KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 54 bệnh nhân được chẩn đoán
u nguyên bào nuôi theo dõi và điều trị khoa Phụ sản
Bệnh viện Trung ương Huế từ 01/2018 đến 12/2019
có được kết quả như sau:
Tuổi trung bình 28,9 ± 8,6. Tuổi mẹ ≥ 40 ở nhóm
UNBN tỷ lệ 18,5%. Nhóm u nguyên bào nuôi (UNBN),
Số lần mang thai ≥ 3 chiếm 18,5%. Tiền sử bị thai
lưu, nạo thai, sẩy thai ở nhóm UNBN 16,6%, ở nhóm
chữa trứng 3,7%. Tiền sử thai trứng ở UNBN tỷ lệ
20,4% và nhóm chữa trứng 5,6%. Thai phụ được
chẩn đoán UNBN có dấu hiệu tử cung go hồi kém
tỷ lệ 48,2%, ở nhóm thai trứng là 25,9%. Nhiễm độc
thai nghén ở nhóm UNBN 66,7% nhóm thai trứng
chiếm 13%. Ra máu âm đạo kéo dài bất thường ở
nhóm u nguyên bào nuôi là 77,8%. Nhóm UNBN và
nhóm chữa trứng có cường giáp tỷ lệ 24,1% và 9,3%.
Có 74,1% nhóm UNBN có số lần hút nạo thai trứng
1 lần, 25,9% là > 1 lần. Nang hoàng tuyến 2 bên ở
nhóm UNBN tỷ lệ 42,6% nhóm thai trứng 5,6%.
Ở nhóm UNBN nồng độ ß-hCG trước nạo hút
trứng ≥ 100.000 mUI/ml chiếm 75,9%; nhóm không
UNBN 31,5%. Ở UNBN nồng độ ß-hCG sau nạo hút
trứng tuần sau cao lại hơn tuần trước 10% (2 tuần
đầu) chiếm tỷ lệ 29,6%; ß-hCG sau nạo hút trứng
bình nguyên (21 ngày sau nạo hút trứng) tỷ lệ 20,4%;
ß-hCG sau nạo hút trứng >20.000 UI/l (4 tuần sau
nạo hút trứng) chiếm tỷ lệ 27,8%.
Yếu tố nguy cơ: Số lần mang thai ≥3 nguy cơ
UNBN cao gấp 5,1 lần 95% CI= 1,2 - 26,7. Tuổi mẹ ≥
40 có nguy cơ UNBN cao gấp 4,5 lần với 95% CI=1,1-
17,6. Tiền sử thai lưu, nạo thai, sẩy thai có nguy cơ
5,2 lần; 95% CI = 1,4- 25,2 (p < 0,05). Tiền sử thai
trứng có nguy cơ UNBN cao 4,3 lần 95% CI = 1,2-
16,3. Nhiễm độc thai nghén nguy cơ UNBN tăng 8,6
lần với CI= 3,3 - 21,4 p < 0,05. Ra máu âm đạo kéo
dài tăng nguy cơ 8,3 lần 95%CI = 3,4- 19,8 p < 0,05.
Có cường giáp tăng nguy cơ UNBN 3,1 lần p < 0,05.
Nang hoàng tuyến 2 bên còn sau 4 tuần tăng nguy
cơ UNBN 12,6 lần với 95%CI= 3,4 - 45,5 p < 0,05.
Nồng độ ß-hCG trước nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/
ml có nguy cơ cao UNBN cao hơn 6,8 lần với OR =
6,8; 95% CI = 2,9-16,2 p < 0,05.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
7 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 19 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ của bệnh u nguyên bào nuôi tại bệnh viện Trương ương Huế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Địa chỉ liên hệ: Lê Lam Hương, email: llhuong@huemed-univ.edu.vn
Ngày nhận bài: 6/3/2020; Ngày đồng ý đăng: 22/4/2020
Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ 
của bệnh u nguyên bào nuôi tại Bệnh viện Trương ương Huế
Ngô Thị Minh Thảo1, Võ Hoàng Lâm1, Đặng Văn Tân2, Lê Lam Hương1
(1) Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
 (2) Khoa phụ sản, Bệnh viện Trung ương Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ bệnh u nguyên bào nuôi 
(UNBN) sau thai trứng tại Bệnh viện Trung ương Huế. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang. Địa điểm 
khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2019. Nhóm bệnh có 54 bệnh nhân 
được chẩn đoán u nguyên bào nuôi theo tiêu chuẩn chẩn đoán FIGO 2002, nhóm không có biến chứng gồm 
54 bệnh nhân được chẩn đoán thai trứng được theo dõi và điều trị ổn định. Kết quả: Nhóm tuổi ≥ 40 nguy 
cơ UNBN cao gấp 4,5 lần (p < 0,05). Tiền sử thai lưu nguy cơ cao u nguyên bào nuôi gấp 5,2 lần (p < 0,05). 
