Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp trên và dưới 65 tuổi

Có sự khác biệt trong các biểu hiện lâm sàng của NMCT cấp ở những bệnh nhân ≥ 65 tuổi so với bệnh nhân < 65 tuổi. Những bệnh nhân ≥ 65 tuổi thường có đau ngực không điển hình, các triệu chứng không đặc hiệu như khó thở, mệt, không đau ngực cao hơn so với những bệnh nhân < 65 tuổi. Bệnh nhân ≥ 65 tuổi bị NMCT cấp thường nhập viện trễ hơn và có phân độ Killip nặng cao hơn so với bệnh nhân < 65 tuổi.

pdf7 trang | Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 556 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp trên và dưới 65 tuổi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  203 NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG   Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP TRÊN VÀ DƯỚI 65 TUỔI  Nguyễn Văn Tân*, Nguyễn Văn Trí*  TÓM TẮT  Cơ sở: Biểu hiện lâm sàng nhồi máu cơ tim cấp ở người cao tuổi thường thay đổi nên việc chẩn đoán bệnh  thường dễ bị bỏ sót. Có hay không sự khác biệt về các đặc điểm lâm sàng nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân trên  và dưới 65 tuổi. Tại thành phố Hồ Chí Minh, hiện chưa có nghiên cứu nào đầy đủ về các đặc điểm lâm sàng  NMCT cấp ở bệnh nhân trên và dưới 65 tuổi.  Mục tiêu: Xác định sự khác biệt trong các biểu hiện lâm sàng nhồi máu cơ tim cấp ở bệnh nhân trên và dưới  65 tuổi.  Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 467 bệnh nhân NMCT cấp điều trị nội trú tại khoa Tim mạch  Cấp cứu và Can thiệp‐ bệnh viện Thống Nhất thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 2 năm 2009 đến  tháng 7 năm 2012 được đưa vào nghiên cứu. Các bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu được chia thành hai nhóm:  nhóm ≥ 65 tuổi có 310 bệnh nhân (66,38%), nhóm < 65 tuổi có 157 bệnh nhân (33,62%). Nghiên cứu được thực  hiện bằng phương pháp tiến cứu, mô tả và cắt ngang.  Kết quả: Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu là 69,18 ± 13,28 (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là  99); trong đó tuổi trung bình ở nam là 66,90 ± 13,58 (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là 99); tuổi trung bình ở nữ là  74,04 ± 11,20 (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là 97) (p < 0,001). Tỷ lệ nam/nữ ở 2 nhóm tuổi có sự khác biệt (nhóm <6  5 tuổi là 4,23, nhóm ≥ 65 tuổi là 1,6 với p < 0,001). Các yếu tố nguy cơ mạch vành giữa hai nhóm: tỷ lệ tăng  huyết áp ở nhóm ≥ 65 tuổi cao hơn so với nhóm <65 tuổi (75,16% so với 52,87%, với p < 0,001), hút thuốc lá ở  nhóm < 65 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn ≥ 65 tuổi (42,21% so với 14,24%, p < 0,001), tỷ lệ bệnh nhân bị béo phì  chiếm khá cao ở nhóm < 65 tuổi so với nhóm ≥ 65 tuổi (22,93% so với 9,42%, với p < 0,001). Thời gian từ lúc  khởi phát triệu chứng đến lúc nhập viện: số bệnh nhân <65 tuổi nhập viện ≤6 giờ chiếm 55,8%, cao hơn so với  nhóm ≥ 65 tuổi chiếm 36,9%. Ngược lại, thời gian nhập viện > 6 giờ thì nhóm bệnh nhân ≥ 65 tuổi chiếm tỷ lệ  cao hơn nhóm < 65 tuổi, 63,1% so với 44,2%, với p < 0,001. Đặc điểm cơn đau ngực: bệnh nhân < 65 tuổi có  biểu hiện cơn đau ngực điển hình hơn những bệnh nhân ≥ 65 tuổi (72,61% so với 36,13%, p < 0,001), còn tỷ lệ  đau ngực không điển hình (20,38%) và không đau (7,01%) thì thấp hơn nhóm bệnh nhân ≥ 65 tuổi, các tỷ lệ đau  ngực không điển hình và không đau ở nhóm ≥ 65 tuổi lần lượt là 34,19% và 29,68%, p <0,001. Những triệu  chứng khác đi kèm bao gồm mệt chiếm tỷ lệ 84,48% ở nhóm ≥ 65 tuổi cao hơn 76,03% ở nhóm < 65 tuổi (p =  0,031). Vã mồ hôi gặp nhiều ở nhóm < 65 tuổi hơn (81,33% so với 72,53% ở nhóm ≥ 65 tuổi, với p = 0,044). Khó  thở cũng thường gặp ở nhóm ≥ 65 tuổi hơn (76,04% so với 54,61% ở nhóm < 65 tuổi, với p < 0,001). Về phân độ  Killip lúc nhập viện thì nhóm < 65 tuổi có Killip I chiếm đa số 75,33%, kế đến là Killip II 14%, Killip III và IV  chiếm tỷ lệ ít hơn theo thứ tự là 8% và 2,67%; còn ở nhóm ≥ 65 tuổi Killip I chiếm 55,91%, kế đến là Killip II  26,52%, Killip III và IV là 12,19% và 5,38%, tỷ lệ Killip II, III và IV cao hơn so với nhóm < 65 tuổi với p =  0,001.   