Đánh giá tính an toàn của Secukinumab sau 16
tuần điều trị
Tính an toàn trên lâm sàng
Trong thời gian thực hiện nghiên cứu này, chúng
tôi chưa ghi nhận bất kì trường hợp nào có tác dụng
không mong muốn trên lâm sàng như nhiễm trùng,
các triệu chứng đường tiêu hóa (đau bụng, buồn
nôn, tiêu chảy), phản ứng tại chỗ tiêm hay dị ứng
thuốc.
Theo các nghiên cứu khác, khi sử dụng
Secukinumab, có một tỉ lệ bệnh nhân gặp tác dụng
phụ. Nghiên cứu của Dominique Baeten và cộng sự
ghi nhận tỉ lệ gặp tác dụng phụ trong thử nghiệm
MEASURE 1 là 68% và trong thử nghiệm MEASURE
2 là 61% [4]. Con số này theo ng
Pavelka và cộng sự (2017) là 45,9% [9], của Alan J
Kivitz và cộng sự (2018) là 62,1% [7]. Tuy nhiên, tỉ
lệ các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng và
gây ảnh hưởng nhiều đến bệnh nhân chỉ chiếm tỉ lệ
rất nhỏ.
Sự khác biệt giữa nghiên cứu của chúng tôi và
các nghiên cứu khác có thể được giải thích do cỡ
mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi khá nhỏ so với
các nghiên cứu khác. Nhưng nhìn chung, về mặt lâm
sàng, Secukinumab có rất ít tác dụng phụ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến bệnh nhân.
Tính an toàn trên các thông số cận lâm sàng
Khi tiến hành đánh giá tính an toàn trên thông số
chức năng thận (nồng độ Creatinine), trong nghiên
cứu của chúng tôi, không có bệnh nhân nào có tăng
nồng độ Creatinine đến mức suy thận sau 16 tuần
điều trị. Nồng độ Creatinine trước và sau điều trị 16
tuần không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p > 0,05.
Khi đánh giá tính an toàn trên sự thay đổi men
gan, theo nghiên cứu của chúng tôi, sau 16 tuần
điều trị, không có bệnh nhân nào có biểu hiện tăng
men gan.
Như vậy, khi đánh giá trên các thông số cận lâm
sàng, Secukinumab cho thấy tính an toàn khi sử
dụng trên bệnh nhân VCSDK.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 10 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả điều trị của Secukinumab trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp giai đoạn hoạt động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
83
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hiệu quả điều trị
của Secukinumab trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp giai đoạn
hoạt động
Nguyễn Mai Hà Linh, Nguyễn Hoàng Thanh Vân
Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá hiệu quả điều trị của Secukinumab
trên bệnh nhân viêm cột sống dính khớp (VCSDK) giai đoạn hoạt động. Đối tượng và phương pháp: Nghiên
cứu mô tả, so sánh, kết hợp hồi cứu và tiến cứu có can thiệp điều trị, theo dõi dọc trên những bệnh nhân
được chẩn đoán VCSDK theo tiêu chuẩn ACR-1984 sửa đổi (Tiêu chuẩn New York) điều trị nội trú hoặc ngoại
trú tại khoa Nội Tổng hợp - Nội tiết Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế và khoa Nội Thận - Cơ xương khớp
Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 5/2018 đến tháng 8/2019. Kết quả: Nghiên cứu thu nhận 38 bệnh nhân
(76,3% nam giới), tuổi trung bình 29,76 ± 9,75 tuổi, tuổi khởi phát bệnh quanh khoảng 23 tuổi, trong đó
73,7% bệnh nhân mắc bệnh ở độ tuổi dưới 30. Đa số bệnh nhân nhập viện ở mức độ đau nặng (92,1%) với
86,8% bệnh nhân có biểu hiện đau cột sống, 71,1% bệnh nhân có biểu hiện đau khớp ngoại vi, hay gặp là ở
khớp háng (44,7%). Những triệu chứng thường gặp là độ giãn cột sống thắt lưng (CSTL) khoảng 3 cm, khoảng