Tiền sử thai trứng chiếm tỷ lệ 20,4% nguy cơ cao gấp 4,3 lần (OR=4,3; 95% CI = 1,2 - 16,3). Số lần mang thai 
≥ 3 nguy cơ UNBN cao gấp 5,1 lần (p < 0,05). Nhiễm độc thai nghén ở nhóm u nguyên bào nuôi 66,7%; OR= 
8,6; 95% CI = 3,3- 21,4 (p < 0,05). Có cường giáp nguy cơ cao u nguyên bào nuôi gấp 3,1 lần (p < 0,05). Nang 
hoàng tuyến 2 bên tồn tại trên 4 tuần tăng nguy cơ u nguyên bào nuôi cao gấp 12,6 lần (p < 0,05). Ở nhóm 
có nồng độ ß-hCG trước điều trị ≥ 100.000 mUI/ml chiếm 75,9%; nguy cơ u nguyên bào nuôi cao gấp 6,8 lần 
(p < 0,05). Kết luận: Tiền sử thai trứng, sinh nhiều lần, thai lưu, có biểu hiện cường giáp, nang hoàng tuyến 
hai bên tồn tại trên 4 tuần, nồng độ ß-hCG trước nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/ml là những yếu tố nguy cơ 
liên quan bệnh lý u nguyên bào nuôi.
Từ khóa: Thai trứng, bệnh nguyên bào nuôi, yếu tố nguy cơ.
Abstract
Clinical, subclinical features and the risk factors of gestational 
trophoblastic neoplasia at Hue Central Hospital
Ngo Thi Minh Thao1, Vo Hoang Lam1, Dang Van Tan2, Le Lam Huong1
(1) Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Dept. of Gynecology and Obsterics, Hue Central Hospital
Aim: To determine clinical and subclinical features and the risk factors of gestational trophoblastic 
neoplasia at Hue Central Hospital. Medthods: A cross-sectional study was conducted from 01/2018 -12/2019 
in the Obstetrics and Gynecology Deparment of Hue Central Hospital. This study included 54 women who 
were diagnosed gestational trophoblastic neoplasia (FIGO 2002) and 54 molar pregnancy women monitored 
and treated in a stable condition. Results: In gestational trophoblastic neoplasia (GTN) group, age group 
with women who were ≥ 40 was 4.5 times higher at risk factors of GTN (p < 0.05), the history of stillbirth 
had 5.2 times higher at risk (p < 0.05). History of molar pregnancy accounted for 20.4% with OR = 4.3 (95% 
CI = 1.2 - 16.3). The risk in the number of births ≥ 3 was 5.1 times higher (p < 0.05). The rate of toxemia in 
GTN group was 66.7% with OR = 8.6; 95%CI =3.3-21.4 (p < 0.05). The women with hyperthyroidism were 3.1 
times higher at risk of GTN. The risk of bilateral theca-lutein cyst in GTN group was 12.6 times more than 
that of control group. The percentage of beta hCG level > 100.000 mUI/ml before treatment in GTN group 
was 75.9% with 6.8 times higher at risk of GTN (p < 0.05). Conclusion: A history of molar pregnancy, birth 
multiple times,a history of stillbirth, presence of hyperthyroidism, the bilateral theca-lutein cyst > 4 weeks, 
the percentage of beta hCG level > 100.000 mUI/ml before treatment, are risk factors found to be associated 
with the gestational trophoblastic neoplasia.
Keywords: Molar pregnancy, gestational trophoblastic neoplasia, risk factors.
DOI: 10.34071/jmp.2020.2.6
37
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
 Bệnh nguyên bào nuôi là nhóm bệnh lý phát sinh 
do sự tăng sinh bất thường của nguyên bào nuôi 
có liên quan đến thai nghén. Chữa trứng là bệnh 
lành tính của nguyên bào nuôi, thì u nguyên bào 
nuôi là ác tính, bệnh có thể xuất hiện ở mọi lứa tuổi 
trong thời kỳ sinh đẻ thường xuất hiện sau khoảng 
50% sau thai trứng, 25% sau sẩy thai, thai ngoài tử 
cung và 25% sau đẻ thường. Thai trứng sau khi hút 
nạo, cần phải theo dõi βhCG bệnh nhân để phát 
hiện sớm u nguyên bào nuôi, u nguyên bào nuôi 
biểu hiện càng sớm sau nạo hút trứng thai trứng 
thì mức độ ác tính càng cao [12]. 
