Gadolinium
Theo y văn và một số nghiên cứu, hầu hết
các trường hợp u bắt thuốc mạnh, không đồng
nhất(1,5,6). Chúng tôi nhận thấy 36,2% (21) trường
hợp UBDTK VIII bắt thuốc mạnh, đồng nhất sau
tiêm Gadolinium. 63,8% (37) trường hợp còn lại
u bắt thuốc mạnh, không đồng nhất do có thoái
hoá nang bên trong u. Theo nghiên cứu của Ewa
Izycka thì tỉ lệ này là 73,5%.
Theo y văn, hầu hết UMN đều có tính chất
bắt thuốc mạnh, đồng nhất vì sự hóa nang rất
hiếm khi xảy ra. Ngoài ra, tiêm thuốc còn giúp
phát hiện các UMN có kích thước nhỏ khác (1,5,11).
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả 100% các
trường hợp UMN đều bắt thuốc mạnh, đồng
nhất sau tiêm thuốc. Theo Ewa Izycka 95,8%
UMN bắt thuốc mạnh, đồng nhất(4).
Tính bắt thuốc của màng cứng xung quanh
UMN và dấu hiệu “đuôi màng cứng” sau
tiêm thuốc
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau khi
tiêm thuốc tương phản từ, không có trường hợp
UBDTK VIII nào xuất hiện các dấu hiệu bắt
thuốc bất thường của màng não các vùng kế cận
khối u và dấu hiệu “đuôi màng cứng”. Nghiên
cứu của tác giả Ewa Izycka và Susanne M.
Hampton cũng ghi nhận tương tự (4).
Ngược lại, 14 trường UMN đều quan sát
thấy bắt thuốc của màng cứng xung quanh
UMN và dấu hiệu “đuôi màng cứng” sau tiêm
thuốc. Tác giả Ewa Izycka cũng ghi nhận kết quả
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi (4).
Như vậy, có thể xem tính chất màng cứng
xung quanh u không bắt thuốc và không có dấu
hiệu “đuôi màng cứng” cũng là một đặc điểm
hình ảnh quan trọng giúp phân biệt UBDTK VIII
với UMN ở vị trí bể GCTN.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 28/01/2022 | Lượt xem: 150 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của u bao dây thần kinh VIII và u màng não vùng góc cầu - tiểu não, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên Đề Ngoại Khoa 1
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CỦA U BAO
DÂY THẦN KINH VIII VÀ U MÀNG NÃO VÙNG GÓC CẦU - TIỂU NÃO
Phạm Ngọc Hoa*, Nguyễn Thị Thanh Thiên**
TÓM TẮT
Mở đầu: Các thương tổn ở góc cầu - tiểu não (GCTN) chiếm khoảng 10% các tổn thương trong sọ. Trong
đó, u bao dây thần kinh VIII (UBDTK VIII) thường gặp nhất (70 - 80%), đứng vị trí thứ hai là u màng não
(UMN) chiếm 5 - 12%.
Mục tiêu: Xác định đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ của UBDTK VIII và UMN vùng GCTN.
Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành hồi cứu và mô tả tất cả các trường hợp được phẫu thuật với
chẩn đoán UBDTK VIII hoặc UMN vùng GCTN tại khoa Ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy từ 01/01/2004
đến 30/06/2007.
Kết quả: Có 58 trường hợp UBDTK VIII và 14 trường hợp UMN vùng bể GCTN. Giảm thính lực là triệu
chứng thường gặp nhất của UBDTK VIII (93,1%). UBDTK VIII thường có dạng hình cầu (89,7%), UMN
thường có dạng bán cầu (71,4%). Kích thước trung bình của 2 loại u khoảng 3 - 3,5 cm. Về tín hiệu, UBDTK
VIII thường cho tín hiệu thấp trên chuỗi xung T1W (87,9%), tín hiệu cao trên chuỗi xung T2W (100%). 63,8%
UBDTK VIII có tín hiệu không đồng nhất do có thoái hóa nang bên trong. Hầu hết UMN có tín hiệu đồng nhất,
đồng tín hiệu với nhu mô não trên chuỗi xung T1W và có tín hiệu cao trên T2W (100%). 89,7% UBDTK VIII
hướng theo trục của OTT và 82,8% làm rộng OTT. Sau tiêm thuốc, đa số UBDTK VIII bắt thuốc mạnh, không
đồng nhất (63,8%) do có thoái hóa nang bên trong. 100% UMN bắt thuốc mạnh, đồng nhất, kèm bắt thuốc của
màng cứng kế cận và cho dấu “đuôi màng cứng”.
