xuyên da từ nhánh lên
Tổng số lượng mạch xuyên ra da của nhánh lên
là 176 nhánh, chiếm 43,5% trong tổng số 405 mạch
xuyên ra da của động mạch mũ đùi ngoài.
Mạch xuyên da của nhánh lên có đường kính tại
nguyên uỷ trung bình 0,98 ± 0,5 mm, đường kính
vào da trung bình 0,91 ± 0,5 mm, chiều dài mạch
xuyên trung bình 27,1 ± 15,7 mm. Khi khảo sát về
loại mạch xuyên ra da của nhánh lên, chúng tôi ghi
nhận chiếm tỷ lệ ưu thế là loại mạch xuyên cơ ra da
(nhánh xuyên loại M). Các mạch xuyên da từ nhánh
lên đa số có đường kính tại nguyên uỷ và đường kính
vào da lớn hơn 0,5 mm.
Mạch xuyên da loại M chiếm đa số (88,1%), mạch
xuyên loại D chiếm tỷ lệ thấp (11,9%), không có mạch
xuyên loại S.
Đường kính mạch xuyên da của nhánh lên tại
nguyên uỷ đa số lớn hơn 0,5 mm (79%). Đường kính
mạch xuyên da của nhánh lên tại vị trí ra da đa số
lớn hơn 0,5mm (76,1%).
4.2.2. Đặc điểm phân nhánh của nhánh xuống
- Đặc điểm nhánh bên của nhánh xuống:
Nhánh bên của nhánh xuống được chia làm 2
loại là nhánh xuyên (xuyên cơ, xuyên vách) để ra da,
cấp máu cho da và nhánh bên cơ (đi vào cơ, cấp
máu cho cơ và không xuyên ra da).
- Số lượng nhánh bên trung bình của một nhánh
xuống:
Trong 60 tiêu bản đùi thì có 73 nhánh xuống (47
tiêu bản đùi có 1 nhánh xuống và 13 tiêu bản đùi
có 2 nhánh xuống). Tổng số nhánh bên của nhánh
xuống là 880 trong đó có 654 nhánh cơ và 226 mạch
xuyên. Trung bình mỗi nhánh xuống cho 12,1 ± 0,2
nhánh, trong đó có 8,9 ± 0,2 nhánh cơ và 3,1 ± 0,3
nhánh xuyên.
- Mối tương quan giữa nhánh xuyên da và nhánh
bên cơ trên một nhánh xuống:
Trong 73 nhánh xuống, mỗi nhánh xuống cho
từ 0 đến 9 nhánh xuyên da và có thể từ 0 đến trên
15 nhánh bên cơ. Trong đó, số nhánh xuống cho 2
nhánh xuyên da là nhiều nhất (17 nhánh xuống), số
nhánh xuống cho từ 6 đến 10 nhánh bên cơ là nhiều
nhất (37 nhánh xuống). Như vậy, số lượng nhánh
xuyên da và xuyên cơ là khá lớn thuận lợi cho chọn
lựa xây dựng vạt phức hợp trên lâm sàng.
- Nhánh bên nuôi cơ:
Số lượng nhánh bên nuôi cơ của nhánh xuống
cho từng loại cơ được thể hiện trong (Bảng 3.7)
với số lượng cho từng loại cơ khác nhau. Trong đó,
cho thấy số lượng nhánh nuôi cơ rộng ngoài nhiều
nhất với trung bình 7,9±0,4 nhánh cho 01 cơ, trong
đó nhiều nhất là 16 nhánh. Trung bình có 2,0±0,1
nhánh cho cơ thẳng đùi, 0,5±0,1 cho cơ rộng trong
và 1,3 ± 0,2 nhánh cho cơ rộng giữa.