U nguyên bào nuôi gây nhiều ảnh hưởng đến sức 
khỏe của người phụ nữ do biến chứng của bệnh, tác 
dụng không mong muốn của quá trình điều trị. Bệnh 
u nguyên bào nuôi có tỷ lệ khoảng 1/40000 thai 
nghén, theo các nghiên cứu, u nguyên bào nuôi có 
tỷ lệ khoảng 1/1500 thai nghén ở Mỹ, 1/1000 thai 
nghén ở Châu Âu, trong khi đó tỷ lệ này ở các nước 
Đông Nam Á và Nhật Bản là 2/1000 và đặc biệt Đài 
Loan có tỷ lệ khá cao với 1/125 thai phụ. Một nghiên 
cứu của Trần Nhật Huy tiến hành tại Bệnh viện Từ 
Dũ năm 2014 ghi nhận tỉ lệ mắc u nguyên bào nuôi 
ở nhóm bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao có tỷ lệ 
là 14,3%; 12,2% theo Bachani S và 13% theo Yuk J S 
[2][6][13]. 
Tỷ lệ u nguyên bào nuôi khác nhau tùy theo 
vùng, chủng tộc, điều kiện kinh tế, tuổi của bệnh 
nhân và nhiều yếu tố khác. Một số nghiên cứu đã 
tìm thấy các yếu tố có nguy cơ của sự phát triển 
bệnh u nguyên bào nuôi như bệnh nhân lớn hơn 40 
hoặc nhỏ hơn 20 tuổi, kích thước tử cung trước nạo 
thai trứng lớn hơn tuổi thai 20 tuần, hoặc 4 tuần 
sau nạo hút thai trứng tử cung chưa go hồi về kích 
thước bình thường, có nang hoàng tuyến 2 bên, 
nồng độ ß-hCG tăng rất cao, hoặc các biểu hiện khác 
của thai trứng có nguy cơ cao như nhiễm độc thai 
nghén, cường giáp, thai trứng lặp lại [9]. 
Bệnh nguyên bào nuôi có thể đáp ứng tốt với 
điều trị và khu trú tại tử cung, nhưng cũng có thể 
di căn đến phổi và các cơ quan khác gây ảnh hưởng 
đến sức khỏe của bệnh nhân. Khi bệnh di căn đến 
âm đạo, gan, não. các nhân di căn có thể vỡ gây 
chảy máu rất nhiều nguy hiểm đến tính mạng của 
người bệnh [11]. 
Vậy nên u nguyên bào nuôi cần phải được chẩn 
đoán sớm, theo dõi sát để phát hiện và xử trí kịp thời. 
Việc phát hiện các yếu tố nguy cơ, chẩn đoán sớm 
và theo dõi điều trị bệnh làm giảm các biến chứng 
di căn có thể xảy ra là việc làm rất cần thiết, do đó 
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố 
nguy cơ bệnh u nguyên bào nuôi tại Bệnh viện Trung 
ương Huế” với mục tiêu nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố nguy cơ bệnh u 
nguyên bào nuôi sau thai trứng tại Bệnh viện Trung 
ương Huế.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 
Nhóm bệnh: Gồm 54 bệnh nhân được chẩn 
đoán u nguyên bào nuôi được theo dõi và điều trị tại 
khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 
01/2018 đến tháng 12/2019 với các tiêu chuẩn chọn 
bệnh và loại trừ như sau:
Tiêu chuẩn chọn bệnh:
- Bệnh nhân được theo dõi và điều trị tại khoa 
Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế có kết quả giải 
phẫu bệnh là thai trứng và trong quá trình theo dõi 
có 1 trong các biểu hiện sau của u nguyên bào nuôi 
theo tiêu chuẩn chẩn đoán Theo FIGO 2002: [8]
β-hCG tăng trong hai tuần liên tiếp (sau 3 lần xét 
nghiệm ngày 1, 7, 14);
β-hCG bình nguyên trong 3 tuần liên tiếp (xét 
nghiệm ngày 1, 7, 14, 21) 
β-hCG vẫn tồn tại sau 6 tháng điều trị 
- Chẩn đoán giải phẫu bệnh là u nguyên bào nuôi.
Nhóm không biến chứng: Gồm 54 bệnh nhân 
được chẩn đoán thai trứng sau hút nạo hút trứng có 
giải phẫu bệnh được theo dõi và điều trị ổn định tại 
khoa Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế. 
Tiêu chuẩn loại trừ: Có thai lại. Sót trứng sau nạo 
hút thai trứng. Không theo dõi sau nạo hút thai trứng 
đúng yêu cầu. Không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô 
tả cắt ngang. Chọn cỡ mẫu thuận tiện 54 bệnh nhân 
được chẩn đoán u nguyên bào nuôi thỏa mãn đủ 
các tiêu chuẩn chọn và loại trừ cho nhóm bệnh và 
54 bệnh nhân cho nhóm không có biến chứng là thai 
trứng được theo dõi và điều trị ổn định.