Kết luận: UBDTK VIII thường có biểu hiện giảm thính lực. Chúng ta có thể chẩn đoán xác định và chẩn
đoán phân biệt UBDTK VIII với UMN nhờ những đặc điểm hình ảnh trên phim CHT.
ABSTRACT
STUDYING IMAGE FEATURES OF ACOUSTIC NEUROMA AND MENINGIOMA
BY MAGNETIC RESONANCE IMAGING
Pham Ngoc Hoa, Nguyen Thi Thanh Thien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 252 – 258
Background: The lesions of cerebellopontine angle area account about 10% of lesions in the cranial. Acoustic
neuroma is the most common cause with incidence 70 – 80%, and meningioma is the second (5 – 12%).
Objectives: We define image features of acoustic neuroma and meningioma by magnetic resonance imaging.
Method: We retrospectively describe all of postoperative cases with diagnosis acoustic neuroma and
meningioma at Department of surgical neurology in Cho Ray hospital between 01/01/2004 and 30/6/2007.
Results: A total of 58 acoustic neuroma cases and 14 meningioma cases are described. Reduced ability of
hearing is the most popular clinical manifestation of acoustic neuroma. Acoustic neuroma usually has sphere
shape and 71.4% meningioma cases present with semisphere shape. Mean size of these tumors is about 3 – 3.5cm.
With acoustic neuroma, we record low signal intensity on T1W and high signal intensity on T2W. 63.8% a
coustic neuroma cases have no identical signal intensity due to degenegration inside the tumor. Almost
meningioma cases have identical signal intensity on T1W and high signal intensty on T2W. After injecting
* Bộ môn Chẩn đoán Hình ảnh - Đại học Y Dược TP.HCM
Chuyên Đề Ngoại Khoa 2
Gadolinum, acoustic neuroma heterogenerous enhancement. 100% meningioma enhances homogenerous with
“dural tail” sign.
Conclusions: Acoustic neuroma usually presents as reduced ability of hearing. We can diagnose acoustic
and differentiate acoustic neuroma from meningioma by image features on magnetic resonance imaging.
Các thương tổn ở GCTN chiếm khoảng 10%
các tổn thương trong sọ, có thể xuất phát tại chổ
hay từ các cấu trúc lân cận. U vùng GCTN có thể
từ OTT, bể cầu - tiểu não, ngách bên của não thất
IV, xương thái dương, thân não hay tiểu não.
Trong đó, UBDTK VIII thường gặp nhất (70 -
80%). Đứng vị trí thứ hai là UMN (5 - 12%)(1,5).
Ngày nay, cộng hưởng từ (CHT) được sử
dụng rộng rãi như một phương tiện hình ảnh
hữu hiệu để chẩn đoán u GCTN. Phim CHT
cung cấp những thông tin hình ảnh cơ bản và
quan trọng như xác định có khối choán chỗ
vùng GCTN, u nằm trong trục hay ngoài trục,
liên quan giữa u với OTT, thân não và bán cầu
tiểu não. Trên phim CHT, loại u thường gặp là
UBDTK VIII cho một số hình ảnh khá đặc trưng
giúp xác định chẩn đoán và quyết định phương
pháp điều trị. Tuy nhiên, với một số trường hợp
không điển hình có thể gây khó khăn cho việc
chẩn đoán, và có thể chẩn đoán lầm với một loại
u khác là UMN tại vùng này. Bên cạnh đó, vì lý
do kinh tế, không phải trường hợp nào nhập
viện cũng được chỉ định chụp CHT nên việc xem
xét và cân nhắc một số triệu chứng lâm sàng gợi
ý UBDTK VIII rất có ý nghĩa trong việc quyết
định có nên chỉ định chụp phim CHT cho bệnh
nhân hay không.
Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện nghiên
cứu này với các mục tiêu sau:
1. Khảo sát một số dấu hiệu lâm sàng của
UBDTK VIII và UMN vùng GCTN.
2. Khảo sát một số đặc điểm hình ảnh của
UBDTK VIII trên phim CHT.
3. Khảo sát một số đặc điểm hình ảnh của
UMN vùng GCTN trên phim CHT.
4. Xác định một số dấu hiệu lâm sàng và
hình ảnh CHT đặc trưng giúp phân biệt hai loại
u trên.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi đưa vào mẫu nghiên cứu tất cả
các trường hợp được phẫu thuật với chẩn đoán
UBDTK VIII hoặc UMN vùng GCTN tại khoa
Ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy từ
01/01/2004 đến 30/06/2007.
Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu theo
phương pháp hồi cứu và mô tả cắt ngang.
Trong mỗi nhóm UBDTK VIII và UMN,
chúng tôi thu thập và phân tích các biến số: dịch
tễ học, các đặc điểm lâm sàng, các đặc điểm hình
ảnh trên phim CHT (vị trí, đặc điểm u ngoài
trục, hình dạng, kích thước, giới hạn, đường bờ,
tín hiệu của u trên các chuỗi xung, tính đồng
nhất, sự tạo nang trong u, tính chất bắt thuốc của
u sau tiêm thuốc tương phản từ, dấu hiệu chèn
ép cơ quan lân cận), các dấu hiệu đặc trưng cho
từng loại u trên phim CHT (sự tạo góc của u với
mặt sau xương đá, u có thành phần nằm trong
OTT theo đường đi của dây thần kinh VII, VIII,
dấu “đuôi màng cứng”).
Số liệu được xử lí bằng phần mềm SPSS 13.0.
Kết quả được thống kê mô tả với các biến định
lượng được thể hiện bằng trung bình, giá trị tối
thiểu và tối đa. Các biến định tính được thể hiện
bằng tần suất (%), tần số (tỉ lệ). Ngoài ra, hệ
thống bảng và biểu đồ cũng được sử dụng để
mô tả số liệu nghiên cứu.
KẾT QUẢ
Từ 01/01/2004 đến 30/06/2007, có 58 trường
hợp UBDTK VIII và 14 trường hợp UMN vùng
bể GCTN thỏa các tiêu chuẩn để đưa vào mẫu
nghiên cứu.
Tuổi và giới
Bảng 1: Đặc điểm tuổi và giới
UBDTK VIII(N = 58) UMN (N = 14)
Chuyên Đề Ngoại Khoa 3
Tuổi 43,43 ± 14,45 (14 - 75) 52,79 ± 10,03
(37 - 75)
Giới 81% nữ, 19% nam 85,7% nữ, 14,3% nam
Biểu hiện lâm sàng
22,4%
44,8%
89,7%
93,11%
21,4%
35,7%
100%
14,3%
0
20
40
60
80
100
120
Thính giaùc Taêng ALNS HCTN Ñau daây V
UBDTK VIII
UMN
Biểu đồ 1: Biểu hiện lâm sàng.
Đặc điểm hình ảnh trên phim CHT
Vị trí u
Tỉ lệ phân bố của u giữa hai bên Phải và Trái
xấp xỉ 1:1.