Theo nhiều tài liệu tham khảo được [9], [17],
[19], [20] chúng tôi nhận thấy rằng các tác giả không
mô tả đặc điểm phân nhánh cho cơ của động mạch
mũ đùi ngoài. Tuy nhiên trên thực hành lâm sàng,
việc nắm vững được đặc điểm giải phẫu các nhánh
nuôi cơ quan trọng, đặc biệt trong các trường hợp
sử dụng vạt đùi trước ngoài dưới dạng phức hợp
bao gồm cả da và cơ. Có thể sử dụng vạt đùi trước
ngoài phức hợp với thành phần cơ dạng khối hay
dạng chùm, trong đó có một vạt cơ được cấp máu
bởi các nhánh nhỏ nuôi cơ để tạo hình độn hoặc tạo
hình cơ chức năng như tác giả Wong C.H [12]. Khi
một vạt đùi trước ngoài dạng da cơ được sử dụng
thì cơ kèm theo nên lấy là cơ rộng ngoài do số nhánh
nuôi cơ rộng ngoài là nhiều nhất; đây cũng là lý do
trên lầm sàng nhiều tác giả nước ngoài đã sử dụng
dạng vạt phức hợp này trong tạo hình độn không
gian 3 chiều [16],[21]. Do vạt có sức sống cao nhất
với lượng cơ lấy được nhiều nhất, hạn chế thương
tổn thần kinh đùi. Đối với cơ thẳng đùi, quan trọng
chức năng duỗi gối, trong nghiên cứu cho thấy
nhánh bên cơ ít so sánh với nhánh xuyên da nên
cần hạn chế lấy cơ thẳng đùi; đối với cơ rộng trong
hay rộng giữa do số lượng nhánh nuôi các cơ này ít
và những hạn chế trong phẫu tích nên ít được ứng
dụng trong lâm sàng.
- Đặc điểm nhánh xuyên từ nhánh xuống:
Số lượng nhánh xuyên trung bình trên một
nhánh xuống: Trong 60 tiêu bản đùi có tổng số 226
nhánh xuyên từ nhánh xuống, trung bình có 3,1 ±
97
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
0,3 nhánh xuyên trên 01 tiêu bản đùi. Tiêu bản có
nhiều nhánh xuyên nhất là 11. 30 tiêu bản đùi bên
phải có 109 nhánh xuyên, trung bình là 3,6 ± 0,4
nhánh xuyên trên 01 tiêu bản. 30 tiêu bản đùi trái
có 117 nhánh xuyên, trung bình là 3,9 ± 0,4 nhánh
xuyên trên 01 tiêu bản.
Kết quả này cũng tương đồng so với một số tác
giả khác như Kimata [13] báo cáo trung bình có 2,3
nhánh xuyên xuất phát từ nhánh xuống, Kawai [14]
là 3,8 hay Tansatit T [3] là 2,2. Như vậy theo hầu hết
các tác giả trong và ngoài nước thì luôn có từ 2-4
mạch xuyên tách ra từ nhánh xuống trên một đùi.
Kết quả này rất quan trọng trên thực tế lâm sàng.
Thứ nhất luôn luôn có mạch xuyên đến vạt đùi trước
ngoài. Các trường hợp trên lâm sàng phẫu tích vạt
đùi trước ngoài mà không thấy mạch xuyên thường
là do ta đã làm tổn thương mạch, thường là những
mạch có kích thước nhỏ, dễ bị co thắt khi có các đụng
chạm, sang chấn. Thứ hai, hầu hết các trường hợp
ta có thể sử dụng vạt đùi trước ngoài phức hợp với
thành phần cơ, cân căng mạc đùi với nhánh bên độc
lập (dạng chùm). Đặc biệt khi tạo hình khuyết hổng
nhiều bình diện, thuận lợi trong lấp đầy khoảng chết
cũng như dựng hình và tạo hình gân cơ. Như vậy, khi
phẫu tích vạ trên lâm sàng nhánh da là nhánh ưu
tiên chọn lựa để thiết kế vạt, căn cứ vào bình diện,
tính chất của khuyết hổng sâu trong tạo hình 3 chiều
để chọn lựa nhánh bên cơ rộng ngoài phù hợp hoặc
nhánh xuyên/nhánh bên cân để làm mạch nuôi cho
vạt cân để tạo hình khuyết hổng gân.
