ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu hướng phát triển của thế giới hiện nay, con người ngày càng
phải chịu nhiều sức ép từ cuộc sống, từ công việc cũng như từ các mối quan
hệ xã hội. Chính vì vậy, các rối loạn liên quan với stress gặp ngày càng nhiều,
trong đó có các rối loạn dạng cơ thể (RLDCT). Theo Escobar (1987), Swartz
(1986), tỷ lệ mắc RLDCT trong dân số là 4 – 5% [24], [73]. Margot W.M. De
Waal (2004) nghiên cứu 1046 bệnh nhân đến khám tại các phòng khám đa
khoa, nhận thấy RLDCT là rối loạn tâm thần (RLTT) hay gặp nhất, chiếm
16,1% [75].
Rối loạn cơ thể hoá (RLCTH) là một loại RLDCT khá phổ biến, chiếm
khoảng 0,4 – 0,5% dân số [13], [43], đặc biệt cao ở nữ giới - khoảng 2% [13],
[52]. Bệnh cảnh lâm sàng của RLCTH rất đa dạng, gồm nhiều loại triệu
chứng cơ thể không giải thích được bằng các khám xét lâm sàng và cận lâm
sàng. Đồng thời, rối loạn này lại có khuynh hướng tiến triển mạn tính, tái
diễn, dai dẳng nhiều năm và gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chức năng
và lao động nghề nghiệp của bệnh nhân. Chính do các tính chất này mà bệnh
nhân đến khám ở rất nhiều chuyên khoa khác nhau và tâm lý của đa số bệnh
nhân là từ chối đến với bác sỹ tâm thần. Một số tác giả đã chỉ ra rằng tỷ lệ
mắc, mức độ trầm trọng và chi phí cho các dịch vụ y tế ở bệnh nhân RLCTH
tương đương với bệnh nhân tâm thần phân liệt - một trong những bệnh tâm
thần nặng nề nhất [45]. Thomassen và cộng sự (CS) (2003) nghiên cứu hồi
cứu thấy rằng RLCTH gây suy giảm chức năng và gây thất nghiệp nhiều hơn
các RLTT khác [74].
2
Nhiều nghiên cứu so sánh nhóm bệnh nhân RLCTH được khám chữa
bệnh bởi các bác sỹ tâm thần với nhóm chứng là các bệnh nhân RLCTH
không đến bác sỹ tâm thần, các tác giả đã nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt.
Smith và CS (1986) cho biết bệnh nhân RLCTH đến bác sỹ tâm thần giảm chi
phí chữa bệnh và giảm tỷ lệ nằm viện [52]. Thomassen cũng nhận thấy ở
những bệnh nhân này, các triệu chứng thuyên giảm nhanh hơn và việc sử
dụng các dịch vụ y tế cũng ít hơn so với nhóm chứng [74].
Do đó, việc phát hiện và đưa bệnh nhân đến khám chữa bệnh sớm tại
các cơ sở tâm thần học đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện triệu
chứng, đưa bệnh nhân trở lại cuộc sống bình thường cũng như giảm phí tổn
cho người bệnh.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng rối loạn cơ thể hoá” với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hoá.
72 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 2416 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG RỐI
LOẠN CƠ THỂ HÓA
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP BÁC SỸ NỘI TRÚ BỆNH VIỆN
HÀ NỘI - 2006
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
1
TRẦN THỊ HÀ AN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong xu hướng phát triển của thế giới hiện nay, con người ngày càng
phải chịu nhiều sức ép từ cuộc sống, từ công việc cũng như từ các mối quan
hệ xã hội. Chính vì vậy, các rối loạn liên quan với stress gặp ngày càng nhiều,
trong đó có các rối loạn dạng cơ thể (RLDCT). Theo Escobar (1987), Swartz
(1986), tỷ lệ mắc RLDCT trong dân số là 4 – 5% [24], [73]. Margot W.M. De
Waal (2004) nghiên cứu 1046 bệnh nhân đến khám tại các phòng khám đa
khoa, nhận thấy RLDCT là rối loạn tâm thần (RLTT) hay gặp nhất, chiếm
16,1% [75].