Kết luận: Có sự khác biệt trong các biểu hiện lâm sàng của NMCT cấp ở những bệnh nhân ≥ 65 tuổi so với  bệnh nhân < 65 tuổi. Những bệnh nhân ≥ 65 tuổi thường có đau ngực không điển hình, các triệu chứng không  đặc hiệu như khó thở, mệt, không đau ngực cao hơn so với những bệnh nhân < 65 tuổi. Bệnh nhân ≥ 65 tuổi bị  NMCT cấp thường nhập viện trễ hơn và có phân độ Killip nặng cao hơn so với bệnh nhân < 65 tuổi.  * Bộ môn Lão khoa – ĐHYD TP.HCM  Tác giả liên lạc: Ths.BS.Nguyễn Văn Tân ĐT: 0903739273 Email: nguyenvtan10@yahoo.com Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  204 Từ khóa: Đặc điểm lâm sàng, nhồi máu cơ tim cấp, cao tuổi.  ABSTRACT  THE CLINICAL CHARACTERISTICS OF PATIENTS WITH ACUTE MYOCARDIAL INFARCTION  ABOVE & BELOW 65 YEARS OLD  Nguyen Van Tan, Nguyen Van Tri  * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 203 ‐ 209  Background: The  clinical presentation  of  acute myocardial  infarction  (AMI)  in  elderly patients  is  often  variable,  thus  the  diagnosis  is  easily missed.  Is  there  a  difference  in  clinical  characteristics  in AMI  between  patients above and below 65 years old or not? In Ho Chi Minh city, there has not been any research to present  fully the clinical characteristics of AMI in patients above and below 65 years of age.  Objective: To identify the difference in clinical presentation of AMI in patients above and below 65 years  old.  Subject and research method: The study focused on 467 AMI patients hospitalized at Cardiovascular ICU  & Interventional Unit of Ho Chi Minh Thong Nhat hospital from February 2009 to July 2012. The patients in  this sample were randomized  in 2 groups: group ≥65 years old comprised 310 patients  (66.38%), group < 65  years old comprised 157 patients (33.62%). The research is prospective, descriptive and cross sectional.  Results: The mean age of the males was 66.90 ± 13.58 (the youngest was 32, the oldest was 99); the mean  age of the females was 74.04 ± 11.20 (the youngest was 32, the oldest was 97) (p < 0.001). The male: female ratio  in  the 2 groups had a difference  (in group < 65 years old  it was 4.23;  in group  ≥ 65  it was 1.6, p < 0.001).  Cardiovascular risks between the 2 groups compared: high blood pressure  in group ≥ 65 years old was higher  than in group < 65 years old (75.16% compared to 52.87%, p < 0.001), smoking rate in group < 65 years old was  higher than  in group ≥ 65 years old (42.21% compared to 14.24%, p < 0.001), overweight rate  in group < 65  years old was much higher than in group ≥ 65 years old (22.93% compared to 9.42%, p < 0.001). The time from  onset to hospitalization: < 6 hours in group < 65 years old of 55.8%, was higher than in group ≥ 65 years old of  36.9%. Conversely, the time from onset to hospitalization > 6 hours in group ≥ 65 years old was higher than in  group < 65 years old, 63.1% compared to 44.2%, p < 0.001. The chest pain characteristic: group < 65 years old  presenting with typical chest pain was higher than in group ≥ 65 years old (72.61% compared to 36.13%, p <  0.001); whereas those presenting atypical chest pain and painlessness in group < 65 years old were 20.38% and  7.01%, respectively, and in group ≥ 65 years old 34.19% and 29.68%, respectively, p < 0.001. The concomitant  symptoms, including tiredness, of 84.48% in group ≥ 65 years old was higher than in group < 65 years old of  76.03%  (p  =  0.031).  