Khi khảo sát về loại mạch xuyên da của nhánh
xuống, chúng tôi ghi nhận chiếm tỷ lệ ưu thế là loại
mạch xuyên cơ da (nhánh xuyên loại M) với 81%, loại
S và loại D chiếm tỷ lệ thấp (19%). Kết quả này cũng
tương tự so với một số tác giả khác [22],[23],[24]
và cũng tương đồng trên nghiên cứu lâm sàng của
chúng tôi với 37 vạt đùi trước ngoài có 80 mạch
xuyên, trong đó mạch xuyên cơ chiếm 82,5%, còn
mạch xuyên cân chiếm 17,5%. Như vậy theo hầu hết
các nghiên cứu thì mạch xuyên cơ chiếm đa số. Điều
này rất thuận lợi cho các nhà lâm sàng nếu muốn
sử dụng vạt đùi trước ngoài dạng phức hợp cơ da,
hoặc vạt dạng chùm khi lấy cơ kèm theo vạt. Tuy
nhiên khi muốn sử dụng vạt dạng da mỡ hoặc da cân
(không sử dụng cơ) thì cần phẫu tích mạch xuyên
qua lớp cơ sẽ gây kéo dài thời gian phẫu thuật và
tăng nguy cơ tổn thương mạch xuyên hơn.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì đường kính
trung bình của mạch xuyên tại nguyên uỷ là 1,1 ±
0,03 mm, đa số lớn hơn 0,5 mm (76,5%). Đường
kính trung bình của mạch xuyên tại vị trí vào da là
1,0 ± 0,04 mm đa số lớn hơn 0,5 mm (74,8%). So với
kết quả khảo sát trên 160 mạch xuyên của 38 vùng
đùi của tác giả Sung W.C. [15] trên người Hàn Quốc,
đường kính trung bình của mạch xuyên là 0,9 mm, tỷ
lệ mạch xuyên có đường kính lớn hơn 0,5 mm chiếm
68,1%. Yu P. [21] nghiên cứu trên người phương Tây
với 72 vạt đùi trước ngoài, với hệ thống mạch xuyên
ABC của ông, thì có 64,3% trường hợp có đường
kính mạch xuyên lớn hơn 0,5 mm. Trong nối mạch
bằng kỹ thuật vi phẫu đường kính mạch càng nhỏ
càng cần có kỹ thuật tốt và dụng cụ vi phẫu tốt. Với
những mạch máu có đường kính < 0,5 mm (siêu vi
phẫu), phẫu thuật viên cần được đào tạo đặc biệt và
sử dụng các dụng cụ vi phẫu chuyên dụng. Theo hầu
hết các nghiên cứu thì đường kính mạch xuyên tại
nguyên ủy có tỉ lệ > 0,5 mm là rất cao.
Trong trường hợp không cần lấy cuống dài, thì
có thể sử dụng mạch xuyên để làm cuống. Nếu chia
đường chuẩn đùi (là đường nối từ gai chậu trước
trên đến bờ ngoài xương bánh chè) là 8 khoảng thì
khi khảo sát về vị trí mạch xuyên ra da chúng tôi
nhận thấy rằng với 226 mạch xuyên từ nhánh xuống
ĐM MĐN trong nghiên cứu thì các mạch xuyên ra
da tập trung chủ yếu ở khoảng 5 và khoảng 6 xung
quanh đường chuẩn. Kết quả này có sự khác biệt so
với các tác giả khác. Tác giả Luo S [25] khi nghiên cứu
các mạch xuyên tập trung trong vòng tròn có bán
kính 3 cm, có tâm là trung điểm của đường chuẩn
thì nhận thấy rằng có đến 90% mạch xuyên ra da tập
trung trong vòng tròn này và trong đó có đến 78%
mạch xuyên nằm ở 1/4 dưới ngoài của vòng tròn. Sự
khác biệt này có thể lý giải do các tác giả khảo sát vị
trí ra da của các mạch xuyên của cả hệ mạch mũ đùi
ngoài. Kết quả này cũng gợi ý cho các nhà lâm sàng
là nếu muốn sử dụng vạt đùi trước ngoài dựa trên
nhánh xuống động mạch mũ đùi ngoài thì nên thiết
kế vạt xuống thấp hơn so với điểm giữa của đường
chuẩn để xác suất mạch xuyên đi vào vạt là cao nhất.