cách tay đất khoảng 20 cm, BASDAI: 4,15 ± 1,01 điểm, ASDAS-CRP trung bình: 3,81 ± 0,94 điểm, tăng CRP
(81,58%), tăng tốc độ lắng máu (81,6%), HLA-B27 (+) chiếm 81,25% trong số những bệnh nhân được làm xét
nghiệm này. Với những bệnh nhân được điều trị bằng Fraizeron, nhìn chung có sự thay đổi các thông số VAS
toàn trạng, VAS cột sống về đêm, VAS sưng đau khớp ngoại vi, độ giãn cột sống thắt lưng theo chỉ số Schober,
khoảng cách tay đất, BASDAI, ASDAS-CRP, tốc độ lắng máu, CRP. Sự thay đổi này theo chiều hướng tích cực
với p < 0,05. Khi đánh giá tính an toàn của Secukinumab, nghiên cứu không ghi nhận bất kì trường hợp nào
có tác dụng không mong muốn về mặt lâm sàng cũng như cận lâm sàng. Kết luận: Tính đến thời điểm tuần
16, Secukinumab cho thấy có hiệu quả trong việc cải thiện triệu chứng lâm sàng cũng như cận lâm sàng trên
các bệnh nhân VCSDK. Thuốc cũng được đánh giá là an toàn khi sử dụng trên nhóm bệnh nhân này.
Từ khóa: Viêm cột sống dính khớp, Secukinumab.
Abstract
A study of clinical, subclinical features and therapeutic efficacy of
Secukinumab in patients with active ankylosing spondylitis
Nguyen Mai Ha Linh, Nguyen Hoang Thanh Van
Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Objectives: To study clinical, subclinical features and to evaluate therapeutic efficacy of Secukinumab
in patients with active Ankylosing Spondylitis (AS). Patients and methods: Descriptive, comparative,
retrospective and prospective study, combination with treatment intervention in patients diagnosis with
AS, following to modified ACR-1984 criteria (New York criteria) who are inpatient or outpatient in the
Department of General Internal Medicine - Endocrinology of Hue University of Medicine and Pharmacy
and in the Department of Nephrology and Rheumatology of Hue Central Hospital from May 2018 to August
2019. Results: The study recruited of 38 patients, (76.3% males) with mean age of 29.76 ± 9.75 years old.
The age of onset was about 23 years old and the percentage of patients who were diagnosed AS under
30 years old was 73.7%. The majority of patients were hospitalized with severe pain (92.1%), in which
86.8% of patients sufferred from spinal pain, 71.1% of patients showed peripheral joint pain, commonly
seen in hip joints (44.7%). Other common symptoms were lumbar Schober (about 3 cm), hand to ground
distance (about 20 cm), median BASDAI score: 4.15 ± 1.01, median ASDAS-CRP: 3.81 ± 0.94, increasing CRP
(81.58%), increasing erythrocyte sedimentation rate (81.6%), the percentage of HLA-B27 (+): 81.25% (for
patients who have received this test). For patients treated with Fraizeron, in general, there were changes in
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hoàng Thanh Vân, email: nhtvan@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 5/5/2020; Ngày đồng ý đăng: 21/8/2020
DOI: 10.34071/jmp.2020.4.11
84
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
patient global assessment, noctural back pain, peripheral swelling, lumbar Schober, hand to ground distance,
BASDAI, ASDAS-CRP, erythrocyte sedimentation rate, CRP. These changes were positive with p < 0.05. When
we assessed the safety of Secukinumab, we did not record any clinical or subclinical undesirable effects.
Conclusion: At week 16, Secukinumab has been effectively shown to improve clinical symptoms as well as
subclinical symptoms in patients with AS. It is also considered safe for use in these patients.