2.3. Tiến hành: Chọn vào mẫu nghiên cứu các 
bệnh nhân được chẩn đoán u nguyên bào nuôi đủ 
tiêu chuẩn chọn và loại trừ. Nhóm sau nạo hút trứng 
được theo dõi ổn định tại khoa trong cùng thời điểm 
sẽ được chọn vào nhóm không có biến chứng. Ghi 
nhận các thông tin về các biểu biện lâm sàng như: 
mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhiễm độc thai nghén, 
trình trạng nôn nghén, ra máu âm đạo khi nhập viện, 
tim phổi, tuyến giáp và các cơ quan khác. Tiền sử 
bản thân, gia đình về mắc bệnh thai trứng, tiền sử 
sẩy thai, thai lưu. Cận lâm sàng: kết quả của siêu âm, 
xét nghiệm βHCG, phim phổi, công thức máu, phân 
loại máu v.v.
2.4. Xử lý số liệu: Sử dụng các phương pháp 
thống kê y học, phần mềm Medcalc để phân tích số 
liệu với độ tin cậy tối thiểu 95%, α < 0,05.
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Đặc điểm chung
Tỷ lệ
Đặc điểm chung
U nguyên bào nuôi Chữa trứng
n= 54 % n= 54 %
Tuổi ≤ 20 8 14,8 2 3,7
21-39 36 66,7 49 90,7
≥40 10 18,5 3 5,6
28,9 ± 8,6 27,6 ± 7,2
Nghề nghiệp Cán bộ 16 29,6 12 22,2
Làm nông 23 42,6 35 64,9
Nghề khác 15 27,7 7 12,9
Địa dư Thành thị 14 25,9 12 22,2
Nông thôn 24 44,5 26 48,2
Vùng khác 16 29,6 16 29,6
Số lần mang 
thai
 0 17 31,5 10 18,5
1 - 2 27 50,0 41 75,9
≥ 3 10 18,5 3 5,6
Nhóm UNBN tuổi trung bình là 28,9 ± 8,6 nhỏ nhất 17 tuổi, lớn nhất là 46 tuổi, tuổi mẹ ≥ 40 ở nhóm u 
nguyên bào nuôi chiếm tỷ lệ 18,5%, nhóm chữa trứng 5,6 %. Thành phần cán bộ công nhân viên tỷ lệ 29,6%. 
Thành phần làm nông chiếm 42,6%. Tỷ lệ bệnh ở thành thị 25,9%; nông thôn 44,5%. Nhóm UNBN, Số lần 
mang thai ≥ 3 chiếm 18,5%.
Bảng 2. Một số yếu tố tiền sử 
Tỷ lệ
Đặc điểm
U nguyên bào nuôi Chữa trứng
n = 54 % n = 54 %
Tiền sử thai chết lưu, 
nạo thai, sẩy thai
Có 9 16,6 2 3,7
Không 45 83,4 52 96,3
Tiền sử thai trứng
Có 11 20,4 3 5,6
Không 43 79,6 51 94,4
Tiền sử bị thai lưu, nạo thai, sẩy thai ở nhóm u nguyên bào nuôi tỷ lệ 16,6%, ở nhóm chữa trứng 3,7%. 
Tiền sử thai trứng ở nhóm u nguyên bào nuôi tỷ lệ 20,4% và nhóm không u nguyên bào nuôi 5,6%. 
 Biểu đồ 1. Đặc điểm lâm sàng nhóm UNBN Biểu đồ 2. Đặc điểm lâm sàng nhóm chữa trứng
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Thai phụ được chẩn đoán u nguyên bào nuôi có dấu hiệu tử cung go hồi kém có tỷ lệ 48,2%, ở nhóm thai 
trứng là 25,9%. Nhiễm độc thai nghén ở nhóm u nguyên bào nuôi 66,7% nhóm thai trứng chiếm 13%. Ra máu 
âm đạo kéo dài bất thường ở nhóm u nguyên bào nuôi là 77,8%. Nhóm u nguyên bào nuôi và nhóm chữa 
trứng có cường giáp có tỷ lệ lần lượt là 24,1% và 9,3%. Có 74,1% nhóm u nguyên bào nuôi có số lần hút nạo 
thai trứng là 1 lần và 25,9% là > 1 lần. Nang hoàng tuyến 2 bên ở nhóm u nguyên bào nuôi tỷ lệ 42,6% nhóm 
thai trứng 5,6%.
Biểu đồ 3. Kết quả GPB nhóm UNBN Biểu đồ 4. Kết quả GPB nhóm chữa trứng
Thai trứng toàn phần chiếm tỷ lệ 85,4% ở nhóm chữa trứng và ở nhóm u nguyên bào nuôi thai trứng bán 
phần có tỷ lệ 43,1%, thai trứng toàn phần 24,3%, thai trứng xâm lấn, UNBN tồn taị và Ung thư NBN 32,6%. 
 Biểu đồ 5. Điều trị nhóm UNBN Biểu đồ 6. Điều trị nhóm thai trứng
Điều trị MTX/FA chiếm 54,6%. Phẫu thuật kèm hóa chất chiếm 15,9%. Nhóm thai trứng ổn định nạo nút 
chiếm tỷ lệ 95,2%.
