Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản

Đối chiếu kết quả nội soi với hóa mô Đối chiếu kết quả nội soi với kết quả nhuộm HE - PAS Trong 27 bệnh nhân có dị sản ruột hoàn toàn hay 27 bệnh nhân được chẩn đoán chắc chắn là Barrett trên PAS - HE thì chỉ có 24 bệnh nhân được chẩn đoán là Barrett trên nội soi chiếm 88.9%, như vậy độ nhạy của nội soi trong chẩn đoán Barrett thực quản là 88.9%. Có 3 bệnh nhân loét thực quản trên nội soi khi nhuộm PAS – HE được chẩn đoán thực quản Barrett. Trong 10 bệnh nhân có tổn thương DSR không hoàn toàn trên PAS - HE thì có 9 bệnh nhân được chẩn đoán trên nội soi là Barrett thực quản chiếm 90%. Mối liên quan giữa chiều dài tổn thương barrett với kết quả nhuộm PAS -HE Về chiều dài của tổn thương trên nội soi nghiên cứu của chúng tôi có 24/34 bệnh nhân đoạn ngắn có dị sản ruột hoàn toàn chiếm 70.6%; 3 bệnh nhân ở nhóm Barrett dài đều có dị sản ruột hoàn toàn. Một nghiên cứu năm 2003 cho biết sự phổ biến của dị sản ruột tăng dần với chiều dài của đoạn Barrett, có mặt trong 70,4% ở nhóm 1 đến 2 cm, 89,5% ở nhóm 3 đến 4 cm, và 100% trong ≥ nhóm 5 cm. Nghiên cứu của Westerhoff M1 và cs năm 2012 cho thấy chỉ tìm thấy DSR ở 19% bệnh nhân có tổn thương Barrett trên nội soi < 2cm và nhận thấy rằng những người có Barrett đoạn ngắn mà không có DSR cũng sẽ không có DSR ở các sinh thiết tiếp theo. Một nghiên cứu khác lại cho thấy có 12/44 bệnh nhân ở nhóm Barrett ngắn và 4/6 bệnh nhân Barrett dài có chuyển sản ruột. Như vậy, Barrett dài thường cho tỷ lệ DSR cao hơn và là yếu tố tiềm năng của loạn sản và ung thư tuyến thực quản.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 4 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX294 I. đẶT VẤN đỀ Bệnh Barrett thực quản được mô tả lần đầu tiên vào năm 1950 bởi Norman Barrett. Barrett thực quản là tình trạng biến đổi biểu mô vảy bình thường ở thực quản thành biểu mô trụ dạng ruột. Cho đến nay nguyên nhân chính xác của Barrett thực quản vẫn chưa được biết đến. Người ta cho rằng đây là một biến chứng thường gặp của bệnh lý trào ngược dạ dày - thực quản yếu tố khác có vẻ như là yếu tố nguy cơ cho sự hiện diện của barrett thực quản bao gồm béo phì, sự hiện diện của thoát vị hoành, nam giới da trắng hay tuổi tác cũng được báo cáo như là yếu tố nguy cơ của thực quản barrett trong nhiều nghiên cứu và thú vị, sự vắng mặt của Helicobacter pylori. Triệu chứng lâm sàng của bệnh Barrett thực quản rất nghèo nàn và không đặc hiệu. Chẩn đoán Barrett thực quản dựa trên nội soi và mô bệnh học, khi có bất kể NGHIÊN CỨU đẶC đIỂM LÂM sàNG, HÌNH ẢNH NỘI sOI Và HÓA MÔ Ở BỆNH NHÂN BARReTT THỰC QUẢN nguyễn thị Khuyên*, nguyễn thị Vân Hồng** *Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa; ** Trường Đại học Y Hà Nội TÓM TẮT Mục tiêu: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản. 2. Đối chiếu giữa nội soi với hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản. đối tượng và phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 37 bệnh nhân Barrett thực quản từ 01/2013 đến 07/2014. Tất cả các