Keywords: Ankylosing Spondylitis, Secukinumab.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
VCSDK là một bệnh khớp viêm mạn tính, thường
gặp nhất trong nhóm bệnh lý cột sống huyết thanh
âm tính. Tỉ lệ mắc bệnh trên thế giới chiếm khoảng
0,1-1% dân số (theo tùy nước). VCSDK biểu hiện
bởi viêm khớp ở cột sống, viêm khớp cùng chậu và
nhiều khớp ngoại vi khác (có thể gặp ở các khớp như
khớp háng, gối và cổ chân 2 bên). Bệnh còn có một
số biểu hiện ngoài khớp như tại da, mắt, van động
mạch chủ [13].
VCSDK thường được chẩn đoán muộn, đôi khi
dễ chẩn đoán nhầm lẫn với các bệnh lý cột sống
khác. Bệnh thường khởi phát ở nam giới trẻ tuổi,
có liên quan chặt chẽ với kháng nguyên bạch cầu
người HLA-B27 [70], thường có tính chất gia đình
[13]. Mặc dù viêm cột sống dính khớp ít gây tử vong
nhưng lại gây dính khớp, ảnh hưởng nhiều đến chức
năng vận động khớp, làm giảm khả năng lao động và
chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Về mặt điều trị, dù đã được nghiên cứu rất nhiều,
song trên thế giới cũng như ở Việt Nam, việc điều trị
VCSDK vẫn còn gặp một số khó khăn nhất định. Trong
những năm gần đây, dựa trên sự hiểu biết sâu sắc
hơn về cơ chế bệnh sinh viêm cột sống dính khớp
ở mức độ phân tử cụ thể, các nhà nghiên cứu đã
phát hiện thêm một số cytokine liên quan đến quá
trình viêm khớp, trong đó phải kể đến Interleukin
17A [48].
Sự hiểu biết trên chính là cơ sở cho sự ra đời
một loại thuốc mới: thuốc ức chế Interleukin 17A.
Tiến bộ này đã tạo ra một bước ngoặt mới trong
điều trị bệnh, mang lại nhiều hi vọng hơn cho bệnh
nhân. Trên thế giới, đã có một số nghiên cứu khẳng
định hiệu quả và tính an toàn của thuốc ức chế
Interleukin 17A.
Ở nước ta gần đây nhóm thuốc này mới được
đưa vào sử dụng và hiện vẫn chưa có nhiều nghiên
cứu về việc sử dụng thuốc ức chế Interleukin 17A
trong điều trị VCSDK, vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu các đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá hiệu quả điều
trị của Secukinumab trong điều trị bệnh VCSDK giai
đoạn hoạt động.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả, so sánh,
kết hợp hồi cứu và tiến cứu có can thiệp điều trị,
theo dõi dọc trên các bệnh nhân được chẩn đoán
VCSDK theo tiêu chuẩn ACR-1984 sửa đổi điều trị
nội trú hoặc ngoại trú tại khoa Nội Thận-Cơ xương
khớp Bệnh viện Trung ương Huế và khoa Nội Tổng
hợp-Nội tiết Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế
từ tháng 5/2018 đến tháng 8/2019.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Các bệnh nhân được đánh giá các đặc điểm lâm
sàng (vị trí đau, mức độ đau, mức độ hoạt động
bệnh, độ giãn cột sống thắt lưng, khoảng cách tay
đất), cận lâm sàng (CRP, tốc độ lắng máu, men gan,
chức năng thận) tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu
(T0). Một số bệnh nhân sẽ được điều trị chỉ với
Fraizeron (Secukinumab) 150 mg/tuần trong 5 tuần
đầu, sau đó là 150 mg mỗi 4 tuần đến tuần thứ 16.
Cuối cùng là đánh giá hiệu quả điều trị của nhóm
bệnh nhân dùng Fraizeron dựa vào các đặc điểm lâm
sàng đã nêu trên, tác dụng không mong muốn của
thuốc tại các thời điểm T1, T2, T3, T4, T8, T12, T16
và cận lâm sàng (CRP, tốc độ lắng máu tại các thời
điểm T1, T2, T3, T4, T8, T12, T16, men gan, chức
năng thận tại các thời điểm T4, T8, T12, T16).