Sweating  in  group  ≥  65  years  old was  higher  than  in  group  <  65  years  old  (81.33%  compared to 72.53%, p = 0.044). Shortness of breath in group ≥ 65 years old was also higher than in group < 65  years old (76.04% compared to 54.61%, p < 0.001). Killip levels at the time of hospitalization: group < 65 years  old had Killip I of 75.33%, Killip II of 14%, Killip III & IV of 8% and 2.67%, respectively; group ≥ 65 years old  had Killip I of 55.91%, Killip II of 26.52%, Killip III & IV of 12.19% and 5.38%, respectively. The rate of Killip  II, III and IV in group ≥ 65 years old was higher than in group < 65 years old, p = 0.001.  Conclusions: There was a difference in clinical presentations of AMI in patients ≥65 years old compared to  patients < 65 years old. Patients ≥ 65 years old often had atypical chest pain, non‐specific symptoms, such as  shortness of breath, tiredness, and painlessness, more frequently than patients < 65 years old. Patients ≥ 65 years  old  suffering  from AMI were  often  hospitalized with more  delay  and  had more  advanced Killip  levels  than  patients < 65 years old.  Key words: Clinical characteristic, acute myocardial infarction, elderly.  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  205 ĐẶT VẤN ĐỀ  Bệnh  tim  là  nguyên  nhân  hàng  đầu  gây  nhập viện và  tử vong ở người cao  tuổi. Vai  trò  của các yếu tố nguy cơ cổ điển ở người cao tuổi  (≥  65  tuổi)  thì  chưa  được  hiểu  rõ  do  có  ít  và  không  đầy  đủ  các  dữ  liệu  trong  hầu  hết  các  trường hợp  và  các  biểu hiện nhồi máu  cơ  tim  cấp  (NMCT) nhìn  chung  là không  điển hình  ở  người cao  tuổi. Mặc dù khởi phát với cảm giác  đè nặng hoặc đau  thượng vị  tương đối  thường  gặp ở người cao tuổi (NCT), nhưng những dạng  biểu  hiện  khác  như  lú  lẫn  cấp  tính,  ngất,  đau  ngực không điển hình, suy tim sung huyết, nôn  ói hoặc  suy yếu  cũng  thường gặp. Vì  các biểu  hiện  lâm  sàng  thay  đổi  nên  việc  chẩn  đoán  NMCT cấp  thường dễ bị bỏ  sót. Khi bị NMCT  cấp, NCT thường có những biến chứng và tỷ lệ  tử vong cao hơn người không cao tuổi(3).  Hiện nay, NMCT cấp đang có xu hướng gia  tăng  ở  các  nước  đang  phát  triển,  trong  đó  có  Việt Nam.  Tại  thành  phố Hồ Chí Minh,  hiện  chưa có nghiên cứu nào đầy đủ về các đặc điểm  lâm sàng NMCT cấp ở bệnh nhân trên và dưới  65 tuổi. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu  đặc điểm lâm sàng ở bệnh nhân NMCT cấp trên  và  dưới  65  tuổi  nhằm  xác  định  sự  khác  biệt  trong các biểu hiện lâm sàng ở những đối tượng  trên. Từ  đó,  có  thể  góp phần  giúp  chẩn  đoán  bệnh được kịp thời, chính xác và điều trị tốt hơn  cho người bệnh.  ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Đối tượng nghiên cứu  Trong  thời  gian  từ  tháng  2  năm  2009  đến  tháng 7 năm 2012 chúng tôi đã tiến hành nghiên  cứu 467 bệnh nhân NMCT cấp điều trị nội trú tại  khoa  Tim mạch  Cấp  cứu  và  Can  thiệp‐  bệnh  viện Thống Nhất  thành phố Hồ Chí Minh. Các  bệnh  nhân  trong  mẫu  nghiên  cứu  được  chia  thành  hai  nhóm:  nhóm  ≥  65  tuổi  có  310  bệnh  nhân (66,38%), nhóm < 65 tuổi có 157 bệnh nhân  (33,62%).  