trường hợp đều được nội soi đường tiêu hóa trên và xét nghiệm mô bệnh học (HE & PAS) và hóa mô (Xanh Alcian ở môi trường pH 1 và pH 2.5 ). Kết quả sẽ được đối chiếu giữa nội soi và mô bệnh học, hóa mô. Kết quả: Về phân bố bệnh nhân theo triệu chứng cơ năng lần lượt là: ợ chua 62.2%, nóng rát sau xương ức 56.8%, đau thượng vị 40.5%, ợ hơi 32.4%, nghẹn cổ 29.7%, đau vùng trước tim 8.1%, rối loạn nuốt và buồn nôn 5.4%. Về đặc điểm nội soi, phân bố theo hình thái tổn thương, hình vòng (đảo) 37.8%, dạng lưỡi 32.4%, dạng bao tay 5.4%, không rõ hình thái 24.3%; Theo chiều dài tổn thương: đoạn ngắn 91.9%, đoạn dài 8.1%. Về đặc điểm mô bệnh học, tỷ lệ dị sản ruột: dị sản ruột hoàn toàn 73%, dị sản ruột không hoàn toàn 27%; kết quả nhuộm Xanh Alcian: có 59.5% bệnh nhân dương tính khi nhuộm ở môi trường pH1, 100% bệnh nhân dương tính khi nhuộm ở môi trường pH 2.5. Đối chiếu kết quả nội soi với kết quả nhuộm HE – PAS: Tổn thương trên nội soi ở nhóm có DSR hoàn toàn: Barrett thực quản 88.9%, loét thực quản 11.1%, tổn thương nghi K sớm 0%; Tổn thương trên nội soi ở nhóm có dị sản ruột không hoàn toàn: barrett thực quản 90%, loét thực quản 0%, tổn thương nghi K sớm 10%. Ở nhóm có tổn thương đoạn ngắn số bệnh nhân có dị sản ruột hoàn toàn 70.6%, số bệnh nhân có dị sản ruột không hoàn toàn là 29.4%. Ở nhóm có tổn thương đoạn dài, số bệnh nhân có dị sản ruột hoàn toàn là 100%. Kết luận: Bệnh nhân barrett có triệu chứng ợ chua và nóng rát sau xương ức chiếm tỷ lệ cao thương dạng vòng (đảo) và tổn thương dạng lưỡi chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 37.8% và 32.4%; bệnh nhân có tổn thương đoạn ngắn là 91.9%. Về đặc điểm mô bệnh học, tỷ lệ dị sản ruột: có 73% bệnh nhân có dị sản ruột hoàn toàn, 27% bệnh nhân có dị sản ruột không hoàn toàn; kết quả nhuộm Xanh Alcian: có 59.5% bệnh nhân dương tính khi nhuộm ở cả 2 môi trường pH1 & pH 2.5, 40.5% bệnh nhân chỉ dương tính ở môi trường pH 2.5. Độ nhạy của nội soi trong chẩn đoán barrett thực quản là 88.9%. Số bệnh nhân có DSR hoàn toàn ở nhóm bệnh nhân có tổn thương đoạn ngắn là 70.6%, ở nhóm bệnh nhân có tổn thương đoạn dài là 100%. nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 295 dấu hiệu nghi ngờ cần tiến hành nội soi thực quản - dạ dày. Hình ảnh nội soi đặc trưng của Barrett thực quản là sự thay đổi niêm mạc từ đường Z lan lên phía trên (là đường tiếp nối thực quản và dạ dày). Cũng có thể xuất hiện những vùng niêm mạc biến đổi tách rời riêng rẽ, đó là các tổn thương thô có màu hồng đến đỏ (đặc trưng là màu cá hồi) khác với niêm mạc nhẵn, nhạt màu của biểu mô vảy bình thường của thực quản, thương tổn cũng dễ bỏ sót nếu không được quan tâm đúng mức. Trước những hình thái tổn thương như vậy, cần tiến hành sinh thiết làm xét nghiệm mô bệnh học xác nhận thương tổn dị sản ruột đồng thời phát hiện các tình trạng loạn sản khác, thậm chí là ung thư thực quản. Mô bệnh học đặc trưng của Barrett thực quản là các tế bào ruột hay tế bào hình đài chế nhày khi nhuộm HE và các tế bào hình trụ bắt màu xanh dương nổi bật khi nhuộm Xanh