Bảng 3. Một số đặc điểm chung, yếu tố tiền sử liên quan nguy cơ u nguyên bào nuôi 
Yếu tố OR 95% CI p
Số lần mang thai
Chưa mang thai OR = 2,5; 95% CI = 1,1-6,4 p > 0,05
< 3 lần mang thai Ref -
≥ 3 OR = 5,1; 95% CI = 1,2-26,7 p < 0,05
Tuổi mẹ
≤ 20 OR=5,4; 95% CI=1,1-27,1 p = 0,03
21 - 39 Ref -
≥ 40 OR = 4,5; 95% CI = 1,1-17,6 p = 0,02
Tiền sử thai chết lưu, nạo thai, sẩy thai OR = 5,2; 95% CI = 1,4- 25,2 p < 0,05
Tiền sử thai trứng OR = 4,3; 95% CI = 1,2- 16,3 p < 0,05
Số lần mang thai ≥ 3 thì nguy cơ UNBN cao gấp 5,1 lần so với Số lần mang thai < 3; 95% CI = 1,2 - 26,7. Tuổi 
mẹ ≥ 40 có nguy cơ UNBN cao gấp 4,5 lần với 95% CI = 1,1 - 17,6. Tiền sử bị thai lưu, nạo thai, sẩy thai có nguy 
cơ 5,2 lần; 95% CI = 1,4- 25,2 (p < 0,05). Tiền sử thai trứng có nguy cơ UNBN cao 4,3 lần 95% CI = 1,2- 16,3. 
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
Bảng 4. Một số đặc điểm lâm sàng liên quan nguy cơ u nguyên bào nuôi 
Đặc điểm OR 95% CI p
Tử cung go hồi kém sau 4 tuần OR=2,6; 95% CI = 1,2- 5,9 p < 0,05
Nhiễm độc thai nghén OR=8,6; 95%CI= 3,3- 21,4 p < 0,05
Ra máu âm đạo kéo dài OR=8,3; 95%CI= 3,4- 19,8 p < 0,05
Cường giáp OR=3,1; 95% CI = 1,1- 9,4 p < 0,05
Số lần hút nạo hút trứng OR=3,4; 95%CI= 1,1- 10,3 p < 0,05
Nang hoàng tuyến 2 bên còn sau 4 tuần OR=12,6; 95%CI= 3,4- 45,5 p < 0,05
Nhiễm độc thai nghén có nguy cơ UNBN tăng 8,6 lần với CI= 3,3- 21,4 p < 0,05. Ra máu âm đạo kéo dài 
tăng nguy cơ 8,3 lần 95%CI = 3,4 - 19,8 p < 0,05. Có cường giáp tăng nguy cơ UNBN 3,1 lần, p < 0,05. Có 74,1% 
nhóm u nguyên bào nuôi có số lần hút nạo hút trứng là 1 lần và 25,9% là > 1 lần tăng nguy cơ UNBN 3,4 lần 
p < 0,05. 95% CI = 1,1- 10,3, p < 0,05. Nang hoàng tuyến 2 bên còn sau 4 tuần tăng nguy cơ UNBN 12,6 lần 
với 95%CI= 3,4- 45,5, p < 0,05.
Bảng 5. Một số yếu tố cận lâm sàng và liên quan nguy cơ u nguyên bào nuôi 
Tỷ lệ
Đặc điểm
U nguyên bào nuôi Chữa trứng
OR
n = 54 % n= 54 %
Β-hCG trước 
hút nạo hút 
trứng
< 100 ngàn (mUI/ml) 13 24,1 37 68,5 OR=6,8; 
95%CI=2,9-16,2
p<0,05≥ 100 ngàn (mUI/ml) 41 75,9 17 31,5
Β-hCG sau hút 
nạo hút trứng
Tuần sau cao lại hơn tuần 
trước 10% (2 tuần đầu)
16 29,6 0 0
Không giảm 1 số thập phân sau 
mỗi tuần theo dõi
12 22,2 0 0
Bình nguyên (21 ngày sau nạo 
hút trứng)
11 20,4 0 0
>20.000 UI/l (4 tuần sau nạo 
hút trứng)
15 27,8 0 0
Ở nhóm u nguyên bào nuôi nồng độ ß-hCG trước nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/ml chiếm 75,9%; nhóm 
không u nguyên bào nuôi 31,5% với OR = 6,8; 95% CI = 2,9-16,2 p < 0,05. Ở nhóm u nguyên bào nuôi, nồng độ 
ß-hCG sau nạo hút trứng tuần sau cao lại hơn tuần trước 10% (2 tuần đầu) chiếm tỷ lệ 29,6%; ß-hCG sau nạo 
hút trứng bình nguyên (21 ngày sau nạo hút trứng) tỷ lệ 20,4%; ß-hCG sau nạo hút trứng >20.000 UI/l (4 tuần 
sau nạo hút trứng) chiếm tỷ lệ 27,8%.