Rối loạn cơ thể hoá (RLCTH) là một loại RLDCT khá phổ biến, chiếm
khoảng 0,4 – 0,5% dân số [13], [43], đặc biệt cao ở nữ giới - khoảng 2% [13],
[52]. Bệnh cảnh lâm sàng của RLCTH rất đa dạng, gồm nhiều loại triệu
chứng cơ thể không giải thích được bằng các khám xét lâm sàng và cận lâm
sàng. Đồng thời, rối loạn này lại có khuynh hướng tiến triển mạn tính, tái
diễn, dai dẳng nhiều năm và gây ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chức năng
và lao động nghề nghiệp của bệnh nhân. Chính do các tính chất này mà bệnh
nhân đến khám ở rất nhiều chuyên khoa khác nhau và tâm lý của đa số bệnh
nhân là từ chối đến với bác sỹ tâm thần. Một số tác giả đã chỉ ra rằng tỷ lệ
mắc, mức độ trầm trọng và chi phí cho các dịch vụ y tế ở bệnh nhân RLCTH
tương đương với bệnh nhân tâm thần phân liệt - một trong những bệnh tâm
thần nặng nề nhất [45]. Thomassen và cộng sự (CS) (2003) nghiên cứu hồi
cứu thấy rằng RLCTH gây suy giảm chức năng và gây thất nghiệp nhiều hơn
các RLTT khác [74].
2
Nhiều nghiên cứu so sánh nhóm bệnh nhân RLCTH được khám chữa
bệnh bởi các bác sỹ tâm thần với nhóm chứng là các bệnh nhân RLCTH
không đến bác sỹ tâm thần, các tác giả đã nhận thấy có sự khác biệt rõ rệt.
Smith và CS (1986) cho biết bệnh nhân RLCTH đến bác sỹ tâm thần giảm chi
phí chữa bệnh và giảm tỷ lệ nằm viện [52]. Thomassen cũng nhận thấy ở
những bệnh nhân này, các triệu chứng thuyên giảm nhanh hơn và việc sử
dụng các dịch vụ y tế cũng ít hơn so với nhóm chứng [74].
Do đó, việc phát hiện và đưa bệnh nhân đến khám chữa bệnh sớm tại
các cơ sở tâm thần học đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện triệu
chứng, đưa bệnh nhân trở lại cuộc sống bình thường cũng như giảm phí tổn
cho người bệnh.
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng rối loạn cơ thể hoá” với mục tiêu:
Mô tả đặc điểm lâm sàng rối loạn cơ thể hoá.
3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. LỊCH SỬ VÀ KHÁI NIỆM RLDCT VÀ RLCTH
1.1.1. Rối loạn dạng cơ thể
Trong lịch sử phát triển tâm thần học, các triệu chứng của RLDCT đã
được mô tả từ lâu. Trước đây, chúng được xếp trong các bệnh tâm căn như
trong bệnh tâm căn Hysteria, tâm căn suy nhược, bệnh cơ thể tâm sinh, hội
chứng nghi bệnh và hội chứng trầm cảm. Một số tác giả còn mô tả các triệu
chứng này trong bệnh tâm thần phân liệt tiến triển lờ đờ [4], [7]. Cho đến năm
1980, lần đầu tiên thuật ngữ “Rối loạn dạng cơ thể” được đưa ra trong Bảng
Chẩn đoán và Thống kê RLTT lần thứ III của Hội Tâm thần học Mỹ (DSM –
III) để chỉ một nhóm rối loạn được đặc trưng bởi: “các triệu chứng cơ thể gợi
ý đến một bệnh lý cơ thể nhưng không phát hiện thấy tổn thương thực thể
cũng như không giải thích được bằng các cơ chế sinh lý học đã biết, mà có
những bằng chứng cho thấy mối liên quan giữa các triệu chứng đó với các
xung đột hoặc các yếu tố tâm lý” [44], [52], [53]. Như vậy, từ đây, các triệu
chứng cơ thể được biệt định thành một nhóm bệnh với những đặc trưng và
quy luật phát triển riêng biệt.
Với một số cải biên nhỏ, tên gọi nhóm bệnh này vẫn được giữ trong
DSM - III - R (1987) và trong DSM – IV (1994). Theo DSM – IV, đặc trưng
của RLDCT là hai đặc điểm lâm sàng kéo dài: Thứ nhất, những than phiền về
các triệu chứng cơ thể gợi ý đến bệnh lý thực thể mà không giải thích được
bằng các thăm khám và xét nghiệm. Thứ hai, các xung đột và yếu tố tâm lý
đóng vai trò quan trọng trong sự bắt đầu, duy trì và tiến triển của tình trạng
bệnh. Mối quan tâm về triệu chứng cơ thể tuy chưa đạt tới mức hoang tưởng,
4
ngoại trừ trong rối loạn biến hình cơ thể, nhưng làm hạn chế đáng kể các hoạt
động chức năng, xã hội, nghề nghiệp của bệnh nhân. Niềm tin lệch lạc đó của
bệnh nhân dẫn đến việc họ cố thuyết phục rằng họ có bệnh lý thực thể nhưng
chưa được tìm thấy và có xu hướng đến khám và chữa bệnh ở nhiều bác sỹ và
cơ sở y tế khác nhau mà không đến ngay với thầy thuốc chuyên khoa tâm
thần. Trong DSM – IV, RLDCT bao gồm: RLCTH, RLDCT không biệt định,
rối loạn chuyển di, rối loạn đau, rối loạn nghi bệnh, rối loạn biến hình cơ thể
và RLDCT không biệt định khác[37], [44], [53].