Alcian. Xanh Alcian là phương pháp nhuộm dùng để phân biệt các chất nhầy axit. Nhuộm Xanh Alcian ở 2 môi trường pH 1 và pH 2.5 cho ta biết nguồn gốc của tế bào dị sản ruột ở ruột non hay đại tràng. Nếu tế bào có nguồn gốc ruột non tiết chất nhầy chứa nhóm cacboxyl chỉ dương tính khi nhuộm ở môi trường pH 2.5. Tế bào có nguồn gốc từ đại tràng tiết chất nhầy có chứa nhóm sulfua nên sẽ dương tính ở cả môi trường pH 1 và pH 2.5. Khi nhuộm Xanh Alcian ở bệnh nhân Barrett thực quản sẽ thấy xuất hiện các tế bào hình trụ bắt màu xanh dương, một số tác giả cho rằng các tế bào này có thể là giai đoạn chuyển tiếp của các tế bào trụ sang các tế bào hình đài chế nhày (tế bào dị sản ruột) [1], vì thế nó có giá trị chẩn đoán sớm ở những trường hợp Barrett không điển hình trên nhuộm HE. Mặt khác, 1 số trường hợp tế bào tâm vị có thể phình to tạo ra hình dạng dễ nhầm với tế bào DSR trên HE, ta có thể dùng phản ứng nhuộm Xanh Alcian để phân biệt tránh tình trạng chẩn đoán quá mức chuyển sản ruột hay chẩn đoán dương tính giả Barrett. Tuy nhiên, chỉ kết quả dương tính trên nhuộm Xanh Alcian là không đủ cơ sở để chẩn đoán Barrett khi vắng mặt tế bào dị sản ruột trên nhuộm HE [1]. Về điều trị barrett thực quản: Hiện nay, chưa có thuốc để đảo ngược tổn thương của bệnh Barrett thực quản. Nhiều nghiên cứu cho thấy thuốc ức chế acid dạ dày không có vai trò rõ rệt trong bệnh thực quản barrett, cũng như không có vai trò trong phòng loạn sản và ung thư. Tuy nhiên, việc điều trị GERD tiềm ẩn có thể làm chậm tốc độ của bệnh và ngăn ngừa biến chứng. Một số phương pháp điều trị qua nội soi để loại bỏ mô loạn sản và ung thư như: Liệu pháp quang động học (PDT): phương pháp này sử dụng một chất nhạy sáng có tên là Photofrin và tia laser để tiêu diệt những tế bào tiền ung thư và tế bào ung thư. Photofrin sẽ được tiêm vào tĩnh mạch của bệnh nhân 48 giờ trước khi thực hiện thủ thuật. Sau đó tia laser sẽ được chiếu xuyên qua nội soi và hoạt hóa Photofrin để tiêu diệt mô Barrett trong thực quản, cắt niêm mạc qua nội soi (EMR): là phương pháp nâng lớp niêm mạc Barrett lên và bơm một loại dung dịch vào bên dưới hoặc để ống hút vào đó sau đó cắt bỏ nó đi. Sau đó lớp niêm mạc này sẽ được lấy ra ngoài qua nội soi, cắt bỏ bằng tần số vô tuyến ( RFA): RFA sử dụng năng lượng tần số vô tuyến, được cung cấp bởi một bóng ống nội soi hoặc một thiết bị cắt bỏ, để tiêu diệt tế bào biểu mô của Barrett...[2]. Barret thực quản là nguyên nhân chính dẫn tới ung thư tuyến ở thực quản. Tại Mỹ số người chết vì căn bệnh này đã tăng 7 lần trong 4 thập kỉ qua [3]. Ở Việt Nam, bệnh Barrett thực quản có thể không phải là bệnh hiếm. Song bệnh chưa được quan tâm nhiều của các bác sĩ lâm sàng và nội soi. Hơn nữa, các nghiên cứu về bệnh Barrett thực quản còn rất ít. Bởi vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản”, nhằm các mục tiêu sau: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản. 2. Đối chiếu giữa nội soi với hóa mô ở bệnh nhân Barrett thực quản. II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. đối tượng nghiên cứu Bao gồm 37 bệnh nhân đã được chẩn đoán xác định là Barrett thực quản tại Khoa Tiêu hóa, Trung tâm Giải Phẫu Bệnh - Bệnh viện Bạch Mai. Thời gian nghiên cứu từ 01/2013 đến 07/2014. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân nghiên cứu - Bệnh nhân có hình ảnh nội soi thực quản - dạ dày là Barrett thực quản hoặc nghi ngờ Barrett nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX296 thực quản, được sinh thiết vùng thực quản tổn thương làm mô bệnh học có biểu mô vảy được thay thế bằng biểu mô trụ và có DSR. - Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu. Tiêu chuẩn loại trừ - Bệnh nhân < 16 tuổi. - Hẹp TQ. - Sau đặt sonde dạ dày. - Bệnh nhân có giãn tĩnh mạch TQ, xuất huyết tiêu hóa. - Xơ cứng bì và co thắt TQ nguyên phát. - Bệnh nhân HIV dương tính. - Bệnh nhân đang điều trị thuốc chống viêm nonsteroid. - Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu. 2. Phương pháp nghiên cứu - Thiết kế nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu. - Cách chọn mẫu: chọn mẫu thuận tiện. Quy trình nghiên cứu: -Tất cả các bệnh nhân thu thập theo bệnh án nghiên cứu thống nhất. - Tiến hành nội soi thực quản - dạ dày - tá tràng cho bệnh nhân. - Sinh thiết tổn thương: Khi có tổn thương nghi ngờ barrett trên nội soi tiến hành sinh thiết vùng niêm mạc tổn thương 2-3 mảnh, trên đường Z, dưới đường Z, tại vị trí tổn thương nếu có loét sùi sinh thiết tại bờ ổ loét, sinh thiết phải đủ lớn và phải lấy toàn bộ lớp niêm mạc. Muốn thế đầu ống soi phải áp gần sát thành thực quản đồng thời phải hướng kìm sinh thiết vuông góc với thành thực quản. Các bệnh phẩm sinh thiết được đưa ngay lập tức vào các lọ đựng bệnh phẩm đã có sẵn dung dịch cố định formol trung tính 10%. Mỗi bệnh nhân sẽ có mã số riêng, ghi rõ số mảnh sinh thiết, yêu cầu xét nghiệm, ngày giờ sinh thiết, đặc điểm lâm sàng của tổn thương. - Chuyển bệnh phẩm về labo Trung tâm Giải Phẫu Bệnh trong ngày. Bệnh phẩm được xử lý theo kỹ thuật thường quy và nhuộm theo 3 phương pháp: Nhuộm Hematoxylin - Eosin để đánh giá tổn thương mô. Nhuộm Periodic Acid Schiff để đánh giá chất nhầy. Nhuộm Blue alcian ở các môi trường pH khác nhau để đánh giá chất nhầy axit. Nhận định kết quả trên kính hiển vi quang học có độ phóng đại từ 40-400 lần: Trên tiêu bản nhuộm HE - PAS. Nhận định kết quả - Đánh giá tổn thương TQ trên hình ảnh nội soi chia hai loại: [4] + Tổn thương TQ đoạn ngắn: có chiều dài (cao) tổn thương <3cm. + Tổn thương TQ đoạn dài: có chiều dài (cao) tổn thương ≥ 3cm. - Đánh giá tổn thương TQ trên hình ảnh nội soi theo hình thái chia 3 loại [5]: + Tổn thương dạng lưỡi. + Tổn thương dạng bao tay. + Tổn thương dạng vòng. Tiêu chuẩn đánh giá tổn thương trên mô bệnh học: Theo hệ thống phân loại của Jass và Filipe [6]. DSR được chia thành hai nhóm với 3 typ: + DSR hoàn toàn: có 1 typ.  