Phương pháp nghiên cứu  Thiết kế của nghiên cứu này là tiến cứu, mô  tả và cắt ngang. Chẩn đoán NMCT cấp dựa vào  2 trong 3 tiêu chuẩn sau: 1) có sự tăng troponin  tim hoặc CK‐MB 2  lần ở mức giới hạn trên của  giá  trị bình  thường hoặc 2) đau  thắt ngực điển  hình kéo dài hơn 30 phút hoặc 3) thay đổi ST‐T  trên điện tâm đồ, với sự xuất hiện sóng Q hoặc  block nhánh trái mới xuất hiện. Các bệnh nhân  thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán trên sẽ được đưa vào  nghiên cứu. Các thông tin từ bệnh nhân qua hỏi  bệnh sử và thăm khám lâm sàng cẩn thận được  ghi nhận và điền vào hồ sơ nghiên cứu đã được  soạn  sẳn. Ngoài việc ghi  điện  tâm  đồ  để  giúp  chẩn đoán, chúng  tôi còn  thực hiện một số xét  nghiệm  khác  như  công  thức máu,  đông máu,  sinh hóa máu bao gồm đường huyết, lipid máu,  điện giải đồ, men gan (SGOT, SGPT). Chúng tôi  không đưa vào nghiên cứu những trường hợp là  cơn đau thắt ngực ổn định hoặc không ổn định,  những  trường  hợp  không  đồng  ý  tham  gia  nghiên  cứu  hoặc  những  trường  hợp  tử  vong  trong 24 giờ đầu nhập viện mà chưa có kết quả  men tim.  Sung huyết phổi tại thời điểm nhập viện do  suy tim trái được chúng tôi phân loại theo phân  độ Killip (Killip I‐IV). Bệnh nhân được xem là có  tăng huyết áp (THA) khi có tiền sử THA rõ bất  kể  có  dùng  thuốc  hay  không  hoặc  nếu  thăm  khám  lâm  sàng  thấy  huyết  áp  tâm  thu/tâm  trương  ≥  140/90 mmHg.  Đái  tháo  đường  gồm  hai giá trị là có đái tháo đường và không có đái  tháo  đường,  tiêu  chuẩn  chẩn  đoán  đái  tháo  đường dựa  theo phân  loại  của WHO  1998;  rối  loạn  lipid máu  được phân  chia  theo Hiệp Hội  Châu Á Thái Bình Dương. Bệnh nhân được xem  là có hút  thuốc  lá khi có hút  ít nhất 1 gói/ngày  trong  1  năm  và  có  hút  bất  kỳ  điếu  thuốc  nào  trong  tháng qua,  tính đến  thời điểm nhập viện  (theo thang đo Framingham).  Phương pháp xử lý và phân tích các số liệu  Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  206 Các số liệu được nhập và xử lý bằng phần  mềm thống kê SPSS 17.0 for Window. Các biến  liên tục trong nghiên cứu được trình bày dưới  dạng trung bình ± độ lệch chuẩn nếu số liệu có  phân  phối  bình  thường  hoặc  số  trung  vị  (khoảng  tứ vị) nếu  có phân phối không bình  thường  và  giá  trị  trung  bình  được  so  sánh  bằng  Student’s  t‐test.  Sử dụng phép  kiểm  chi  bình phương để so sánh các biến số phân  loại  giữa các nhóm và tần suất được trình bày bằng  tỉ  lệ phần  trăm  (%). Sự khác biệt được xem  là  có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.  KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  Nghiên cứu của chúng tôi có 318 bệnh nhân  nam (68,09%), 149 bệnh nhân nữ (31,91%), tỷ lệ  nam/nữ 2,13. Tỷ lệ bệnh nhân nam cao hơn bệnh  nhân nữ có ý nghĩa thống kê, với p < 0,001. Tuổi  trung bình của nhóm bệnh nhân nghiên cứu  là  69,18  ±  13,28  (nhỏ  nhất  là  32,  lớn  nhất  là  99);  trong đó tuổi trung bình ở nam là 66,90 ± 13,58  (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là 99); tuổi trung bình ở  nữ là 74,04 ± 11,20 (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là 97)  (p < 0,001).  Khi  phân  chia  theo  nhóm  tuổi  thì  tỷ  lệ  nam/nữ ở 2 nhóm tuổi có sự khác biệt (nhóm <  65  tuổi  là  4,23,  nhóm  ≥  65  tuổi  là  1,6  với  p  <  0,001). Tỷ lệ đau ngực điển hình có sự khác biệt  rõ giữa hai nhóm nghiên cứu, nhóm ≥ 65 tuổi có  đau ngực điển hình là 36,13% thấp hơn rất nhiều  so với nhóm < 65 tuổi là 72,61% (p < 0,001). Đặc  điểm lâm sàng chung của hai nhóm nghiên cứu  được trình bày trong bảng 1.  