Kích thước khối u
Bảng 2: Đường kính (cm) khối u (UBDTK VII –
UMN)
Nhỏ
nhất
Lớn nhất Trung bình
Trước sau 1,5 1,5 6 6,2 3,4 ± 1,1 3,6 ± 1,4
Ngang 1,3 1 6,2 4,5 3,4 ± 1,1 3,0 ± 1,1
Cao 1 1,1 5,5 4,5 3,5 ± 1,1 3,3 ± 0,9
Hình dạng khối u
12,1%
87,9%
28,6%
71,4%
0
20
40
60
80
100
Hình (baùn) caàu Hình daïng khaùc
UBDTK VIII
UMN
Biểu đồ 2: Hình dạng u.
Như vậy, phần lớn UBDTK VIII có dạng
hình cầu (87,9%) và UMN có hình dạng hình
bán cầu (71,4%).
Đường bờ
82,8% UBDTK VIII có bờ dạng phân thùy.
100% UMN có giới hạn rõ, đường bờ không
phân thùy.
Tín hiệu u trên chuổi xung T1W và T2W
trước khi tiêm chất tương phản từ
0%
87,9%
0%
12,1%
0%
100%
0
20
40
60
80
100
120
T1W T2W
Thaáp
Ñoàng
Taêng
Biểu đồ 3: Tín hiệu UBDTK VIII trên các chuỗi
xung T1W và T2W.
Kết quả cho thấy UBDTK VIII thường có tín
hiệu thấp trên T1W, tăng tín hiệu trên T2W.
Tương tự, UMN cũng có tín hiệu thấp trên T1W
và tăng trên T2W.
Tín hiệu u trên chuổi xung T1W và T2W
sau khi tiêm chất tương phản từ
Bảng 3: Tính chất bắt thuốc của UBDTK VIII
UBDTK VIII UMN
Mạnh, đồng nhất. 79,3% 100%
Mạnh, không đồng nhất 20,7% 0%
Sau tiêm thuốc, tất cả 58 trường hợp u đều
bắt thuốc mạnh trên chuỗi xung T1W. Những
khối u có hoá nang bên trong thì bắt thuốc mạnh
không đồng nhất vì thành phần mô đặc bắt
thuốc mạnh, còn thành phần nang thì bắt thuốc
dạng viền. 100% UMN bắt thuốc mạnh, đồng
nhất sau tiêm chất tương phản từ với dấu “đuôi
màng cứng” điển hình.
Góc tạo bởi khối u và mặt sau xương đá
14,3%
85,7%
96,6%
3,4%
0
20
40
60
80
100
UMN UBDTK VIII
Goùc nhoïn
Goùc tuø
Biểu đồ 4: Góc tạo bởi khối u và mặt sau xương đá.
Như vậy, UBDTK VIII thường tạo với mặt
sau xương đá một góc nhọn, UMN tạo một góc
tù với mặt sau xương đá.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 4
Tính đồng nhất về tín hiệu của u
36,2%
63,8%
100%
0%
0
20
40
60
80
100
UBDTK VIII UMN
Ñoàng nhaát
Khoâng ñoàng nhaát
Biểu đồ 5: Tính đồng nhất về tín hiệu của u.
UBDTK VIII thường có tín hiệu không đồng
nhất do có thoái hóa nang bên trong, UMN có
tín hiệu đồng nhất trên phim CHT.
U hướng theo trục của OTT
0%
89,7% 100%
10,3%
0
20
40
60
80
100
120
UBDTK VIII UMN
Theo truïc
Khoâng theo truïc
Biểu đồ 6: U hướng theo trục của OTT.
Phần lớn UBDTK VIII hướng theo trục của
OTT.
U làm rộng OTT
8 2 ,8 %
17 , 2 %
0 %
10 0 %
0
20
40
60
80
100
UBDTK VIII UMN
Laøm roäng
Khoâng laøm roäng
Biểu đồ 7: U làm rộng OTT.
UBDTK VIII thường làm rộng OTT (82,8%).
U chèn ép các cơ quan lân cận
89,7%
42,9%
94,8%
85,7%
69%
57,1%
53,5%
28,6%
0
20
40
60
80
100
BCTN Caàu naõo Naõo thaát IV Giaõn naõo thaát treân leàu
UBDTK VIII
UMN
Biểu đồ 8: U chèn ép những cấu trúc lân cận.