Còn theo hệ thống phân loại bệnh quốc tế - ICD thì cho đến ICD – 9
(1978) cũng vẫn xếp RLDCT trong các bệnh tâm căn Hysteria, bệnh tâm căn
nghi bệnh và rối loạn chức năng sinh lý có nguồn gốc tâm căn. Phải đến ICD
– 10 (1992) thì RLDCT mới được coi là một nhóm bệnh độc lập gồm các
RLTT biểu hiện bằng các triệu chứng cơ thể chủ quan, tái diễn cùng với các
yêu cầu đòi hỏi được khám xét nhiều lần về y tế, mặc dầu các kết quả khám
nghiệm đều âm tính và được các thầy thuốc đảm bảo rằng các triệu chứng này
không có cơ sở bệnh cơ thể, và nếu có bất kỳ rối loạn cơ thể nào thì chúng
cũng không giải thích được bản chất và phạm vi của các triệu chứng hoặc sự
đau khổ, bận tâm của bệnh nhân [3], [8]. Các RLDCT khởi đầu và duy trì liên
quan đến sự kiện đời sống khó chịu hoặc với những khó khăn hay xung đột.
RLDCT, theo ICD – 10, bao gồm: RLCTH, RLDCT không biệt định, rối loạn
nghi bệnh, rối loạn thần kinh tự trị dạng cơ thể, rối loạn đau dạng cơ thể dai
dẳng và các RLDCT khác[4], [9], [53].
Tuy có một số điểm khác biệt về tiêu chuẩn chẩn đoán và tên gọi của
các thể bệnh nhưng nhìn chung, các rối loạn trong RLDCT ở hai bảng phân
loại bệnh tâm thần lớn nhất thế giới này là trùng nhau ngoại trừ trường hợp
rối loạn chuyển di. Trong DSM – IV, rối loạn chuyển di và rối loạn phân ly
được tách riêng, rối loạn chuyển di nằm trong các RLDCT còn rối loạn phân
5
ly là một nhóm khác. Trong ICD – 10, rối loạn chuyển di và rối loạn phân ly
được xếp chung thành một nhóm và không thuộc nhóm các rối loạn dạng cơ
thể [9], [10],[35], [37].
1.1.2. Rối loạn cơ thể hoá
Lịch sử của thuật ngữ “RLCTH” rất phức tạp. Trước đây, trải qua nhiều
thế kỷ, có hai hội chứng được mô tả: Hội chứng đơn triệu chứng
(monosymptomatic syndrom) và hội chứng đa triệu chứng (polysymptomatic
syndrom). Ngày nay, hội chứng đơn triệu chứng được gọi là rối loạn chuyển
di (conversion disorder) và hội chứng đa triệu chứng được gọi là RLCTH
(somatization disorder). Hai rối loạn này thường có mối liên hệ với nhau và
thường lẫn vào nhau [44].
RLCTH đã từng có nhiều tên gọi mà đầu tiên là hysteria - hội chứng
được mô tả từ cách đây ít nhất 4000 năm bởi người Ai Cập cổ. Hysteria, theo
tiếng Hy Lạp, nghĩa là tử cung, người Ai Cập lúc đó cho rằng Hysteria được
gây ra bởi sự di chuyển của tử cung và sự đổi chỗ của các cơ quan khác. Sự di
chuyển của tử cung khắp cơ thể là cơ sở gây ra hiện tượng đa triệu chứng. Từ
thế kỷ 17, người ta bắt đầu nghi ngờ về nguồn gốc tử cung của Hysteria.
Thomas Syndenham đã không những tách hysteria ra khỏi nguồn gốc tử cung
mà còn gắn nó với những rối loạn tâm lý mà lúc bấy giờ gọi là “những sầu
muộn trước đây” (antecedent sorrows), tức là đề cập nguồn gốc cảm xúc của
rối loạn này. Hơn nữa, Syndenham cũng lần đầu tiên nhận thấy hysteria ở đàn
ông [22], [44].