Bảng 1. Đặc điểm lâm sàng chung của hai nhóm  nghiên cứu.  Đặc điểm Nhóm < 65 tuổi n = 157 Nhóm ≥ 65 tuổi n = 310 Giá trị p n % n % Giới tính <0,001Nam 127 80,90 191 61,60 Nữ 30 19,10 119 38,40 Tỷ lệ nam/nữ 4,23 1,6 Đau ngực điển hình 114 72,61 112 36,13 <0,001 Nhịp tim ≥100 chu kì/phút 31 19,75 84 27,10 0,082 ≤60 chu kì/phút 25 15,92 25 8,06 0,009 Đặc điểm Nhóm < 65 tuổi n = 157 Nhóm ≥ 65 tuổi n = 310 Giá trị p n % n % Huyết áp tâm thu ≥140 mmHg 36 23,23 96 31,58 0,062 ≤90 mmHg 4 2,58 16 5,26 0,183 BMI trung bình 23,06 ± 3,23 21,16 ± 3,07 <0,001 Các  yếu  tố  nguy  cơ  mạch  vành  giữa  hai  nhóm: nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp ở  nhóm  ≥ 65  tuổi cao hơn so với nhóm < 65  tuổi  (75,16% so với 52,87%, với p < 0,001). Hút thuốc  lá ở nhóm < 65 tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn ≥ 65 tuổi  (42,21% so với 14,24%, p < 0,001). Ngoài ra, tỷ lệ  bệnh nhân bị béo phì ở nhóm < 65 tuổi cao hơn  so với nhóm ≥ 65 tuổi (22,93% so với 9,42%, với  p < 0,001) (bảng 2).  Bảng 2. So sánh các yếu tố nguy cơ mạch vành giữa  hai nhóm nghiên cứu.  Yếu tố nguy cơ Nhóm < 65 tuổi n = 157 Nhóm ≥ 65 tuổi n = 310 Giá trị p Tăng huyết áp 83 (52,87%) 233 (75,16%) <0,001 Hút thuốc lá 65 (42,21%) 42 (14,24%) <0,001 Đái tháo đường 36 (23,84%) 89 (29,87%) 0,178 Rối loạn lipid máu 75 (50%) 120 (42,86%) 0,316 Béo phì (BMI ≥25) 36 (22,93%) 29 (9,42%) <0,001 Không có yếu tố nguy cơ 13 (8,28%) 33 (10,65%) 0,418 Thời gian từ lúc khởi phát triệu chứng đến  lúc  nhập  viện:  số  bệnh  nhân  <  65  tuổi  nhập  viện ≤ 6 giờ chiếm 55,8%, cao hơn so với nhóm  ≥  65  tuổi  chiếm  36,9%.  Ngược  lại,  thời  gian  nhập  viện  >  6  giờ  thì  nhóm  bệnh  nhân  ≥  65  tuổi chiếm tỷ lệ cao hơn nhóm < 65 tuổi, 63,1%  so với 44,2%, với p < 0,001. Có 13 bệnh nhân  (2,78%)  không  xác  định  được  thời  điểm  khởi  phát  triệu  chứng  chính  xác  nên  chúng  tôi  không đưa vào phân tích.  Đặc điểm cơn đau ngực: bệnh nhân < 65 tuổi  có biểu hiện cơn đau ngực điển hình hơn những  bệnh nhân ≥ 65 tuổi (72,61% so với 36,13%), còn  tỷ  lệ  đau  ngực  không  điển  hình  (20,38%)  và  không  đau  (7,01%)  thì  thấp  hơn  nhóm  bệnh  nhân  ≥ 65  tuổi  (các  tỷ  lệ đau ngực không  điển  hình và không đau ở nhóm ≥ 65 tuổi lần lượt là  34,19% và 29,68%). Sự khác biệt giữa hai nhóm  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  207 về triệu chứng đau ngực có ý nghĩa thống kê với  < 0,001 (bảng 3).  Bảng 3. Đặc điểm đau ngực của hai nhóm nghiên  cứu.  Đau ngực Nhóm < 65 tuổi n (%) Nhóm ≥ 65 tuổi n (%) Tổng số n (%) Giá trị p Điển hình 114 (72,61) 112 (36,13) 226 (48,39) <0,001 Không điển hình 32 (20,38) 106 (34,19) 138 (29,55) Không đau 11 (7,01) 92 (29,68) 103 (22,06) Tổng số 157 (100) 310 (100) 467 (100) Bảng 4 cho thấy ngoài triệu chứng đau ngực  ra, những triệu chứng khác đi kèm bao gồm mệt  chiếm  tỷ  lệ  84,48%  ở  nhóm  ≥  65  tuổi  cao  hơn  76,03% ở nhóm < 65 tuổi (p = 0,031). Vã mồ hôi  gặp nhiều ở nhóm < 65 tuổi hơn (81,33% so với  72,53% ở nhóm ≥ 65 tuổi, với p = 0,044).  Bảng 4. Tần suất các triệu chứng khác ngoài cơn đau  thắt ngực lúc nhập viện của hai nhóm nghiên cứu.  Các triệu chứng Nhóm < 65 tuổi n (%) Nhóm ≥ 65 tuổi n (%) Tổng số n (%) Giá trị p Mệt 111 (76,03) 245 (84,48) 356 (81,65) 0,031 Vã mồ hồi 122 (81,33) 198 (72,53) 320 (75,65) 0,044 Khó thở 77 (54,61) 219 (76,04) 296 (69) <0,001 Buồn nôn/nôn ói 7 (5,51) 17 (7,33) 24 (6,69) 0,51 Choáng váng 16 (12,50) 45 (19,07) 61 (16,76) 0,109 Ngất 5 (3,94) 7 (3,04) 12 (3,36) 0,433* Hồi hộp 6 (4,80) 18 (7,73) 24 (6,70) 0,291 * phép kiểm Fisher chính xác Khó thở cũng thường gặp ở nhóm ≥ 65 tuổi  hơn (76,04% so với 54,61% ở nhóm < 65 tuổi, với  p  <  0,001). Những  triệu  chứng khác như buồn  nôn,  nôn  ói,  choáng  váng,  ngất,  hồi  hộp  cũng  thấy ở hai nhóm nhưng với tỷ lệ thấp hơn và sự  khác  biệt  không  có  ý  nghĩa  thống  kê.  