Như vậy, UBDTK VIII và UMN có kích
thước tương đối lớn có thể gây chèn ép vào các
cơ quan lân cận như bán cầu tiểu não (BCTN)
cùng bên, cầu não, não thất (NT) IV và gây giãn
não thất trên lều.
U có dạng hình “que kem” điển hình của
UBDTK VIII
81,04%
18,96% Coù
Khoâng
Biểu đồ 9: U có dạng “que kem” điển hình.
Có 47 (81,04%) trường hợp u có dạng hình
“que kem” điển hình với phần “ kem” thường
có dạng hình cầu nằm trong bể GCTN và phần “
que” nằm trong OTT.
Dấu “đuôi màng cứng”
100% UMN có dấu “đuôi màng cứng” điển
hình sau khi tiêm Gadolinium. UBDTK VIII
không có dấu hiệu này.
BÀN LUẬN
Tuổi và giới
Bệnh nhân UBDTK VIII có tuổi nhỏ nhất là
14, lớn nhất là 75, tuổi trung bình là 43. Đối với
UMN là 17 – 75 tuổi, trung bình là 53 tuổi. Theo
Ewa Izycka, tác giả ghi nhận độ tuổi có thể gặp
UBDTK VIII và UMN là 14 - 77 tuổi.
Theo các tác giả Prakash Sampath và Elliot
FA thì tỉ lệ nam: nữ là như nhau. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ này xấp xỉ
1: 4. Trong nghiên cứu của tác giả Ewa Izycka
Chuyên Đề Ngoại Khoa 5
gồm 77 trường hợp UBDTK VIII có tỉ lệ nam: nữ
là 1: 2,3 (3,4,11).
Biểu hiện lâm sàng
Kết quả cho thấy 93,11% (54) bệnh nhân
UBDTK VIII khi nhập viện phẫu thuật đều có
các triệu chứng thính giác. Theo y văn, điếc hay
mất thính lực là triệu chứng thường gặp nhất
(1,11). Theo các nghiên cứu của các tác giả Susanne
M. Hampton và Ewa Izycka, số trường hợp có
triệu chứng điếc tai trước khi phẫu thuật là
86,6% và 90,9% (4). Triệu chứng thính giác rất ít
gặp ở những bệnh nhân UMN (14,3%).
Nghiên cứu cho thấy 89,7% bệnh nhân
UBDTK VIII và 100% bệnh nhân UMN đều có
các triệu chứng liên quan đến tình trạng tăng
ALNS như nhức đầu, nôn ói
44,8% bệnh nhân UBDTK VIII và 35,7% bệnh
nhân UMN có hội chứng tiểu não như cảm giác
chóng mặt, dáng đi thất điều
Các triệu chứng liên quan đến chức năng của
hai dây thần kinh V và VII như liệt mặt, đau nửa
mặt cùng bên chiếm tỉ lệ nhỏ 22,4% và 13,8%.
Kết quả này phù hợp với nhận định của các tác
giả: tuy UBDTK VIII chèn ép dây VII sớm nhưng
lại ít gây triệu chứng lâm sàng, nếu có xuất hiện
triệu chứng này thì đã ở giai đoạn muộn (8).
Vị trí khối u
Có 27 trường hợp u nằm ở vùng GCTN bên
trái chiếm tỉ lệ 46,6%, còn lại 31 trường hợp u
nằm bên phải chiếm tỉ lệ 53,4%. Các tác giả
Susanne M. Hampton và Ewa Izycka cũng
không nhận thấy có sự khác biệt về phân bố u ở
hai bên phải và trái (4).
Kích thước khối u
Nghiên cứu cho thấy u có kích thước 3 chiều
tương đối bằng nhau và đa số các trường hợp
bệnh nhân được phát hiện trước phẫu thuật khi
khối u có kích thước trung bình khoảng 3,4 cm.