Năm 1859, Paul Briquet nhấn mạnh khía cạnh đa triệu chứng và tiến
triển kéo dài của rối loạn này. Ông thông báo 430 trường hợp ở bệnh viện
Charite – Paris, tập trung vào đặc điểm đa triệu chứng. Briquet cũng ghi nhận
rối loạn này ở đàn ông và cho rằng nguyên nhân gây bệnh là cảm xúc, cho tới
năm 1970, ghi nhận những đóng góp to lớn của P. Briquet, người ta dùng
6
thuật ngữ “Hội chứng Briquet” hay “Bệnh Briquet” để biểu thị rối loạn
hysteria đa triệu chứng. Tên gọi này tồn tại cho đến khi xuất bản DSM - III
(1980), kể từ đây tên gọi RLCTH ra đời[44], [52].
Trong lịch sử của DSM, lần xuất bản đầu tiên (1952), RLCTH được
xếp trong các rối loạn nguồn gốc tâm sinh. Ở lần xuất bản thứ 2 (1968) -
DSM – II, RLCTH nằm trong bệnh tâm căn nghi bệnh. Khi trở thành một
nhóm riêng, RLCTH trong DSM – III yêu cầu 14 triệu chứng đối với phụ nữ
và 12 triệu chứng đối với đàn ông trong số 37 triệu chứng liệt kê thuộc hệ
thống dạ dày - ruột, đau, giả thần kinh, tình dục... DSM - III - R (1987) chỉ
yêu cầu 13 trong số 35 triệu chứng cơ thể và không phân biệt giữa phụ nữ và
đàn ông. Tiêu chuẩn chẩn đoán RLCTH trong DSM – IV đòi hỏi có ít nhất 8
triệu chứng bao gồm 4 triệu chứng đau, 2 triệu chứng dạ dày - ruột, 1 triệu
chứng về hoạt động tình dục và sinh sản và 1 triệu chứng giả thần kinh [17].
Như vậy, đặc điểm cốt lõi của RLCTH là các triệu chứng cơ thể nhiều
loại, tái diễn, diễn ra nhiều năm trước khi đến với thầy thuốc tâm thần mà
không thể giải thích đầy đủ bởi các yếu tố cơ thể, thường dẫn đến sự chú ý về
bệnh cơ thể và gây suy giảm đáng kể các hoạt động chức năng của bệnh nhân.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU RLCTH TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
1.2.1. Dịch tễ học
1.2.1.1. Tỷ lệ mắc chung
Tỷ lệ RLCTH chiếm khoảng 0,5% dân số chung và chiếm 5 – 10%
bệnh nhân ở các phòng khám đa khoa [13]. Theo Kaplan – Sadock, tỷ lệ
RLCTH là 0,13% dân số và chiếm 5% bệnh nhân ở cơ sở khám chữa bệnh
ban đầu [44]. Đa số các tác giả đều nhận định rằng RLCTH chiếm tỷ lệ không
cao trong quần thể dân số chung nhưng lại khá phổ biến ở các cơ sở dịch vụ y
tế [26], [32], [33].
7
Ở Việt Nam, sau khi ICD – 10 ra đời, đã có một số đánh giá về RLDCT
như cuộc hội thảo quốc gia tâm thần học chuyên đề chương F4 (F40 – F48) –
“Các rối loạn tâm căn có liên quan đến stress và RLDCT” năm 1992 về các
đơn thể bệnh trong RLDCT, cũng có một số nghiên cứu như “Rối loạn nghi
bệnh” của Trần Viết Nghị, Trần Hữu Bình, Nguyễn Viết Thiêm (1992), “Rối
loạn đau dai dẳng” của Nguyễn Viết Thiêm, Trần Hữu Bình, Đồng Minh Tiệp
(1992) và “Rối loạn cơ thể hoá” của Trần Hữu Bình (1992) [3].
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu có hệ thống nào về
RLCTH, nhất là RLCTH theo tiêu chuẩn DSM.
1.2.1.2. Tuổi
Đa số các tác giả cho rằng RLCTH thường khởi phát trước tuổi 30 [37],
[44], [53], [57]. Holloway (2000) cho rằng những triệu chứng đầu tiên của
RLCTH xuất hiện từ tuổi thành niên và đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán khi 30
tuổi [40]. Tuy nhiên, ICD – 10 không yêu cầu tiêu chuẩn tuổi khởi phát mà
chỉ cần các triệu chứng kéo dài ít nhất 2 năm [9].
1.2.1.3. Giới
RLCTH gặp ở nữ nhiều hơn ở nam, tỷ lệ nữ/nam xấp xỉ 10/1 [48], [58].
RLCTH chiếm khoảng 2% quần thể nữ giới [13], [53]. Cloninger và
cộng sự (1984) nhận thấy 3% RLCTH ở 859 phụ nữ Thuỵ Điển [19]. Gordon
Neligh cũng thấy RLCTH ở 1% phụ nữ [58].