Có  4  trường hợp có triệu chứng rối loạn tri giác, trong  đó 3  trường hợp ở nhóm ≥ 65  tuổi và 1  trường  hợp  ở nhóm <65  tuổi. Có 2  trường hợp bị  đau  bụng chia đều cho cả hai nhóm  tuổi. Ngoài  ra,  chúng  tôi  còn  ghi nhận  thêm  4  trường  hợp  bị  tiêu chảy, 1  trường hợp bị đột quỵ, các  trường  hợp này đều xảy ra ở nhóm bệnh nhân ≥ 65 tuổi.  75.33% 55.91% 14% 26.52% 8% 12.19% 2.67% 5.38% Killip I Killip II Killip III Killip IV Nhóm <65 tuổi Nhóm ≥65 tuổi Biểu đồ 1. Phân độ Killip lúc nhập viện giữa hai  nhóm nghiên cứu.  Về phân độ Killip lúc nhập viện thì nhóm <  65 tuổi có Killip I chiếm đa số 75,33%, kế đến là  Killip  II 14%, Killip  III và  IV chiếm  tỷ  lệ  ít hơn  theo thứ tự là 8% và 2,67%; còn ở nhóm ≥65 tuổi  Killip I chiếm 55,91%, kế đến là Killip II 26,52%,  Killip III và IV là 12,19% và 5,38%, tỷ lệ Killip II,  III  và  IV  cao  hơn  so  với  nhóm  <65  tuổi  với  p  =0,001 (biểu đồ 1).  BÀN LUẬN  Tuổi  trung  bình  của  nhóm  bệnh  nhân  nghiên cứu  là 69,18 ± 13,28 (nhỏ nhất  là 32,  lớn  nhất  là 99);  trong  đó  tuổi  trung bình  ở nam  là  66,90 ± 13,58 (nhỏ nhất là 32, lớn nhất là 99); tuổi  trung bình ở nữ là 74,04 ± 11,20 (nhỏ nhất là 32,  lớn  nhất  là  97).  Tuổi  trung  bình  trong  nghiên  cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của một  số tác giả trong và ngoài nước khác như tác giả  Nguyễn Thị Hoàng Thanh là 64 ± 14,58(7), tác giả  Hoàng Nghĩa Đài là 61,4 ± 12,5(4) và tác giả Zahn  R  là  61,4  ±  12,5(16).  Sự  khác  biệt  này  có  thể do  bệnh viện Thống Nhất đa số  là cán bộ về hưu,  nên tuổi trung bình cao hơn.  Về giới  tính, nghiên cứu của chúng  tôi  cho  thấy sự khác biệt rất rõ. Nhóm ≥ và < 65 tuổi đều  có tỷ lệ nam chiếm đa số. Tỷ lệ nam/nữ ở nhóm  < 65  tuổi  là 4,23, nhóm  ≥ 65  tuổi  là 1,6 với p <  0,001. Kết  quả  này  hơi  cao  hơn  so  với  tác  giả  Holay MP(5). Nghiên cứu của  tác giả Holay MP  có tỷ lệ nam/nữ là 1,37/1 ở nhóm cao tuổi và 3/1  P = 0,001 Nghiên cứu Y học  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  208 ở  nhóm  bệnh  nhân  không  cao  tuổi.  Tỷ  lệ  nam/nữ ở nhóm ≥ 65  tuổi  thấp hơn nhóm < 65  tuổi,  điều này  cho  thấy  tỷ  lệ bệnh nhân nữ  bị  NMCT cấp tăng theo tuổi hơn so với bệnh nhân  nam nên tỷ lệ giới tính trở nên nhỏ hơn.  Trong các yếu tố nguy cơ được đánh giá thì  tăng  huyết  áp  là  yếu  tố  nguy  cơ  thường  thấy  nhất  ở bệnh nhân  ≥ 65  tuổi  (75,16%) bị NMCT  cấp  hơn  so  với  bệnh  nhân  <  65  tuổi  (52,87%),  trong khi đó thì tỷ  lệ hút thuốc  lá ở nhóm ≥ 65  tuổi  (14,24%)  ít  hơn  so  với  nhóm  <  65  tuổi  (42,21%). Kết  quả  này  cũng  gần  giống  với  kết  quả nghiên cứu của tác giả Roman C(2). Tỷ lệ hút  thuốc lá thấp ở người cao tuổi có thể là do người  cao tuổi bỏ thuốc lá khi tuổi cao và ở nhóm cao  tuổi thì số lượng nữ giới gia tăng, mà nữ giới thì  thường không hút thuốc lá. Điều này có thể cho  thấy hút thuốc lá ít là yếu tố nguy cơ của bệnh lý  tim mạch  ở  người  cao  tuổi(6).  Tỷ  lệ  béo  phì  ở  nhóm  ≥ 65  tuổi  thấp hơn nhóm < 65  tuổi, điều  này  có  thể  do  người  cao  tuổi  có  chế  độ  dinh  dưỡng không đủ về lượng và kém về chất, mặt  khác  người  cao  tuổi  hay  gặp  cảm  giác  giảm  thèm  ăn, giảm nhạy  cảm với  đói,  răng hư,  các  men  trong  dịch  tiêu  hóa  giảm  hoạt  tính,  khả  năng hấp thu giảm.  