2.3. Xử lý số liệu
Các số liệu được thu thập và xử lý bằng phần
mềm SPSS 20 và Excel 2010.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu gồm 38 bệnh nhân, trong đó có
76,3% là nam, tỉ lệ nam/nữ khoảng 3,2/1.
Các bệnh nhân có tuổi trung bình 29,76 ± 9,75
tuổi, tuổi khởi phát bệnh quanh khoảng 23 tuổi,
trong đó 73,7% bệnh nhân mắc bệnh ở độ tuổi dưới
30.
Đa số bệnh nhân nhập viện ở mức độ đau nặng
theo thang điểm đau VAS (92,1%) với BASDAI trung
bình là 4,15 ± 1,01 điểm và ASDAS-CRP trung bình là
3,81 ± 0,94 điểm.
85
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
3.1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân viêm cột sống dính khớp giai đoạn hoạt động
Biểu đồ 1. Biểu hiện đau cột sống Biểu đồ 2. Biểu hiện đau khớp ngoại vi
Nhận xét: Hầu hết các bệnh nhân có biểu hiện
đau cột sống, chiếm 86,8%.
Nhận xét: Đa số bệnh nhân có biểu hiện đau
khớp ngoại vi, chiếm 71,1%.
Bảng 1. Các triệu chứng lâm sàng tại cột sống
Độ giãn CSTL (cm) Khoảng cách tay đất (cm)
Trung vị Cao nhất Thấp nhất Trung vị Cao nhất Thấp nhất
Nam 3 5 1 20 40 0
Nữ 2 4 2 20 50 10
Chung 3 5 1 20 50 0
p 0,86 0,69
Nhận xét: Độ giãn cột sống thắt lưng của nhóm bệnh nhân nghiên cứu khoảng 3 cm, khoảng cách tay đất
khoảng 20 cm. Không có sự khác biệt về chỉ số trên giữa hai giới (p > 0,05).
Biểu đồ 3. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo vị trí đau các khớp ngoài cột sống
Nhận xét: Nếu có biểu hiện đau các khớp ngoài cột sống, bệnh nhân chủ yếu có biểu hiện đau ở khớp
háng (44,7%).
Bảng 2. Các triệu chứng cận lâm sàng trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Các thông số n = 38
Nồng độ CRP (mg/L) 15,8
Nồng độ CRP tăng ≥ 5 mg/L (%) 81,58
Tốc độ lắng máu giờ đầu (mm) 35
Tốc độ lắng máu giờ đầu tăng ≥ 15 mm (%) 81,6
HLA-B27 dương tính (%) 81,25
Nhận xét: Đa số bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu đều có nồng độ CRP và tôc độ lắng máu giờ đầu tăng.
Các bệnh nhân có HLA-B27 dương tính chiếm tỉ lệ cao (81,25%).
86
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
3.2. Đánh giá hiệu quả điều trị của Secukinumab
Bảng 3. Đánh giá hiệu quả điều trị của Secukinumab
Các thông số T0 T16 P
0-16
VAS toàn trạng (điểm) 8 1 0,017
VAS cột sống về đêm (điểm) 7 1 0,026
VAS sưng đau khớp ngoại vi (điểm) 8 0 0,027
Độ giãn cột sống thắt lưng (cm) 2 5 0,017
Khoảng cách tay đất (cm) 25 3 0,027
BASDAI (điểm) 4,4 0,2 0,018
ASDAS-CRP 3,53 0,7 0,018
Nồng độ CRP (mg/L) 15,25 0,53 0,018
Tốc độ lắng máu giờ đầu (mm) 30 15 0,041
Nhận xét: Tại thời điểm tuần 16 (T16), các thông số đánh giá hiệu quả điều trị của Secukinumab cả về mặt
lâm sàng cũng như cận lâm sàng đều có sự thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tích cực so với trước khi điều trị.