1.2.1.4. Khu vực sống và tình trạng văn hoá xã hội
Swartz và cộng sự nhận thấy một số đặc điểm của bệnh nhân RLCTH
là da màu, độc thân, ở nông thôn và có trình độ văn hoá thấp [25], [27], [72].
Gordon Neligh cũng khẳng định RLCTH hiếm gặp hơn ở những người có
trình độ văn hoá cao và cho rằng tỷ lệ mắc RLCTH khác nhau giữa các nền
văn hoá và các chủng tộc [58].
8
1.2.2. Bệnh học
Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của RLCTH đến nay vẫn chưa được
biết rõ nhưng có rất nhiều giả thuyết lý giải triệu chứng của rối loạn này
1.2.2.1 Giả thuyết về yếu tố di truyền và yếu tố gia đình
Từ thế kỷ 19, Briquet đã nhận thấy tính chất gia đình của hysteria đa
triệu chứng [52]. RLCTH được quan sát thấy ở 10 đến 20% phụ nữ họ hàng
bậc một của bệnh nhân nữ RLCTH. Nam giới có quan hệ họ hàng với bệnh
nhân nữ RLCTH có nhiều khả năng mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội
và rối loạn liên quan đến sử dụng chất [18]. Có tác giả cho rằng RLCTH và
rối loạn nhân cách chống đối xã hội có thể có chung một nền tảng di truyền,
và RLCTH ở nữ tương ứng với rối loạn nhân cách chống đối xã hội ở nam
[19], [37], [44], [58].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cả yếu tố di truyền và yếu tố môi
trường đều có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc rối loạn nhân cách chống đối xã
hội, rối loạn liên quan sử dụng chất và RLCTH. Một người có cha mẹ đẻ hoặc
cha mẹ nuôi mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội và rối loạn liên quan sử
dụng chất hay RLCTH thì khả năng mắc các rối loạn này sẽ cao hơn [37].
Ở những trẻ em sống trong hoàn cảnh có xung đột như cha mẹ ly hôn,
nghèo đói hay lạm dụng rượu cũng thấy tăng nguy cơ mắc RLCTH [58].
1.2.2.2 Giả thuyết thực tổn
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy mối liên quan giữa RLCTH và bệnh lý
não. Slater [68], Merskey và Buhrich [55] đã nhận thấy mối tương quan giữa
RLCTH và bệnh lý não, đặc biệt là với động kinh và xơ cứng rải rác.
Một số tác giả nghiên cứu về tâm thần - thần kinh học cho biết khả
năng về chú ý và trí nhớ ở bệnh nhân RLCTH giảm [53],[59]. Kết quả một số
nghiên cứu khác cũng cho thấy có sự giảm chức năng thuỳ trán hai bên, đặc
9
biệt là bán cầu không ưu thế ở bệnh nhân RLCTH [28], [56]. RLCTH còn liên
quan với nồng độ cortisol máu 24 giờ và với huyết áp tâm thu [47],[63].
Tuy nhiên các tác giả này cũng nhấn mạnh rằng mối liên quan giữa
RLCTH và bệnh lý thực thể, đặc biệt là bệnh lý não là không đặc hiệu.
1.2.2.3 Giả thuyết tâm lý xã hội
“Hành vi đau ốm” (Illness behaviour) là một cụm từ phù hợp cho
RLCTH. Cụm từ này được Mechanic đề cập đến từ những năm 1970 để chỉ
hành vi của một người khi bị ốm như là đi nằm nghỉ, sử dụng thuốc, đi khám
bệnh hoặc tới một khoa cấp cứu (khi đó, trở thành một bệnh nhân). Những
người này tự nhận thấy mình ốm mà không ý thức được bản chất của bệnh là
dù nặng hay nhẹ, thực tổn hay tâm thần đều không phù hợp với hành vi đau
ốm mà họ thể hiện [54].
Thuyết tập nhiễm cho rằng hành vi học được trong suốt quá trình trải
nghiệm. Khi các hành vi này xuất hiện hoặc nặng lên thì bệnh nhân đạt được
điều mình muốn và ngược lại. Vì thế, RLCTH được coi như một phương thức
thích nghi của bệnh nhân nhằm đạt được các nhu cầu xã hội.
Một đứa trẻ khi thấy bố mẹ hay anh chị mắc bệnh, đặc biệt là các bệnh
nặng và mạn tính, có thể học được hành vi đau ốm, lớn lên phát triển thành
RLDCT. Những trải nghiệm bệnh tật trước đây cũng là một yếu tố quan trọng
trong bệnh sinh RLCTH. Người ta cũng thấy rằng bố của những phụ nữ
RLCTH có khả năng mắc rối loạn nhân cách chống đối xã hội cao. Sự ảnh
hưởng này là do yếu tố di truyền, yếu tố tâm lý xã hội hay do cả hai vẫn chưa
được biết rõ [46], [52], [57].