Khi đánh giá thời gian từ lúc khởi phát triệu  chứng đến lúc nhập viện, chúng tôi nhận thấy có  sự khác biệt về thời gian nhập viện. Bệnh nhân <  65 tuổi nhập viện ≤ 6 giờ từ  lúc khởi phát triệu  chứng  (55,8%)  cao  hơn  so  với  nhóm  ≥  65  tuổi  (36,9%). Ngược  lại,  thời gian nhập viện > 6 giờ  thì nhóm bệnh nhân  ≥  65  tuổi  chiếm  tỷ  lệ  cao  hơn nhóm < 65 tuổi (63,1% so với 44,2%, với p <  0,001). Thời gian nhập viện trễ được xem là lý do  chính ảnh hưởng đến điều  trị  tái  tưới máu cho  bệnh  nhân.  Kết  quả  này  cũng  tương  tự  với  nghiên cứu của tác giả Tresch DD và cộng sự(10).  Nhiều tác giả khác nhau trước đây đã nhấn  mạnh các biến đổi trong biểu hiện lâm sàng của  bệnh  nhân  cao  tuổi  bị  NMCT  cấp(10,11).  Trong  nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy bệnh nhân  cao tuổi bị NMCT cấp có biểu hiện cơn đau ngực  thấp  hơn  so  với  những  bệnh  nhân  không  cao  tuổi,  mà  thay  vào  đó  là  những  triệu  chứng  không đặc hiệu khác hoặc là không có đau ngực.  Bệnh nhân < 65  tuổi có  tỷ  lệ biểu hiện cơn đau  ngực điển hình cao hơn những bệnh nhân ≥ 65  tuổi (72,61% so với 36,13%), còn tỷ  lệ đau ngực  không điển hình (20,38%) và không đau (7,01%)  thì thấp hơn nhóm bệnh nhân ≥ 65 tuổi (các tỷ lệ  đau  ngực  không  điển  hình  và  không  đau  ở  nhóm ≥ 65 tuổi lần lượt là 34,19% và 29,68%). Tỷ  lệ đau ngực không điển hình ở nhóm ≥ 65  tuổi  trong nghiên cứu này tương tự với tác giả Woon  VC(14). Khó thở và những triệu chứng không đặc  hiệu khác như mệt,  choáng váng  cũng  thường  thấy  ở bệnh nhân  cao  tuổi hơn. Vã mồ hôi  thì  bệnh nhân không cao tuổi gặp nhiều hơn. Theo  tác giả Nguyễn Thiện Thành(8), ở người có  tuổi  chức năng về thần kinh có nhiều biến đổi, giảm  nhạy  cảm  với  đau,  mất  cân  bằng  trong  hoạt  động thần kinh thực vật, nhiều người hay xảy ra  tình  trạng  cường  giao  cảm  nhưng  không  ít  trường hợp bị cường phế vị.  Nghiên  cứu  của  chúng  tôi  cho  thấy  có  29,68% nhóm bệnh nhân ≥ 65 tuổi khi nhập viện  không có đau ngực, tỷ lệ này cao hơn rất nhiều  so với nhóm bệnh nhân < 65 tuổi, chỉ có khoảng  7%. Tỷ lệ những triệu chứng không đặc hiệu cao  ở bệnh nhân  cao  tuổi  có  thể do nhiều bệnh  lý  không  phải  tim  có  sẳn  hoặc  có  thể  do  những  bệnh nhân này đôi khi không thể mô tả những  triệu chứng một cách chính xác hoặc không nhớ  được những khó chịu của mình và có thể có sự  gia tăng ngưỡng đau(15).  Tại  thời  điểm  nhập  viện,  phân  độ  Killip  thường được sử dụng để phân tầng nguy cơ tử  vong  dựa  trên  một  nhóm  các  triệu  chứng.  Những bệnh nhân có phân độ Killip thấp thì  ít  nguy cơ tử vong trong 30 ngày đầu hơn so với  những bệnh nhân có phân độ Killip cao hơn(10).  Dựa trên phân độ Killip lúc nhập viện, chúng tôi  nhận thấy nhóm < 65 tuổi có Killip I chiếm đa số  75,33%, kế đến  là Killip  II 14%, Killip  III và  IV  chiếm  tỷ  lệ  ít hơn  theo  thứ  tự  là 8% và 2,67%;  còn ở nhóm ≥ 65  tuổi Killip  I chiếm 55,91%, kế  đến là Killip II 26,52%, Killip III và IV là 12,19%  Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013  Nghiên cứu Y học Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013  209 và 5,38%;  tỷ  lệ Killip  II,  III và  IV  ở nhóm  ≥ 65  tuổi cao hơn so với nhóm < 65 tuổi với p =0,001.  Tỷ lệ phân độ Killip nặng (> độ II) trong nghiên  cứu của chúng tôi cũng tương tự như của tác giả  Anna Polewczyk(9).  