DSR typ 1, niêm mạc dạ dày biến đổi hoàn toàn sang niêm mạc ruột. Các khe tuyến thẳng được phủ bởi các tế bào hấp thu có riềm bàn chải rõ (tế bào này chế tiết các enzym tiêu hóa như diascharidase, peptidase và các phosphatase kiềm) và các tế bào hình đài chế nhầy tiết ra sialomucin và sulphomucin và một số tế bào paneth. Các tế bào hình trụ không chế tiết. + DSR không hoàn toàn: Có tế bào hình đài chế nhầy nhưng không có tế bào paneth. Giữa các tế bào hình đài là các tế bào hấp thu không thành thục có riềm bàn chải ngắn và không chế tiết enzym tiêu hóa. Các tế bào này gọi là tế bào trung gian chứa glycoprotein axit. DSR không hoàn toàn được chia thành 2 typ:  DSR typ 2: Niêm mạc DSR vẫn còn giữ tính chất của niêm mạc dạ dày gồm các tế bào hình đài nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 297 chế tiết sialomucins + sulphomucins và các tế bào hình trụ chế tiết sialomucins. Có rất ít hay không có tế bào hấp thu. Cấu trúc tuyến biến đổi nhẹ.  DSR typ 3: Gần giống như DSR typ 2 nhưng các cấu trúc tuyến biến đổi nhiều hơn, các khe tuyến ngoằn ngoèo, chia nhánh. Các tế bào trụ có nhân tăng sắc, lớn và không đều. Các tế bào hình đài chế tiết sialomucins + sulphomucins, tế bào trụ chế tiết sulphomucins. DSR typ 3 dễ nhầm với loạn sản độ thấp, thường được coi là tổn thương tiền ung thư. Cũng cần lưu ý là cả 3 typ DSR có thể phối hợp trên cùng một bệnh nhân. - Những BN có kết quả chẩn đoán mô bệnh học (Trên HE và PAS) là Barrett thực quản sẽ được lấy mẫu nhuộm Xanh Alcian ở môi trường PH1 và PH 2,5. Xử lý số liệu: - Số liệu được xử lý theo phần mềm SPSS 16.0. - Sử dụng thuật toán χ2 để so sánh 2 tỷ lệ. III. KẾT QUẢ Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo các triệu chứng cơ năng Triệu chứng số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) Ợ chua 23 62.2 Ợ hơi 12 32.4 Buồn nôn 2 5.4 Đau thượng vị 15 40.5 Rối loạn nuốt 2 5.4 Nóng rát sau xương ức 21 56.8 Nghẹn cổ 11 29.7 Đau vùng trước tim 3 8.1 Bảng 2. Phân bố Barrett TQ theo hình thái tổn thương Tổn thương số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) Hình vòng 14 37.8 Hình lưỡi 12 32.4 Hình bao tay 2 5.4 Không rõ hình thái 9 24.3 Tổng số 37 100 Bảng 3. Phân bố Barret TQ theo chiều dài tổn thương Tổn thương số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) Đoạn ngắn 34 91.9 Đoạn dài 3 8.1 Tổng 37 100 Bảng 4. Tỷ lệ dị sản ruột Hình thái số bệnh nhân (n) Tỷ lệ (%) DSR hoàn toàn 27 73 DSR không hoàn toàn 10 27 Tổng 37 100 Bảng 5. Kết quả nhuộm Xanh Alcian Xanh Alcian Kết quả pH 1 (n = 37) pH 2.5 (n = 37) Dương tính 22 59.5% 37 100% Âm tính 15 40.5% 0 0% Bảng 6. Đối chiếu kết quả nội soi với kết quả nhuộm HE – PAS PAs - He Nội soi DsR hoàn toàn DsR không hoàn toàn Số BN (n=27) Tỷ lệ % Số BN (n=10) Tỷ lệ % Barrett TQ 24 88.9 9 90 Loét TQ 3 11.1 0 0 Tổn thương nghi K sớm 0 0 1 10 p 0.149 nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX298 Bảng 7. Mối liên quan giữa chiều dài tổn thương Barrett với kết quả nhuộm PAS –HE Chiều dài He-PAs đoạn ngắn đoạn dài n = 34 n = 3 Có DSR hoàn toàn 24 70.6% 3 100% Có DSR không hoàn toàn 10 29.4% 0 0% P 0.548 IV. BàN LUẬN - Đặc điểm lâm sàng Chúng tôi gặp 23 bệnh nhân có triệu chứng ợ chua (chiếm 62.2%) và 21 bệnh nhân có nóng rát sau xương ức (chiếm 56.8%), đây là 2 triệu chứng