4. BÀN LUẬN 
Nghiên cứu trên 54 bệnh nhân được chẩn đoán 
u nguyên bào nuôi được theo dõi và điều trị tại khoa 
Phụ sản Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 01/2018 
đến tháng 12/2019 có được kết quả như sau:
Qua bảng 1 ghi nhận tuổi trung bình là 28,9 ± 
8,6 nhỏ nhất là 17 tuổi, lớn nhất là 46 tuổi, so với 
nghiên cứu Nguyễn Thị Tố Thư ghi nhận tuổi trung 
bình là 27,8 ± 7,19 thì nghiên cứu này cao hơn. Tỷ lệ 
bệnh nhân Số lần mang thai ≥ 3 chiếm 18,5% chiếm 
tỷ lệ 18,5% so với các nghiên cứu khác trên bệnh u 
nguyên bào nuôi thì kết quả của nghiên cứu là tương 
đương, qua kết quả cũng ghi nhận được ở nhóm 
Số lần mang thai ≥ 3 khi bị thai trứng thì nguy cơ 
u nguyên bào nuôi cao gấp 5,1 lần p < 0,05 sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả Biểu đồ 1 và 2 cho thấy thai trứng toàn 
phần chiếm tỷ lệ 85,4% ở nhóm chữa trứng và ở 
nhóm u nguyên bào nuôi thai trứng toàn phần có 
tỷ lệ 24,3%, thai trứng bán phần 43,1%; thai trứng 
xâm lấn, UNBN tồn tại cùng ung thư NBN chiếm tỷ lệ 
32,6%. Nghiên cứu khác ghi nhận ở nhóm u nguyên 
bào nuôi tỷ lệ thai trứng toàn phần 73,3% thì kết quả 
chúng tôi lại thấp hơn nhưng so với Nguyễn Thị Tố 
Thư tại bệnh viện Hùng Vương thì 41,1% cho kết quả 
tương đương với nghiên cứu chúng tôi và Dauda A 
nghiên cứu trên 151 bệnh nhân u nguyên bào nuôi 
ghi nhận 35 trường hợp (25,8%) được chẩn đoán 
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
thai trứng toàn phần thì kết quả chúng tôi lại cao 
hơn [7]. Tỷ lệ thai trứng bán phần là 26,7% của một 
nghiên cứu khác ghi nhận thì kết quả chúng tôi lại 
cao hơn [4][5]. 
Kết quả ghi nhận tuổi mẹ ≥ 40 có nguy cơ UNBN 
cao gấp 4,5 lần với 95% CI = 1,1-17,6. Tiền sử thai 
lưu, nạo thai, sẩy thai chiếm 16,6%, ở nhóm chữa 
trứng 3,7% với OR = 5,2; 95% CI = 1,4- 25,2 (p < 0,05) 
nguy cơ u nguyên bào nuôi cao gấp 5,2 lần so với 
nhóm không có tiền sử. Tiền sử thai trứng chiếm tỷ 
lệ 20,4% nguy cơ u nguyên bào nuôi cao gấp 4,3 lần 
(OR = 4,3; 95% CI = 1,2 - 16,3). Một nghiên cứu khác 
ghi nhận khi kết hợp cùng tiền sử thai lưu hoặc sẩy 
thai thì OR = 9,85 (KTC 95% 1,61- 60,14), p = 0,013 
thì kết quả chúng tôi có thấp hơn có thể do nghiên 
cứu này tính từng yếu tố riêng biệt. Số liệu nghiên 
cứu chỉ ra nhiễm độc thai nghén ở nhóm u nguyên 
bào nuôi 66,7% nhóm thai trứng chiếm 13% với OR= 
8,6; 95% CI = 3,3-21,4; p < 0,05 [4][5]. 
 Ra máu âm đạo kéo dài bất thường là 77,8%; Ra 
máu âm đạo kéo dài tăng nguy cơ 8,3 lần 95%CI= 
3,4- 19,8 p < 0,05. Nhóm u nguyên bào nuôi có 
cường giáp tỷ lệ là 24,1% nguy cơ UNBN cao gấp 
3,1 lần p < 0,05. Thai phụ được chẩn đoán u nguyên 
bào nuôi có dấu hiệu tử cung go hồi kém có tỷ lệ 
48,2%, ở nhóm thai trứng là 25,9%, khi tử cung go 
hồi kém thì nguy cơ UNBN là 2,6 lần [OR=2,6; 95% 
CI = 1,2- 5,9 p < 0,05]. Có 74,1% nhóm u nguyên bào 
nuôi có số lần hút nạo hút trứng là 1 lần và 25,9% 
là > 1 lần; 90,7% ở nhóm thai trứng, nạo hút nhiều 
lần mới sạch cũng là yếu tố của nguy cơ UNBN OR = 
3,4; 95%CI= 1,1 -10,3 p < 0,05, y văn cũng ghi nhận 
khi kích thước tử cung trước nạo hút trứng lớn hơn 
tuổi thai 20 tuần, hoặc 4 tuần sau nạo hút trứng tử 
cung không go hồi về kích thước bình thường thì có 
nguy cơ của sự phát triển bệnh u nguyên bào nuôi. 