Thuyết phân tâm cổ điển cho rằng các triệu chứng cơ thể là biểu hiện
của các xung đột bản năng dồn nén bên trong [44]. Thuyết phân tâm coi
những xung đột với cha, mẹ hoặc những khó khăn trong việc kiểm soát và
10
điều chỉnh thái độ công kích (aggression) và tâm trạng bất toại (frustration)
đóng vai trò quan trọng trong nhiều trường hợp RLCTH [52].
Thầy thuốc cũng có thể góp phần gây RLCTH. Nếu bệnh nhân không
được chăm sóc tốt và phải chịu những thủ tục khám chữa bệnh phiền hà, phức
tạp và tốn kém thì rất có thể những phàn nàn của họ sẽ trở nên sâu đậm và
bệnh lý hoá. Ở những bệnh nhân này, yếu tố y sinh có ý nghĩa lớn trong cơ
chế bệnh sinh [52].
Yếu tố nhân cách có ảnh hưởng tới sự phát sinh RLCTH. Những bệnh
nhân RLCTH thường có rối loạn nhân cách, đặc biệt là các loại rối loạn nhân
cách nhóm B [71]. Những nét nhân cách lệ thuộc - thụ động (passive -
dependent), kịch tính (histrionic) và cảm tính – xâm hại (sensitive –
aggressive) gặp ở bệnh nhân RLCTH cao gấp hai lần ở bệnh nhân lo âu và
trầm cảm. Tỷ lệ mắc RLCTH ở bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới cũng
thấy tương đối cao [52]. Yếu tố nhân cách còn liên quan tới bệnh sinh
RLCTH theo cách thức khác như trong khái niệm “mù đọc cảm xúc”
(Alexithymia), thuật ngữ này dựa trên quan niệm phân tâm rằng bệnh nhân cơ
thể hoá vì không thể diễn tả cảm xúc thành lời [44].
Các sự kiện trong cuộc sống cũng có thể thúc đẩy RLCTH. Một số tác
giả đã nghiên cứu vai trò của các sự kiện không thuận lợi và lợi lộc thứ phát
trong các RLTT. Họ nhận thấy các sự kiện không thuận lợi có ở tất cả các
RLTT nhưng lợi lộc thứ phát lại phổ biến hơn ở bệnh nhân cơ thể hoá. Họ
cũng đưa ra 3 lý do giải thích RLCTH: Một là, sự khác biệt mang tính cá thể
về khí chất và phản ứng sinh lý học. Hai là, yếu tố xã hội, văn hoá và ngôn
ngữ. Ba là, những trải nghiệm bệnh tật trước đó, khi còn nhỏ những bệnh
nhân này bị bỏ mặc và chỉ được chú ý đến khi bị ốm [20].
11
1.3. TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG CỦA RLCTH
1.3.1 Đặc điểm lâm sàng đặc trưng [4] [12] [22] [37] [44] [53] [57]
* Các triệu chứng cơ thể thường gặp ở phụ nữ tuổi 30, xuất hiện ít nhiều liên
quan đến các stress, tái diễn thay đổi theo thời gian mà bệnh nhân than phiền
nhiều năm. Các triệu chứng này có thể liên quan đến mọi bộ phận, hệ thống
trong cơ thể.
- Đau:
+ Vị trí: trong quá trình phát triển bệnh, đau xuất hiện thay đổi ở nhiều vị
trí và hoạt động như đau đầu, ngực, lưng, bụng, khớp, đau khi có kinh, đau
khi giao hợp, đau khi đi tiểu...
+ Tính chất: đau thường khó mô tả rõ ràng và không nêu được chính xác
thời điểm khởi phát. Đau thường tản mạn, không khu trú và thay đổi theo cảm
xúc của bệnh nhân. Hơn nữa, đau ở đây thường ít hoặc không thay đổi khi
dùng thuốc giảm đau thông thường nhưng lại giảm hoặc mất đi khi dùng rượu
hoặc thuốc hướng thần.
- Các triệu chứng dạ dày - ruột: Hầu hết các triệu chứng chức năng ở hệ
thống dạ dày - ruột đều có thể gặp ở bệnh nhân RLCTH: ăn không ngon, đầy
bụng khó tiêu, ợ hơi, buồn nôn, nôn, táo bón, ỉa chảy...
- Các triệu chứng hệ sinh dục - tiết niệu:
+ Kinh nguyệt không đều, mất kinh, kinh kéo dài, lãnh đạm, bất lực, xuất
tinh sớm, cường dương...
+ Đái khó, đái dắt, đau vùng thắt lưng kéo dài...