Theo nghiên cứu của Ewa Izycka, kích thước
khối u thay đổi từ 0,5 cm - 8 cm và trung bình là
3 cm. Kích thước của u có thể thay đổi tùy theo
thời điểm phát hiện nhưng bệnh nhân thường
nhập viện khi đã xuất hiện triệu chứng lâm sàng
và kích thước u đo được trên phim CHT trung
bình khoảng 3 – 5 cm (4).
Hình dạng phần khối u nằm trong bể
GCTN
Kết quả nghiên cứu cho thấy có 51 trường
hợp UBDTK VIII nằm choán chỗ trong bể GCTN
và có dạng hình cầu chiếm tỉ lệ 87,9%. Theo
nghiên cứu của một số tác giả cũng cho kết quả
tương tự về hình dạng của loại u này là hình cầu
nằm trong bể GCTN (10).
Chúng tôi ghi nhận có 71,4% (10) trường hợp
UMN có dạng hình bán cầu. Theo y văn, đa số
trường hợp UMN tại vùng bể GCTN có dạng
hình bán cầu, đáy rộng tựa trên màng cứng (1,5,6,7).
Giới hạn, đường bờ
100% trường hợp u có giới hạn rõ trên phim
CHT. 82,8% u có dạng bờ phân thùy. Kết quả
này phù hợp với nhận định trong y văn và
nghiên cứu của các tác giả Ewa Izycka và
Susanne M. Hampton (1,2,4,5).
100% (14) trường hợp UMN đều có giới hạn
rõ, đường bờ tương đối đều, không phân thùy.
Tác giả Ewa Izycka cũng báo cáo 100% UMN có
giới hạn rõ trên phim CHT. Như vậy, dấu hiệu
bờ dạng phân thùy có thể giúp phân biệt giữa
UBDTK VIII với UMN.
Tín hiệu u trên các chuỗi xung T1W và
T2W trước tiêm thuốc tương phản từ
Theo y văn, UBDTK VIII luôn luôn đồng tín
hiệu hoặc giảm nhẹ tín hiệu trên chuỗi xung
T1W so với cầu não và có tín hiệu cao hơn so với
dịch não tủy (1,11).
Theo nghiên cứu của chúng tôi, 87,9% các
trường hợp có tín hiệu thấp trên T1W, số còn lại
tương đối đồng tín hiệu so với cầu não và không
có trường hợp nào u có tín hiệu cao trên chỗi
xung T1W. 100% các trường hợp khối u có tín
hiệu cao trên T2W, nhưng thường rất khó xác
định rõ giới hạn khối u trên chuỗi xung này vì
dễ nhầm lẫn với DNT (có tín hiệu cao) xung
quanh u. Do đó, những khối u có kích thước
dưới 1 cm thường khó phát hiện trên chuỗi xung
T2W.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 6
Tất cả 14 trường hợp UMN đều đồng tín
hiệu với nhu mô não trên T1W và có tín hiệu cao
trên T2W. Nghiên cứu của Ewa Izycka cũng cho
kết quả tương tự.
Tính đồng nhất về tín hiệu của u trên phim
CHT
Qua nghiên cứu, có 36,2% (21) trường hợp u
có tín hiệu đồng nhất và 63,8% (37) trường hợp u
không đồng nhất về tín hiệu. Các trường hợp u
không đồng nhất này là do có sự hoá nang bên
trong khối u. Theo y văn, các tác giả cho rằng đa
số UBDTK VIII có tín hiệu không đồng nhất trên
các chuỗi xung trước tiêm thuốc (1,5,11).
100% trường hợp u có tín hiệu đồng nhất
trên phim. Không có trường hợp nào UMN có
thoái hoá nang bên trong u. Theo Ewa Izycka,
91,67 % UMN có tín hiệu đồng nhất.
Góc tạo bởi khối u và mặt sau xương đá
Qua nghiên cứu, có 96,6% UBDTK VIII tạo
với mặt sau xương đá một góc nhọn. Tác giả
Ewa Izycka ghi nhận góc tạo bởi khối u và mặt
sau xương đá thường là một góc nhọn với tỉ lệ
khoảng 98% (4).