Trong lâm sàng nên sử dụng thêm các phương tiện
hỗ trợ để tăng độ chính xác và linh hoạt hơn trong
thiết kế và ứng dụng.
5. KẾT LUẬN
ĐMMĐN thường có ba nhánh đó là nhánh
lên, nhánh ngang và nhánh xuống. Nhánh xuống
thường tách độc lập (11,7%), nhánh ngang và
nhánh lên thường có thân chung (83,3%). Do số
lượng nhánh ngang quá ít 6/60 (10%), không đảm
bảo cho việc khảo sát các đặc tính thống kê nên
chúng tôi chỉ mô tả một số đặc điểm của nhánh này
trong phần kết quả không đủ để kết luận. Nhánh
lên đa số có nguyên uỷ từ ĐMMĐN (76,7%), đường
kính nhánh lên tại nguyên uỷ trung bình là 2,6 ± 0,6
mm, chiều dài nhánh lên trung bình 95,9 ± 2,7 mm.
Nhánh lên cho trung bình 4,1 nhánh để nuôi các
98
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
cơ vùng đùi trước. Trung bình cho 2,8 mạch xuyên
da . Có 75,34% nhánh xuống (trong 73 nhánh) xuất
phát từ ĐMMĐN. Đường kính tại nguyên ủy lớn hơn
2,5 mm, trung bình mỗi nhánh xuống cho 8,9 ± 0,2
nhánh cơ và trung bình có 3,1 ± 0,3 nhánh xuyên
trên 01 tiêu bản đùi. Trong đó, số nhánh nuôi cơ
rộng ngoài là nhiều nhất 7,9 ± 0,4 nhánh.
Nhánh lên và nhánh xuống đều có thể xây dựng
trở thành vạt phức với thành phần vạt da và nhánh
bên cơ hoặc cân căng đùi. Trong đó, nhánh xuống
có nhiều ưu thế có nhiều mạch xuyên và nhánh bên
thuận lợi trong việc xây dựng vạt phức hợp hơn. Đây
là căn cứ quan trọng để xây dựng vạt ĐTN phức hợp
trên lâm sàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chen Z., Zhang C., Lao J., et al (2007), An
anterolateral thigh flap based on the superior cutaneous
perforator artery: an anatomic and case reports,
Microsurgery, 27, pp. 160-165.
2. Choi S. W., Park J. Y., Hur M. S., et al (2007),
“An anatomic Assessmant on Perforators of the Lateral
Circumflex Femoral Artery for Anterolateral Thigh Flap”, J
craniofac Surg, 18 (4), 866-71.
3. Tansatit T, Wanidchaphloi S and Sanguansit P
(2008). The Anatomy of the Lateral Circumflex Femoral
Artery in Anterolateral Thigh Flap. J Med Assoc Thai, 91(9),
1404-1408.
4. Üzel M., Tanyeli E., Yildirim M. (2008), “An anatomical
study of the origins of the lateral circumflex femoral artery in the
Turkish population”, Folia Morphol, 67(4), 226-230.
5. Yu P. R. (2004), “Characteristics of the
anterolateral thigh flap in a western population and its
application in head and neck reconstruction”, Head and
neck surg, 759-69.
6. Trần Đăng Khoa, Trần Thiết Sơn, Phạm Đăng
Diệu et al (2010). Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu ứng
dụng động mạch mũ đùi ngoài trên người Việt Nam. Tạp
trí Y học TP Hồ chí Minh, 14(2), 163-173.
7. Nguyễn Thị Kiều Thơ (2015). Sử dụng vạt đùi
trước ngoài trong tạo hình vùng mũi mặt., Luận án tiến sĩ,
Đại học Y Dược Hồ Chí Minh.