- Các triệu chứng thần kinh:
+ Rối loạn chức năng vận động và cảm giác: chóng mặt, rối loạn phối
hợp động tác, mất thăng bằng, liệt khu trú, khó nuốt, nuốt nghẹn, mất cảm
giác hay giác quan.
12
+ Rối loạn chức năng cao cấp của hệ thần kinh: mất trí nhớ, mất ý thức,
lên đồng...
- Các triệu chứng hệ tim mạch, hô hấp:
+ Triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật: tim đập nhanh, tức ngực, vã
mồ hôi.
+ Khó thở, thở nhanh, cảm giác tức nặng vùng ngực.
- Rối loạn cảm giác trên da: ngứa, bỏng rát ...
* Các triệu chứng cơ thể này ảnh hưởng rõ rệt đến cuộc sống hàng ngày và
công việc nghề nghiệp của bệnh nhân. Bệnh nhân luôn tin mình có bệnh cơ
thể nên đòi hỏi phải được khám và điều trị nhiều lần tại các dịch vụ y tế ban
đầu và các chuyên khoa khác nhau.
Kết quả khám cơ thể và xét nghiệm cận lâm sàng không cắt nghĩa được đầy
đủ các triệu chứng trên.
Các phương pháp điều trị, thậm chí cả phẫu thuật ít có hiệu quả nhưng thường
đưa đến lạm dụng thuốc, đôi khi nghiện thuốc.
1.3.2 Các rối loạn phối hợp
* Các RLTT thường gặp nhất ở bệnh nhân RLCTH là rối loạn trầm cảm, rối
loạn lo âu và rối loạn nhân cách [12], [40], [44], [69].
Theo Kaplan – Sadock (1995), hơn một nửa số bệnh nhân RLCTH
trong quá trình bệnh có kèm trầm cảm. Holloway (2000) cũng cho rằng 55%
bệnh nhân RLCTH có trầm cảm.
Rối loạn lo âu thường gặp là ám ảnh, rối loạn hoảng sợ và rối loạn lo âu
lan toả. Theo Holloway, 34% bệnh nhân RLCTH là có kèm rối loạn lo âu,
26% kèm rối loạn hoảng sợ.
Rối loạn nhân cách gặp ở 26% bệnh nhân RLCTH gồm rối loạn nhân
cách kịch tính và rối loạn nhân cách chống đối xã hội.
13
* Một số hành vi bất thường hay gặp ở bệnh nhân RLCTH [44].
Đe doạ tự sát thường thấy nhưng mang tính chất điệu bộ, hình thức chứ
hiếm khi cố gắng tự sát của bệnh nhân dẫn đến tử vong hoặc suýt tử vong.
Thường xuyên đến gặp bác sỹ và thường chuyển từ bác sỹ này sang bác
sỹ khác.
Trong trường hợp điển hình, bệnh nhân RLCTH có những vấn đề trong
hôn nhân như: ly dị, ly thân và tái hôn, họ luôn gặp trục trặc trong công việc,
và thường không có khả năng duy trì công việc của mình.
1.3.3 Tiến triển và tiên lượng [6], [44], [52], [53].
RLCTH thường tiến triển mạn tính, dao động, tái diễn. Chưa có
phương pháp điều trị đặc hiệu.
Bệnh thường khởi phát từ giữa hoặc cuối tuổi thành niên nhưng cũng
có khi muộn hơn vào tuổi 30.
Trong trường hợp điển hình, bệnh nhân xuất hiện một hoặc nhiều triệu
chứng mới trong khi có sang chấn tâm lý. Chưa có bằng chứng về khoảng
thời gian diễn biến bệnh nhưng trên lâm sàng nhận thấy một giai đoạn điển
hình kéo dài 6 đến 9 tháng, cùng với những giai đoạn bệnh ổn định từ 9 tháng
đến 1 năm. Ít khi gặp bệnh nhân diễn biến hơn 1 năm mà không có sự phát
sinh một triệu chứng mới hoặc không có sự tìm kiếm điều trị mới. Sang chấn
tâm lý dường như xảy ra đồng thời với sự xuất hiện triệu chứng mới hoặc với
sự thay đổi nhu cầu điều trị
1.4. CÁC TRẮC NGHIỆM TÂM LÝ [1], [21].
Các trắc nghiệm tâm lý không có giá trị chẩn đoán xác định RLCTH mà
chỉ nhằm sơ bộ đánh giá một số nét nhân cách, và giúp xác định các rối loạn
tâm thần phối hợp như lo âu, trầm cảm.
14
1.4.1 Thang đánh giá nhân cách nhiều pha MMPI (Minnesota
Multiphasic Personality Inventory)
Thang đánh giá nhân cách nhiều pha của trường Đại học Minnesota
(Từ đây, chúng tôi xin được dùng cụm từ “Test MMPI”) do hai tác giả Mỹ S.