Nghiên cứu cũng ghi nhận nang hoàng tuyến 2 bên 
ở nhóm u nguyên bào nuôi tỷ lệ 42,6%, khi tồn tại 
nang hoàng tuyến 2 bên sau 4 tuần thì nguy cơ u 
nguyên bào nuôi tăng12,6 lần với 95%CI = 3,4 - 45,5 
p < 0,05 so với không tồn tại nang hoàng tuyến (p < 
0,05). Một nghiên cứu khác ghi nhận ở bệnh nguyên 
bào nuôi tồn tại có nang hoàng tuyến 2 bên > 6 cm 
chiếm 12% và nghiên cứu khác cũng nhận thấy yếu 
tố nang hoàng tuyến làm tăng nguy cơ bệnh 7,44 
lần (KTC 95% 1,2-78,21), p = 0,014 so với nhóm 
không hiện diện nang hoàng tuyến tương đương với 
nghiên cứu này. 
Ở nhóm u nguyên bào nuôi nồng độ ß-hCG trước 
nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/ml chiếm 75,9%; 
nhóm không u nguyên bào nuôi 31,5%, nguy cơ u 
nguyên bào nuôi cao gấp 6,8 lần khi nồng độ ß-hCG 
trước nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/ml (p < 0,05); 
OR = 6,8; 95% CI = 2,9 - 16,2 p < 0,05. Nghiên cứu 
Nguyễn Quang Thanh thì 64,4% các trường hợp thai 
trứng có β-hCG > 100.000 mUI/mL thì nghiên cứu 
của chúng tôi nồng độ ß-hCG trước nạo ≥ 100.000 ở 
nhóm u nguyên bào nuôi chiếm tỷ lệ có cao hơn [4]. 
Qua bảng 4, nghiên cứu ghi nhận ở nhóm u nguyên 
bào nuôi thì nồng độ ß-hCG sau nạo hút trứng tuần 
sau cao lại hơn tuần trước 10% (2 tuần đầu) chiếm 
tỷ lệ 29,6%; ß-hCG sau nạo hút trứng bình nguyên 
(21 ngày sau nạo hút trứng) tỷ lệ 20,4%; ß-hCG sau 
nạo hút trứng > 20.000 UI/l (4 tuần sau nạo hút 
trứng) chiếm tỷ lệ 27,8%. Chẩn đoán chỉ cần có một 
trong bốn tiêu chuẩn trên. Phần lớn UNBN có thể 
được chẩn đoán dựa trên lâm sàng, các trường hợp 
u nguyên bào nuôi sử dụng bằng chứng β-hCG để 
xác định sự tồn tại dai dẳng của mô nguyên bào 
nuôi[10],[11].
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 54 bệnh nhân được chẩn đoán 
u nguyên bào nuôi theo dõi và điều trị khoa Phụ sản 
Bệnh viện Trung ương Huế từ 01/2018 đến 12/2019 
có được kết quả như sau:
Tuổi trung bình 28,9 ± 8,6. Tuổi mẹ ≥ 40 ở nhóm 
UNBN tỷ lệ 18,5%. Nhóm u nguyên bào nuôi (UNBN), 
Số lần mang thai ≥ 3 chiếm 18,5%. Tiền sử bị thai 
lưu, nạo thai, sẩy thai ở nhóm UNBN 16,6%, ở nhóm 
chữa trứng 3,7%. Tiền sử thai trứng ở UNBN tỷ lệ 
20,4% và nhóm chữa trứng 5,6%. Thai phụ được 
chẩn đoán UNBN có dấu hiệu tử cung go hồi kém 
tỷ lệ 48,2%, ở nhóm thai trứng là 25,9%. Nhiễm độc 
thai nghén ở nhóm UNBN 66,7% nhóm thai trứng 
chiếm 13%. Ra máu âm đạo kéo dài bất thường ở 
nhóm u nguyên bào nuôi là 77,8%. Nhóm UNBN và 
nhóm chữa trứng có cường giáp tỷ lệ 24,1% và 9,3%. 
Có 74,1% nhóm UNBN có số lần hút nạo thai trứng 
1 lần, 25,9% là > 1 lần. Nang hoàng tuyến 2 bên ở 
nhóm UNBN tỷ lệ 42,6% nhóm thai trứng 5,6%.
Ở nhóm UNBN nồng độ ß-hCG trước nạo hút 
trứng ≥ 100.000 mUI/ml chiếm 75,9%; nhóm không 
UNBN 31,5%. Ở UNBN nồng độ ß-hCG sau nạo hút 
trứng tuần sau cao lại hơn tuần trước 10% (2 tuần 
đầu) chiếm tỷ lệ 29,6%; ß-hCG sau nạo hút trứng 
bình nguyên (21 ngày sau nạo hút trứng) tỷ lệ 20,4%; 
ß-hCG sau nạo hút trứng >20.000 UI/l (4 tuần sau 
nạo hút trứng) chiếm tỷ lệ 27,8%.