85,7% (12) trường hợp UMN tạo một góc
tù với mặt sau xương đá, 2 trường hợp còn lại
khó xác định được góc này do khối u lớn chèn
ép và đẩy lệch các cấu trúc lân cận. Theo Ewa
Izycka, 95,8% UMN tạo với mặt sau xương đá
một góc tù (4).
Theo y văn, góc tạo bởi khối u và mặt sau
xương đá là một trong những đặc điểm hình
ảnh giúp xác định chẩn đoán khối u là UBDTK
VIII và không bị nhầm lẫn với UMN tại vị trí
bể GCTN (5).
U có hướng theo trục của ống tai trong và
làm rộng OTT
Theo Ewa Izycka có 84,4% UBDTK VIII có
thành phần nằm trong OTT và theo đường đi
của dây thần kinh VII và VIII gây rộng OTT (khi
đường kính OTT > 12 mm) (4).
Qua nghiên cứu, 89,7% (52) trường hợp
UBDTK VIII có hướng theo trục của OTT và
82,8% (48) trường hợp u gây rộng OTT.
Chúng tôi cũng ghi nhận 100% (14) trường
hợp UMN không hướng theo trục của OTT,
không có trường hợp nào cho thấy UMN làm
rộng OTT. Nghiên cứu của tác giả Ewa Izycka
cũng cho kết quả tương tự (4).
Như vậy, có thể dùng dấu hiệu hướng theo
trục của ống tai trong và làm rộng OTT để phân
biệt giữa UBDTK VIII và UMN.
U có dạng hình “que kem”
Qua nghiên cứu, 81,4% (47) trường hợp
UBDTK VIII có dạng hình “que kem” điển hình.
Theo y văn, UBDTK VIII có dạng hình “que
kem” với hình cầu là phần “kem” nằm trong bể
GCTN và phần “que” hình trụ dài là phần u
trong OTT. Một số tài liệu khác lại mô tả u giống
hình dạng “cây kèm Trumpet” (1,5,11). Theo
Susanne M.Hampton, hình ảnh “que kem” điển
hình ghi nhận ở 80% bệnh nhân UBDTK VIII.
Như vậy, có thể kết luận hình ảnh “đặc biệt” này
là một đặc điểm đặc trưng của UBDTK VIII trên
phim CHT.
U chèn ép các cơ quan lân cận
Theo y văn, u có kích thước khoảng 2 - 5
cm thường gây chèn ép BCTN cùng bên, đẩy
cầu não về phía đối diện, ép não thất IV và
trong trường hợp nặng có thể gây giãn hệ
thống não thất trên lều. U có thể thoát vị qua
chỗ khuyết (incisura) vào hố sọ giữa nhưng rất
hiếm gặp(1,9,11). Nghiên cứu của tác giả Ewa
Izycka ghi nhận 93,5% trường hợp chèn ép cầu
não và 96,1% trường hợp chèn ép bán cầu tiểu
não cùng bên.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, UBDTK
VIII cũng gây chèn ép nhiều nhất ở cầu não
(94,8%) và BCTN cùng bên (89,7%), đẩy lệch não
thất IV. U có kích thước tương đối lớn sẽ chèn ép
nặng não thất IV gây giãn hệ thống não thất bên
và não thất III. 68,96% trường hợp có hình ảnh
chèn ép não thất IV và 53,45% giãn não thất trên
lều. Không có trường hợp u có kích thước lớn
gây thoát vị qua chỗ khuyết.
Tính chất bắt thuốc của u sau tiêm
Chuyên Đề Ngoại Khoa 7
Gadolinium
Theo y văn và một số nghiên cứu, hầu hết
các trường hợp u bắt thuốc mạnh, không đồng
nhất(1,5,6). Chúng tôi nhận thấy 36,2% (21) trường
hợp UBDTK VIII bắt thuốc mạnh, đồng nhất sau
tiêm Gadolinium. 63,8% (37) trường hợp còn lại
u bắt thuốc mạnh, không đồng nhất do có thoái
hoá nang bên trong u. Theo nghiên cứu của Ewa
Izycka thì tỉ lệ này là 73,5%.