8. Phạm Thị Việt Dung (2008). Đánh giá kết quả sử
dụng vạt đùi trước ngoài, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội
trú, Đại học Y Hà Nội.
9. Wei F.C, Jain V, Celik N et al (2002). Have We
Found an Ideal Soft-Tissue Flap? An Experience with
672 Anterolateral Thigh Flaps. Plastic and reconstructive
surgery, 109(7), 2219-2226.
10. Dương Mạnh Chiến (2018), “Nghiên cứu đặc
điểm giải phẫu và ứng dụng lâm sàng của vạt đùi trước
ngoài dạng chùm”, Luận Án Tiến Sĩ, Đại học Y Hà nội.
11. Ngô Thái Hưng (2015). Nghiên cứu giải phẫu và
ứng dụng vạt đùi trước ngoài trong điều trị khuyết hổng
vùng cẳng - bàn chân, Luận án tiến sĩ y học, Viện nghiên
cứu khoa học y dược lâm sàng 108.
12. Wong C.H, Wei F.C, Fu B et al (2009). Alternative
vascular pedicle of the anterolateral thigh flap: the
oblique branch of the lateral circumflex femoral artery.
Plast Reconstr Surg., 123(2), 571-577.
13. Kimata Y, Uchiyama K, Ebihara S et al (1998).
Anatomic Variations and Technical Problems of the
Anterolateral Thigh Flap: A Report of 74 Cases. Plastic and
reconstructive surgery, 102(5), 1517-1523.
14. Kawai K, Imanishi N, Nakajima H et al (2004).
Vascular Anatomy of Anterolateral Thigh Flap. Plastic &
Reconstructive Surgery, 114(5), 1109-1117.
15. Sung W.C, Joo Y.P, Mi S.H et al (2007). An
Anatomic Assessment on Perforators of the Lateral
Circumflex Femoral Artery for Anterolateral Thigh Flap.
The Journal of craniofacial Surgery, 18(4), 866-871.
16. Trần Đăng Khoa (2013). Nghiên cứu giải phẫu
ứng dụng động mạch mũ đùi ngoài trên người Việt trưởng
thành, Luận án tiến sỹ, Học viện quân y.
17. Gedebou TM, F C Wei, C H Lin et al (2002).
Clinical Experience of 1284 Free Anterolateral Thigh Flaps.
Handchir Mikrochir Plast chir. 34(4), 239-44.
18. Antonio C.C and Carmen L.P.L (2009). Oblique
branch of the lateral circumflex femoral artery also
found in 32 percent of cadavers in Brazil. Plastic and
reconstructive surgery, 124(3), 1011-1012.
19. Trần Quốc Hoà (2009). Nghiên cứu giải phẫu
mạch máu của vạt đùi trước ngoài., Luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
20. Zhou G, Qiao Q, Chen G et al (1991). Clinical
experience and surgical anatomy of 32 free anterolateral
thigh flap transplantations. Br J Plast Surg, 44(2), 91-96.
21. Yu P (2004). Characteristics of the anterolateral
thigh flap in a western popylation and its application in
head and neck reconstruction. Head & Neck Surg, 26(9),
759-769.
22. Xu D. C., Zhong S. Z., Kong J. M., et al (1988),
“Applied anatomy of the anterolateral femoral flap”, Plast
Reconstr Surg, 82(2), pp. 305-310.
23. Dixit D.P, Kothari M.L and Mehta L.A (2001).
Variations in the origin and course of profunda femoris. J
Anal Soc India, 50(1), 6-7.
24. Hallock G.G (2006). Further Clarification of
the Nomenclature for Compound Flaps. Plastic and
reconstructive surgery, 117(7), 151-160.
25. Luo S, Raffoul W, Piaget F et al (2000). Anterolateral
Thigh Fasciocutaneous Flap in the Difficult Perineogenital
Reconstruction. Plastic and reconstructive surgery, 105(1),
171-173.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_giai_phau_phan_nhanh_dong_mach_mu_dui_ng.pdf