KẾT LUẬN  Có sự khác biệt trong các biểu hiện lâm sàng  của NMCT cấp ở những bệnh nhân ≥ 65 tuổi so  với bệnh nhân < 65 tuổi. Những bệnh nhân ≥ 65  tuổi  thường có  đau ngực không  điển hình, các  triệu chứng không  đặc hiệu như khó  thở, mệt,  không  đau  ngực  cao  hơn  so  với  những  bệnh  nhân < 65  tuổi. Bệnh nhân  ≥ 65  tuổi bị NMCT  cấp  thường  nhập  viện  trễ  hơn  và  có  phân  độ  Killip nặng cao hơn so với bệnh nhân < 65 tuổi.  TÀI LIỆU THAM KHẢO  1. Applegate  WB,  Graves  S,  et  al  (1984).  Acute  myocardial  infarction  in  elderly  patients.  Southern  Med  Journal  (77):  p.1127‐29.  2. Castello R, Algeria E, et al  (1988). Effect of age on  long‐term  prognosis of patients with myocardial infarction. International J  of Cardiology (2): pp. 221‐30.  3. Desai MM,  Zhang  P  (1999).  Surveillance  for morbidity  and  mortality among older adults. United States, 1995 ‐ 96. MMWR  (48): p. 7.  4. Hoàng Nghĩa Đài (2002). Các biến chứng của nhồi máu cơ tim  cấp ở người lớn tuổi. Luận văn Thạc sĩ Y học‐ Đại học Y dược  TP. HCM, tr. 27‐51.  5. Holay MP,  et  al  (2007). Clinical  profile  of  acute myocardial  infarction in elderly (prospective study). JAPI (55): pp. 188‐192.  6. Kannel WB  (1976).  Blood  pressure  and  the  development  of  cardio‐vascular disease  in  the  aged. Cardiology  in  the  old  age.  Caird  FI  Dall  JC,  Kennedy  RD.  New  York,  Plenum  press:  p.164.  7. Nguyễn Thị Hoàng Thanh, Nguyễn Thị Trúc (2003). Đặc điểm  nhồi máu cơ tim cấp tại bệnh viện đa khoa Đồng Nai. Kỹ yếu  tóm tắt báo cáo khoa học. Hội nghị khoa học Tim mạch khu  vực phía nam lần thứ VI, tr.195‐203.  8. Nguyễn Thiện Thành (2002). Những bệnh thường gặp ở người  có tuổi. NXB Y học, tr. 171‐195.  9. Polewczyk A, Janion M, et al (2008). Myocardial  infarction  in  the elderly: clinical and therapeutic differences. Kardiol Pol (66):  pp. 166–172.  10. Rott D, Behar S, Gottlieb S, et al (1997). Usefulness of the Killip  classification for early risk stratification of patients with acute  myocardial  infarction  in  the  1990s  compared  with  those  treated  in  the 1980s.  Israeli Thrombolytic Survey Group and  the Secondary Prevention Reinfarction Israeli Nifedipine Trial  (SPRINT) Study Group. Am J Cardiol (80): pp. 859‐6.  11. Smith SC, Gilpin E, Annve S, et al (1990). Outlook after acute  myocardial  infarction  in the very elderly compared with that  in patients aged 65 to 75 years. JACC (16): pp. 784‐92.  12. Tresch DD, Brady WJ, et al (1996). Comparison of elderly and  younger  patients  with  out  of  hospital  chest  pain.  Clinical  characteristics of AMI, therapy and outcomes. Arch Intern Med  (156): pp. 1089‐93.  13. Wang  SW,  Ren  GC,  Fun  S,  et  al  (1988).  Acute myocardial  infarction in elderly Chinese. Clinical analysis of 631 cases and  comparison with 389 younger cases. Apanese Heart Journal: pp.  301‐07.  14. Woon  VC,  Lim  KH  (2003).  Acute  MI  in  the  elderly  –  the  difference  compared with  the young. Singapore Med J; 44  (8):  pp. 414‐8.  15. Yang  XL,  Williams  JL,  Pardaens  J,  Gest  DE  (1987).  Acute  myocardial  infarction  in  very  elderly.  A  Comparison  with  younger age group. Acta Cardiological; XLII: pp. 59‐68.  16. Zahn R, et al (2000). Acute myocardial infarction occurring in  versus out of  the hospital: patient  characteristics and  clinical  outcome. J Am Coll Cardiol. 35(7): pp. 1820‐1826.  Ngày nhận bài báo        01‐7‐2013  Ngày phản biện nhận xét bài báo:      10‐7‐2013  Ngày bài báo được đăng:        01‐8‐2013 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_dac_diem_lam_sang_o_benh_nhan_nhoi_mau_co_tim_cap.pdf
Tài liệu liên quan