Sự thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
3.3. Đánh giá tính an toàn của Secukinumab tại thời điểm tuần 16
Bảng 4. Đánh giá tính an toàn của Secukinumab thông qua chức năng thận
T0 T16 P
0-16
Ure (mmol/L) 4,38 ± 1,33 4,30 ± 1,11 0,87
Creatinine (µmol/L) 65 ± 18,69 69,57 ± 15,16 0,22
Nhận xét: Tại thời điểm tuần 16 (T16), xét nghiệm chức năng thận thông qua nồng độ Ure, Creatinine của
nhóm nghiên cứu không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê so với trước điều trị với p > 0,05.
Sau 16 tuần điều trị, không có bệnh nhân nào có xét nghiệm SGOT hoặc SGPT cao trên giới hạn trên bình
thường. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vẫn chưa ghi nhận bất kì trường hợp nào có biểu hiện dị ứng
thuốc, có phản ứng tại chỗ tiêm hay có biểu hiện nhiễm khuẩn tại các cơ quan.
4. BÀN LUẬN
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của nhóm
bệnh nhân viêm cột sống dính khớp giai đoạn hoạt
động
Thông qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy rằng các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu
phần lớn là nam giới (76,3%), tỉ lệ nam/nữ khoảng
3,2/1, trẻ tuổi, có biểu hiện lâm sàng khá đa dạng.
Một số triệu chứng thường gặp ở nhóm bệnh nhân
này là đau và hạn chế vận động cột sống, đồng thời
còn có một số lượng đáng kể bệnh nhân có biểu hiện
viêm khớp ngoại vi (71,1%), với vị trí hay gặp nhất
là khớp háng (44,7%), tiếp đến là khớp gối (34,2%).
Theo nghiên cứu của Võ Thị Thùy Liên (2019), 100%
bệnh nhân có biểu hiện đau cột sống, 82,4% bệnh
nhân trong nhóm nghiên cứu có biểu hiện triệu
chứng ở các khớp ngoại vi, trong đó khớp háng hay
gặp nhất chiếm 60%, tiếp đó là khớp gối 40% [3]. Đa
số bệnh nhân nhập viện với trong giai đoạn bệnh
đang hoạt động với điểm BASDAI trung bình là 4,15
± 1,01 điểm và ASDAS-CRP trung bình là 3,81 ± 0,94
điểm. Về cận lâm sàng, tỉ lệ HLA-B27 dương tính là
81,25%, tỉ lệ này phù hợp với một số nghiên cứu
trong và ngoài nước như nghiên cứu của Phan Thị
Hồng Hà (2013), tỉ lệ HLA-B27 dương tính là 88,9%
[1], tỉ lệ này theo Yu Heng Kwan và cs (2019) là 84,6%
[8]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết bệnh
nhân đều có biểu hiện tăng nồng độ CRP và tốc độ
lắng máu giờ đầu. Như vậy, nhóm bệnh nhân nghiên
cứu có những đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng khá
đặc trưng và phù hợp với mô tả của y văn về bệnh
viêm cột sống dính khớp.
Đánh giá hiệu quả điều trị của Secukinumab
Khi tiến hành đánh giá hiệu quả điều trị của
Secukinumab trên nhóm bệnh nhân được sử dụng
thuốc, sau 16 tuần điều trị, chúng tôi nhận thấy rằng
có sự thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tích cực trên
nhóm bệnh nhân này, và sự thay đổi này có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05.
Trước khi khởi trị, theo thang điểm đau VAS, các
đặc điểm toàn trạng, mức độ đau cột sống về đêm
và mức độ sưng đau các khớp ngoại vi của bệnh
nhân trong nhóm nghiên cứu đều ở mức đau nặng.