có tần xuất gặp nhiều nhất ở bệnh nhân Barrett và là triệu chứng điển hình của bệnh thực quản trào ngược. Điều này theo chúng tôi là phù hợp với quan điểm cho rằng Barrett thực quản chủ yếu là hậu quả của bệnh thực quản trào ngược. Các triệu chứng buồn nôn, rối loạn nuốt và đau vùng trước tim chiếm tỷ lệ ít nhất và tương đương nhau. Rối loạn nuốt là triệu chứng lâm sàng của bệnh thực quản trào ngược ở giai đoạn muộn. Triệu chứng đau ngực không do tim cũng là 1 trong những triệu chứng điển hình của hội chứng trào ngược thực quản, thực tế đã gặp những bệnh nhân GERD đi khám chuyên khoa Tim Mạch vì đau ngực. Cần lưu ý là không có sự song hành giữa triệu chứng lâm sàng và tổn thương thực thể. - Đặc điểm nội soi: Phân bố theo hình thái tổn thương: Chúng tôi gặp nhiều nhất là tổn thương dạng đảo (dạng vòng) chiếm 37.8%, tiếp đến là tổn thương dạng lưỡi chiếm 32.4%, gặp ít nhất là tổn thương dạng bao tay chiếm 5.4%, còn lại là tổn thương không rõ hình thái. Các bệnh nhân không nhận rõ hình thái tổn thương trên nội soi chủ yếu là các tổn thương nghi do bệnh lý khác được phát hiện tình cờ khi đọc tổn thương trên mô sinh thiết. Ở nghiên cứu của Nguyễn Thành Hưng năm 2010 thì tỷ lệ này như sau: Hình vòng 30.6%, hình lưỡi 11.1%, hình bao tay 5.6%, không định rõ hình thái tổn thương 19.4% [7]. Phân loại theo chiều dài tổn thương Phân loại theo chiều dài tổn thương chia làm 2 loại: - Barrett đoạn ngắn có chiều dài tổn thương < 3cm, - Barrett đoạn dài có chiều dài tổn thương > 3cm. Chúng tôi gặp chủ yếu là tổn thương Barrett đoạn ngắn (< 3cm) gồm 34/37 bệnh nhân chiếm 91.9%. Tổn thương đoạn dài chỉ có 3 bệnh nhân chiếm 8.1%. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu khác trên thế giới. Theo nghiên cứu của 1 nhóm các nhà khoa học Hy Lạp thì Barrett ngắn chiếm 94.7%, chỉ có 5.3% là barrett dài. Tổn thương Barrett theo chiều dài được quan tâm nhiều do nó có ý nghĩa trong tiên lượng tiến triển của bệnh thành ung thư tuyến thực quản đặc biệt là vai trò của barrett dài. Nhiều nghiên cứu cho thấy mối liên quan tỷ lệ thuận giữa chiều dài của đoạn barrett thực quản với nguy cơ loạn sản và ung thư tuyến thực quản. Tỷ lệ loạn sản trong nhóm barrett đoạn dài là 29.7% tăng có ý nghĩa so với nhóm Barrett ngắn (0.95%). Nhóm nghiên cứu Tomoyuki Akiyama và cs đã chứng minh rằng tăng gấp đôi chiều dài của biểu mô Barrett làm tăng nguy cơ ung thư tuyến 1,7 lần [8]. Mặc dù nhiều nghiên cứu đã được báo cáo Barrett đoạn dài có xu hướng tăng nguy cơ ung thư, nhưng hiện nay chưa có bằng chứng về tương quan chiều dài của Barrett và nguy cơ ung thư [9]. - Đặc điểm mô bệnh học Tổn thương của barrett trên nhuộm PAS - HE Trong nghiên cứu của chúng tôi có 27/37 bệnh nhân Barrett có dị sản ruột hoàn toàn hay có chứa tế bào hình đài chế nhày chiếm 73%, tỷ lệ này là 40.5% trong nghiên cứu của Westerhoff M1 và cs, đây là tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán chắc chắn Barrett thực quản. 10/37 bệnh nhân còn lại có hình ảnh mô học là DSR không hoàn toàn, đó là hình ảnh các tế bào trụ của biểu