Theo y văn, hầu hết UMN đều có tính chất
bắt thuốc mạnh, đồng nhất vì sự hóa nang rất
hiếm khi xảy ra. Ngoài ra, tiêm thuốc còn giúp
phát hiện các UMN có kích thước nhỏ khác (1,5,11).
Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả 100% các
trường hợp UMN đều bắt thuốc mạnh, đồng
nhất sau tiêm thuốc. Theo Ewa Izycka 95,8%
UMN bắt thuốc mạnh, đồng nhất(4).
Tính bắt thuốc của màng cứng xung quanh
UMN và dấu hiệu “đuôi màng cứng” sau
tiêm thuốc
Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau khi
tiêm thuốc tương phản từ, không có trường hợp
UBDTK VIII nào xuất hiện các dấu hiệu bắt
thuốc bất thường của màng não các vùng kế cận
khối u và dấu hiệu “đuôi màng cứng”. Nghiên
cứu của tác giả Ewa Izycka và Susanne M.
Hampton cũng ghi nhận tương tự (4).
Ngược lại, 14 trường UMN đều quan sát
thấy bắt thuốc của màng cứng xung quanh
UMN và dấu hiệu “đuôi màng cứng” sau tiêm
thuốc. Tác giả Ewa Izycka cũng ghi nhận kết quả
tương tự như nghiên cứu của chúng tôi (4).
Như vậy, có thể xem tính chất màng cứng
xung quanh u không bắt thuốc và không có dấu
hiệu “đuôi màng cứng” cũng là một đặc điểm
hình ảnh quan trọng giúp phân biệt UBDTK VIII
với UMN ở vị trí bể GCTN.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cho thấy UBDTK VIII
thường có biểu hiện giảm thính lực. Chúng ta có
thể chẩn đoán xác định và chẩn đoán phân biệt
UBDTK VIII với UMN nhờ những đặc điểm
hình ảnh trên phim CHT.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Elliot FA, McKissock W. (1954). Acoustis neuroma: Early
diagnosis. Lancet, 21: 189 – 191.
2. Greenberg JO (1995). Acoustic Neuroma. Neuroimaging, 367-
376. MacGraw- Hill.
3. Healy DG. (2004). Clinical picture of bilateral vestibular
Schwannomas, sudden bilateral hearing loss, and aviation.
Neurology, 63: 933.
4. Kaplan RD, Coons SD et al ( 1992). MR characteristics of
meningioma. J Computed assist Tomography, 366-367.
5. Neuhaus O et al (2007). Vestibular Schwannoma. Neurology,
68: 590.
6. Ojemann RG, Montgomery W (1972). Evaluation and surgical
treatment of acoustic neuroma. NEJM, 287- 395.
7. Osborn AG. (1994). Cerebellopontine angle masses.
Diagnostic neuroradiology, 437 – 460. Mosby.
8. Sampath P (1994). Acoustic neuroma. Youman Neurological
surgery, 1147-1165. Saunders.
9. Smirniotopouslos JG (1997). Paterns of contrast enhancement
in the brain and meninges. Radiographics, 12: 125-127.
10. Swieszewska EI (2006). Cerebellopontine angle tumors:
Radiologic – pathologic correlation and diagnostic difficulties.
Folia neuropathology, 44: 274 – 281.
11. Thomasen PC (2006). Sublocalization and volumetric growth
pattern of intracanalicular vestibular schwannomas. The
laryngoscope, 116, Lippinco H Williams and Wilkins.
Chuyên Đề Ngoại Khoa 8
Chuyên Đề Ngoại Khoa 9
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_dac_diem_hinh_anh_cong_huong_tu_cua_u_bao_day_tha.pdf