Khi đã tiếp nhận điều trị, điểm đau VAS của các đặc
điểm trên đều giảm dần theo thời gian, và tại thời
điểm T16 là ở mức độ đau nhẹ hoặc không đau (các
87
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
giá trị cụ thể được trình bày tại bảng 3). Tại thời
điểm tuần 16, VAS toàn trạng giảm 7 điểm, VAS cột
sống về đêm giảm 6 điểm, VAS sưng đau khớp ngoại
vi giảm 8 điểm. Các thay đổi này so với trước khi
điều trị đều có ý nghĩa với p < 0,05. Qua đó có thể
nhận thấy rằng Secukinumab có hiệu quả trong việc
cải thiện thang điểm đau VAS trên bệnh nhân, và sự
cải thiện này có ý nghĩa thống kê.
Độ giãn CSTL là triệu chứng lâm sàng được dùng
để đánh giá sự hạn chế vận động CSTL. Bình thường,
độ giãn CSTL khoảng 4 - 6 cm. Theo nghiên cứu của
chúng tôi, tại thời điểm trước khi điều trị, độ giãn
CSTL của nhóm bệnh nhân nghiên cứu tập trung
quanh khoảng giá trị 2 cm. Giá trị này chứng tỏ có
sự hạn chế vận động CSTL. Sau một thời gian điều
trị, độ giãn CSTL của bệnh nhân có sự cải thiện rõ,
bằng chứng là giá trị này tăng từ 2 cm lên 5 cm tại
thời điểm T16 (tại tuần 16) (tăng 3 cm). Sự thay đổi
này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Kèm theo với sự
cải thiện về độ giãn CSTL là sự thay đổi khoảng cách
tay đất. Trong nghiên cứu của chúng tôi, khoảng
cách tay đất trung bình tại thời điểm T0 là 25 cm.
Giá trị này giảm dần theo thời gian điều trị. Tại thời
điểm T16, kết quả này là 3 cm. Ở thời điểm tuần 16,
khoảng cách tay đất giảm được 22 cm so với thời
điểm tuần 0. Sự thay đổi khoảng cách tay đất khi
đã điều trị thuốc so với trước khi điều trị có ý nghĩa
thống kê với p < 0,05. Như vậy, kết quả nghiên cứu
của chúng tôi cho thấy Secukinumab có hiệu quả
trong việc cải thiện độ giãn CSTL và khoảng cách tay
đất. Sự cải thiện này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Về mức độ hoạt động bệnh, hiện nay, thang
điểm BASDAI và chỉ số ASDAS là hai công cụ quan
trọng nhất trong thực hành lâm sàng để đánh giá
mức độ hoạt động bệnh của bệnh VCSDK. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, trước khi khởi trị, điểm
BASDAI của nhóm bệnh nhân là 4,4 điểm. Kết quả
này giảm dần theo thời gian dùng Secukinumab.
Tại thời điểm T16, điểm BASDAI là 0,2. Ở thời điểm
T16, sự thay đổi điểm BASDAI trung bình là -4,2 so
với thời điểm T0. Theo nghiên cứu của Mitsumasa
Kishimoto và cs (2018), giá trị này là -3,088 [6].
Nghiên cứu của Dominique Baeten và cs lại ghi nhận
sự thay đổi điểm BASDAI trung bình là -2,32 trong
thử nghiệm MEASURE1 và -2,19 trong thử nghiệm
MEASURE 2 [4]. Như vậy, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác. Về
chỉ số ASDAS-CRP, trong nghiên cứu của chúng tôi,
trước khi điều trị Secukinumab, chỉ số này có giá trị
là 3,53. Kết quả này giảm dần theo thời gian điều trị
thuốc. Ở thời điểm T16, chỉ số ASDAS-CRP là 0,7. Tại
thời điểm T16, sự thay đổi điểm ASDAS-CRP trung
bình so với thời điểm T0 là -2,83. Kết quả này của
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Mitsumasa
Kishimoto và cộng sự (2018). Trong nghiên cứu này,
sự thay đổi chỉ số ASDAS-CRP là -1,74 [6]. Mặc dù
sự thay đổi điểm BASDAI và chỉ số ASDAS trung bình
trong nghiên cứu của chúng tôi có sự chênh lệch so
với nghiên cứu của Mitsumasa Kishimoto (2018),
tuy nhiên, nhìn chung, các giá trị này đều thay đổi
theo hướng giảm dần, nghĩa là mức độ hoạt động
bệnh của bệnh nhân tại thời điểm tuần 16 giảm hơn
so với trước khi điều trị Secukinumab. Qua đó cho
thấy, Secukinumab có tác dụng làm giảm mức độ
hoạt động bệnh của bệnh nhân VCSDK, và sự thay
đổi này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Về các xét nghiệm cận lâm sàng, trong nghiên
cứu của chúng tôi, nồng độ CRP trước khi điều trị
Secukinumab tập trung quanh khoảng 15,25 mg/L.