mô tuyến thay thế hoàn toàn biểu mô vảy, 10 bệnh nhân này được khẳng định là Barrett do bắt màu xanh dương trong phản ứng nhuộm Xanh Alcian ở môi trường pH1 và pH2.5. Hình ảnh chuyển nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 299 sản sang biểu mô trụ là giai đoạn đầu của Barrett trước khi xuất hiện các dị sản ruột hay nói cách khác tỷ lệ Barrett được chẩn đoán sớm là 27%. Có nhiều quan điểm trái ngược vẫn còn là vấn đề tranh cãi hiện nay. Tiêu chuẩn chẩn đoán Barrett năm 2011 của hiệp hội tiêu hóa Mỹ (AGA) là sự có mặt của tế bào hình đài chế nhày (DSR), trong khi ở các nước khác lại cho rằng sự có mặt của biểu mô trụ là bằng chứng của Barrett bất kể sự có mặt của dị sản ruột hay không [10]. Một số các nghiên cứu của các nhà Tiêu hóa Đức và Nhật Bản cho rằng nguy cơ ung thư là có thể xảy ra ở bệnh nhân Barrett ngay khi vắng mặt tế bào hình đài chế nhày [11]. Trong khi các nghiên cứu vùng Bắc Mỹ lại cho những kết quả khác biệt. Chuyển sản ruột có mặt trong 87,4% số bệnh nhân, và chứng loạn sản và/ hoặc ung thư tuyến chỉ được nhìn thấy ở những bệnh nhân này. Kết quả nhuộm Xanh Alcian: Kết quả của chúng tôi: 100% bệnh nhân dương tính khi nhuộm Xanh Alcian ở môi trường pH 2.5; 22/37 bệnh nhân dương tính khi nhuộm ở môi trường pH 1 chiếm 59.5%. Nhuộm Xanh Alcian ở các môi trường pH khác nhau để phát hiện các chất nhầy axit, cho ta biết nguồn gốc của các tế bào dị sản ruột. Nếu tế bào có nguồn gốc ruột non tiết chất nhầy chứa nhóm cacboxyl chỉ dương tính khi nhuộm ở môi trường pH 2.5. Tế bào có nguồn gốc từ đại tràng tiết chất nhầy có chứa nhóm sulfua nên sẽ dương tính ở cả môi trường pH 1 và pH 2.5. Như vậy, chúng tôi có 59.5% bệnh nhân có dị sản đại tràng, 40.5% bệnh nhân có dị sản ruột non. - Đối chiếu kết quả nội soi với hóa mô Đối chiếu kết quả nội soi với kết quả nhuộm HE - PAS Trong 27 bệnh nhân có dị sản ruột hoàn toàn hay 27 bệnh nhân được chẩn đoán chắc chắn là Barrett trên PAS - HE thì chỉ có 24 bệnh nhân được chẩn đoán là Barrett trên nội soi chiếm 88.9%, như vậy độ nhạy của nội soi trong chẩn đoán Barrett thực quản là 88.9%. Có 3 bệnh nhân loét thực quản trên nội soi khi nhuộm PAS – HE được chẩn đoán thực quản Barrett. Trong 10 bệnh nhân có tổn thương DSR không hoàn toàn trên PAS - HE thì có 9 bệnh nhân được chẩn đoán trên nội soi là Barrett thực quản chiếm 90%. Mối liên quan giữa chiều dài tổn thương barrett với kết quả nhuộm PAS -HE Về chiều dài của tổn thương trên nội soi nghiên cứu của chúng tôi có 24/34 bệnh nhân đoạn ngắn có dị sản ruột hoàn toàn chiếm 70.6%; 3 bệnh nhân ở nhóm Barrett dài đều có dị sản ruột hoàn toàn. Một nghiên cứu năm 2003 cho biết sự phổ biến của dị sản ruột tăng dần với chiều dài của đoạn Barrett, có mặt trong 70,4% ở nhóm 1 đến 2 cm, 89,5% ở nhóm 3 đến 4 cm, và 100% trong ≥ nhóm 5 cm. Nghiên cứu của Westerhoff M1 và cs năm 2012 cho thấy chỉ tìm thấy DSR ở 19% bệnh nhân có tổn thương Barrett trên nội soi < 2cm và nhận thấy rằng những người có Barrett đoạn ngắn mà không có DSR cũng sẽ không có DSR ở các sinh thiết tiếp theo. Một