Yếu tố nguy cơ: Số lần mang thai ≥3 nguy cơ 
UNBN cao gấp 5,1 lần 95% CI= 1,2 - 26,7. Tuổi mẹ ≥ 
40 có nguy cơ UNBN cao gấp 4,5 lần với 95% CI=1,1-
17,6. Tiền sử thai lưu, nạo thai, sẩy thai có nguy cơ 
5,2 lần; 95% CI = 1,4- 25,2 (p < 0,05). Tiền sử thai 
trứng có nguy cơ UNBN cao 4,3 lần 95% CI = 1,2- 
16,3. Nhiễm độc thai nghén nguy cơ UNBN tăng 8,6 
42
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 10, số 2, tháng 4/2020
lần với CI= 3,3 - 21,4 p < 0,05. Ra máu âm đạo kéo 
dài tăng nguy cơ 8,3 lần 95%CI = 3,4- 19,8 p < 0,05. 
Có cường giáp tăng nguy cơ UNBN 3,1 lần p < 0,05. 
Nang hoàng tuyến 2 bên còn sau 4 tuần tăng nguy 
cơ UNBN 12,6 lần với 95%CI= 3,4 - 45,5 p < 0,05. 
Nồng độ ß-hCG trước nạo hút trứng ≥ 100.000 mUI/
ml có nguy cơ cao UNBN cao hơn 6,8 lần với OR = 
6,8; 95% CI = 2,9-16,2 p < 0,05.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Phụ sản - Trường Đại học Y Dược Huế (2011); 
Thai trứng, Sản phụ khoa, NXB Y học, tr 278-285.
2. Trần Nhật Huy, Võ Minh Tuấn, (2014), “Kết quả của 
hóa dự phòng ở bệnh nhân thai trứng nguy cơ cao tại 
bệnh viện Từ Dũ”, Y Học TP Hồ Chí Minh, 18 (1), tr. 58-63
3. Lê Lam Hương, (2016), Khảo sát một số yếu tố nguy 
cơ bệnh u nguyên bào nuôi, Tạp chí Phụ Sản tập 17 số 14, 
trang 47-52.
4. Lê Quang Thanh, (2016), “Tỷ lệ tân sinh nguyên bào 
nuôi sau thai trứng tại Bệnh viện Từ Dũ”, Tạp chí Phụ sản, 
14 (2), pp. 68-70.
5. Nguyễn Thị Tố Thư, Nguyễn Duy Tài; (2014), Tỷ 
lệ bệnh nguyên bào nuôi tồn tại sau hút nạo thai trứng 
không hóa dự phòng tại bệnh viện Hùng vương, Tạp chí Y 
học TP. Hồ Chí Minh, tập 18 số 1, trang 114-121
6. Bachani S., Pruthi N., Tiwari S., P. M, (2017), “Varied 
presentations of gestational trophoblastic disease in Asian 
women: one year follow up”, Int J Community Med Public 
Health, 4 (1), pp. 269-273. 
7. Dauda A, Akpor I, Mandong B, Ngbea J, et al, 
(2017), “Prevalence of gestational trophoblastic disease: 
An institution experience”, Annals of Tropical Pathology, 
8 (2), pp. 81-86
8. FIGO O C, (2002), “FIGO staging for gestational tro-
phoblastic neoplasia 2000. FIGO Oncology Committee”, 
Int J Gynaecol Obstet, 77 (3), pp. 285-287.
9. Lurain JR (2010), Gestational trophoblastic disease 
I: epidemiology, pathology, clinical presentation and di-
agnosis of gestational trophoblastic disease, and man-
agement of hydatidiform mole. Am. J. Obstet. Gynecol, 
Dec;203(6):531-9
10. Seckl MJ, Sebire NJ (2013), Gestational tropho-
blastic disease: ESMO Clinical Practice Guidelines for diag-
nosis, treatment and follow-up, Ann Oncol, Oct; 24 Suppl 
6:vi39-50.
11. Shaaban A. M., Rezvani M., Haroun R. R., Kenne-
dy A. M., et al, (2017), Gestational Trophoblastic Disease: 
Clinical and Imaging Features, RadioGraphics, 37 (2), pp. 
681-700.
12. Wang Q, Fu J, Hu L, Fang F, et al, (2017), “Prophy-
lactic chemotherapy for hydatidiform mole to prevent 
gestational trophoblastic neoplasia”, Cochrane Database 
Syst Rev, 9 pp. Cd007289. 64
13. Yuk J S, Baek J C, (2019), “Incidence of gestational 
trophoblastic disease in South Korea: a longitudinal, pop-
ulation-based study”, 7 pp. e6490. 67
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_va_mot_so_yeu_to_n.pdf