Khi đã tiếp nhận điều trị, nồng độ CRP thay đổi theo
xu hướng giảm dần. Ở thời điểm T16, giá trị này là
0,53 mg/L. Tính đến thời điểm tuần 16, nồng độ
CRP đã giảm được 14,72 mg/L. Sự thay đổi này có
ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tốc độ lắng máu của
bệnh nhân cũng cho thấy có sự thay đổi. Trước khi
điều trị, tốc độ lắng máu giờ đầu của bệnh nhân có
trung vị là 30 mm. Trong khi điều trị Secukinumab,
kết quả này giảm dần theo thời gian sử dụng thuốc,
cụ thể là tại thời điểm T16, tốc độ lắng máu tập
trung quanh khoảng giá trị 15 mm (giảm 15 mm). Sự
thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Như
vậy, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng
Secukinumab làm thay đổi nồng độ CRP và tốc độ
lắng máu giờ đầu theo chiều hướng giảm dần, và sự
thay đổi này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Qua kết quả nghiên cứu về các đặc điểm đã nêu
trên, sau 16 tuần điều trị, chúng tôi nhận thấy rằng
Secukinumab làm giảm có ý nghĩa các triệu chứng
và dấu hiệu lâm sàng cũng như cận lâm sàng trên
những bệnh nhân VCSDK, và những thay đổi này
đều có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Đánh giá tính an toàn của Secukinumab sau 16
tuần điều trị
Tính an toàn trên lâm sàng
Trong thời gian thực hiện nghiên cứu này, chúng
tôi chưa ghi nhận bất kì trường hợp nào có tác dụng
không mong muốn trên lâm sàng như nhiễm trùng,
các triệu chứng đường tiêu hóa (đau bụng, buồn
nôn, tiêu chảy), phản ứng tại chỗ tiêm hay dị ứng
thuốc.
Theo các nghiên cứu khác, khi sử dụng
Secukinumab, có một tỉ lệ bệnh nhân gặp tác dụng
phụ. Nghiên cứu của Dominique Baeten và cộng sự
ghi nhận tỉ lệ gặp tác dụng phụ trong thử nghiệm
MEASURE 1 là 68% và trong thử nghiệm MEASURE
2 là 61% [4]. Con số này theo nghiên cứu của Karel
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Số 4, tập 10/2020
Pavelka và cộng sự (2017) là 45,9% [9], của Alan J
Kivitz và cộng sự (2018) là 62,1% [7]. Tuy nhiên, tỉ
lệ các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng và
gây ảnh hưởng nhiều đến bệnh nhân chỉ chiếm tỉ lệ
rất nhỏ.
Sự khác biệt giữa nghiên cứu của chúng tôi và
các nghiên cứu khác có thể được giải thích do cỡ
mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi khá nhỏ so với
các nghiên cứu khác. Nhưng nhìn chung, về mặt lâm
sàng, Secukinumab có rất ít tác dụng phụ gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến bệnh nhân.
Tính an toàn trên các thông số cận lâm sàng
Khi tiến hành đánh giá tính an toàn trên thông số
chức năng thận (nồng độ Creatinine), trong nghiên
cứu của chúng tôi, không có bệnh nhân nào có tăng
nồng độ Creatinine đến mức suy thận sau 16 tuần
điều trị. Nồng độ Creatinine trước và sau điều trị 16
tuần không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p > 0,05.