nghiên cứu khác lại cho thấy có 12/44 bệnh nhân ở nhóm Barrett ngắn và 4/6 bệnh nhân Barrett dài có chuyển sản ruột. Như vậy, Barrett dài thường cho tỷ lệ DSR cao hơn và là yếu tố tiềm năng của loạn sản và ung thư tuyến thực quản. V. KẾT LUẬN Tỷ lệ bệnh nhân barrett có triệu chứng ợ chua và nóng rát sau xương ức chiếm tỷ lệ cao nhất tương ứng là 62.2%, 56.8%. Hình ảnh Barrett thực quản trên nội soi: tổn thương dạng đảo và dạng lưỡi chiếm tỷ lệ cao nhất và tương đương nhau là 32.4%. Tỷ lệ Barrett đoạn ngắn/ đoạn dài là 34/3. Có 59.5% số bệnh nhân dương tính khi nhuộm Xanh Alcian ở 2 môi trường pH1 và pH 2.5; và có 40.5% số bệnh nhân chỉ dương tính khi nhuộm Xanh Alcian ở môi trường pH 2.5. Barrett được chẩn đoán qua nội soi ở nhóm có DSR hoàn toàn là 88.9%, ở nhóm có DSR không hoàn toàn là 90%. Số bệnh nhân có DSR hoàn toàn ở nhóm có tổn thương đoạn ngắn chiếm 70.6%. Số bệnh nhân có DSR hoàn toàn ở nhóm có tổn thương đoạn dài chiếm 100%. nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX300 1. Cantarelli JC Jr1, Fagundes RB, Meurer L et al (2009). Immunoreactivity of cytokeratins 7 and 20 in goblet cells and columnar blue cells in patients with endoscopic evidence of Barrett’s esophagus. Arq Gastroenterol, 46(2),127 - 31. 2. Spechleremai SJ, Rebecca FC, Ganapathy AP et al. (2010). History, Molecular Mechanisms, and Endoscopic Treatment of Barrett’s Esophagus. Gastroenterology. 138(3), 854 - 859. 3. Nichalas J.N. (2009). Barrett’s esophagus – How is high grade dysplasia managed Gastrointestinal endoscopy. 360, 2310 - 2320. 4 . Sharma P, Morales TG, Sampliner RE (1998). Short segment Barrett’s esophagus - the need for standardization of the definition and of endoscopic criteria. Am J Gastroenterol. 93, 1033 - 1036. 5. Ronkainen J, Aro P, Storskrubb T, et al (2005). Prevalence of Barrett’s esophagus in the general population: an endoscopic study. Gastroenterology.129, 1825-31 6. Filipe MI (1979). Mucins in the human gastrointestinal epithelium: a review. Invest Cell Pathol. 2(3):195–216. 7. Nguyễn Thành Hưng (2010). Đối chiếu hình ảnh nội soi, mô bệnh học ở bệnh nhân barrett thực quản, Luận văn thạc sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội, Hà Nội 8. Tomoyuki A, Masahiko I, Atsushi N et al. (2010). Shape of Barrett’s epithelium is associated with prevalence of erosive esophagitis. World Journal of Gastroenterology: WJG, 16(4), 484– 489. 9. Sharma P, McQuaid K, Dent J et al (2004). A critical review of the diagnosis and management of Barrett’s esophagus: the AGA Chicago Workshop. Gastroenterology, 127, 310 - 330. 10. Westerhoff M1, Hovan L, Lee C et al. (2012). Effects of dropping the requirement for goblet cells from the diagnosis of Barrett’s esophagus. Clin Gastroenterol Hepatol, 10(11), 1232 - 6. 11. Andrea G, Catherine J. S. (2014). Histopathology in Barrett Esophagus and Barrett Esophagus-Related Dysplasia. Clin Endosc ,47(1), 31 - 39. TàI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lam_sang_hinh_anh_noi_soi_va_hoa_mo_o_be.pdf
Tài liệu liên quan