Khi đánh giá tính an toàn trên sự thay đổi men
gan, theo nghiên cứu của chúng tôi, sau 16 tuần
điều trị, không có bệnh nhân nào có biểu hiện tăng
men gan.
Như vậy, khi đánh giá trên các thông số cận lâm
sàng, Secukinumab cho thấy tính an toàn khi sử
dụng trên bệnh nhân VCSDK.
5. KẾT LUẬN
Viêm cột sống dính khớp là một bệnh khớp viêm
mạn tính thuộc nhóm bệnh lý cột sống huyết thanh
âm tính. Bệnh thường gặp ở nam giới, trẻ tuổi với
một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng đặc trưng
như đau và hạn chế vận động cột sống, sưng đau
khớp ngoại vi, tăng nồng độ CRP và tốc độ lắng máu
giờ đầu, xét nghiệm HLA-B27 dương tính.
Về mặt điều trị, việc sử dụng Secukinumab cho
thấy có hiệu quả đáng kể trong việc cải thiện các
triệu chứng lâm sàng cũng như cận lâm sàng trên
nhóm bệnh nhân viêm cột sống dính khớp tính đến
thời điểm tuần thứ 16. Bên cạnh đó, việc điều trị
Secukinumab cũng được chứng minh là an toàn
trên nhóm bệnh nhân này. Đây được xem như là
một bước ngoặt mới trong điều trị bệnh, mang lại
nhiều hi vọng hơn cho bệnh nhân.Vì vậy, đối với các
trường hợp viêm cột sống dính khớp thể hoạt động,
nếu đúng chỉ định và có đủ điều kiện thì nên xem xét
điều trị bằng Secukinumab.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thị Hồng Hà, Võ Tam (2013), Nghiên cứu một
số chỉ điểm viêm và mật độ xương trên bệnh nhân viêm
cột sống dính khớp tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Luận án Chuyên
khoa cấp II, Trường Đại học Y Dược-Đại học Huế, Thừa
Thiên Huế.
2. Nguyễn Thị Ngọc Lan (2016), Bệnh học cơ xương
khớp nội khoa, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, tr. 114-
127.
3. Võ Thị Thùy Liên, Nguyễn Hoàng Thanh Vân, Lê Thị
Hồng Vân (2019), Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân viêm cột sống dính khớp bằng bộ câu hỏi SF-
36, Luận văn tốt nghiệp Bác sĩ y khoa, Trường Đại học Y
Dược-Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.
4. Baeten D. et al. (2015), “Secukinumab, an
interleukin-17A inhibitor, in ankylosing spondylitis”, New
England Journal of Medicine, 373(26), pp. 2534-2548.
5. Jameson J. L. et al (2018), Harrison’s Principles of
Internal Medicine, 20th Edition, chap 355, pp.2563-2568.
6. Kishimoto M. et al. (2018), “Efficacy and safety of
secukinumab in Japanese patients with active ankylosing
spondylitis: 24-week results from an open-label phase 3
study (MEASURE 2-J)”, Modern rheumatology, pp. 1-9.
7. Kivitz A. J. et al. (2018), “Efficacy and safety of
secukinumab 150 mg with and without loading regimen in
ankylosing spondylitis: 104-week results from MEASURE 4
study”, Rheumatology and therapy,5(2), pp. 447-462.
8. Kwan Y. H. et al. (2019), “Are extra-spinal symptoms
associated with quality of life in patients with axial
spondyloarthritis? A 1-year follow-up study”, Clinical
rheumatology, pp. 1-7.
9. Pavelka K. et al. (2017), “Efficacy, safety, and
tolerability of secukinumab in patients with active
ankylosing spondylitis: a randomized, double-blind phase
3 study, MEASURE 3”, Arthritis research & therapy, 19(1),
pp. 285.
10. Simone D. et al. (2018), “Progress in our
understanding of the pathogenesis of ankylosing
spondylitis”, Rheumatology, 57(suppl_6), pp. vi4-vi9.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_hieu_qua_dieu_t.pdf