R. Hathaway - Tiến sĩ tâm lý học và J. C. Mc. Kinley - Tiến sĩ y học xây dựng
từ năm 1941 cho đến nay, sau hơn 60 năm, bộ test này vẫn còn được sử dụng
rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới, tại các cơ sở khám chữa bệnh tâm thần
nhằm hỗ trợ các nhà lâm sàng trong chẩn đoán, hướng dẫn điều trị và trong
công việc giám định.
Cấu trúc của bộ test: Bộ test gồm 3 thang hiệu lực và 10 thang lâm
sàng.
- 3 thang hiệu lực:
L (lie): kiểm tra sự thành thật của đối tượng
F (fix): kiểm tra giá trị ứng nghiệm của toàn bộ test
K (key): để hiệu chỉnh một số thang lâm sàng, đánh giá thái độ của đối
tượng đối với test.
- 10 thang lâm sàng:
Hd (Hypochondria): nghi bệnh
D (Depression): trầm cảm
Hy (Hysteria): rối loạn phân ly
Pd (Personality Deviation): lệch lạc nhân cách
Mf (Masculinity femininity): giới tính
Pa: Paranoia
Pt (Psychasthenia): lo âu, suy nhược
Sc (Schizophrenia): tâm thần phân liệt
Ma (Hypomania): hưng cảm nhẹ
Si (Social introvertion): tránh né xã hội
15
1.4.2 Thang đánh giá trầm cảm của Beck (Beck Depression Inventory -
BDI)
Bậc thang đánh giá trầm cảm do A. T. Beck và cộng sự giới thiệu năm
1974 từ những quan sát lâm sàng bệnh nhân trầm cảm (Từ đây, chúng tôi xin
được dùng cụm từ “Test Beck”). Trắc nghiệm này nhằm đánh giá lâm sàng và
thực nghiệm cường độ trầm cảm, dự đoán tiến triển của hội chứng trầm cảm.
Test Beck được TCYTTG thừa nhận để đánh giá trạng thái trầm cảm và hiệu
quả của các phương pháp điều trị.
Test có 21 mục, ghi từ 1 đến 21, bao gồm 95 mục nhỏ thể hiện trạng
thái cảm xúc của đối tượng với 4 mức độ được ghi điểm mẫu từ 0 đến 3. Tổng
số điểm: 21 × 3 = 63.
Đánh giá kết quả:
Tổng số điểm < 14: bình thường
Từ 14 – 19 : trầm cảm nhẹ
Từ 20 – 29 : trầm cảm vừa
> 30 : trầm cảm nặng
1.4.3 Thang tự đánh giá lo âu của Zung (Self Rating Anxiety Scale -
SAS)
Bậc thang đánh giá lo âu do Zung W. K đề xuất năm 1980 (Từ đây
chúng tôi xin được dùng cụm từ “Test Zung”), được coi là tiêu chuẩn để đánh
giá lo âu, là thông tin trực tiếp, nhất quán từ người bệnh, là một trắc nghiệm
khách quan định lượng hoá và chuẩn hoá, sử dụng nhanh. Test Zung cũng
được TCYTTG thừa nhận là một test đánh giá trạng thái lo âu và hiệu quả của
các phương pháp điều trị lo âu.
Test gồm 20 mục xếp từ 1 đến 20, cho điểm theo 4 mức độ thời gian
xuất hiện triệu chứng từ 1 đến 4 điểm.
Đánh giá kết quả: Điểm tối đa là 20 × 4 = 80.
16
Kết quả được tính bằng %80
X
× (X là số điểm tính được từ 20 mục
trên). Nếu kết quả trên 50%: lo âu bệnh lý.
1.5. CHẨN ĐOÁN RỐI LOẠN CƠ THỂ HOÁ
1.5.1 Chẩn đoán xác định
1.5.1.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM – IV [37].
A. Có nhiều triệu chứng cơ thể, bắt đầu trước tuổi 30, kéo dài nhiều năm, luôn
tìm kiếm sự điều trị, ảnh hưởng rõ rệt đến làm việc và hoạt động xã hội.
B. Phải có các triệu chứng sau (xuất hiện ở một thời điểm nào đó của bệnh):
- 4 triệu chứng đau: có triệu chứng đau ở ít nhất 4 vị trí hay hoạt động khác
nhau (ví dụ đau đầu, bụng, lưng, khớp, tứ chi, ngực, trực tràng, đau khi có
kinh, đau khi giao hợp, đau khi đi tiểu)
- 2 triệu chứng dạ dày - ruột: có ít nhất 2 triệu chứng dạ dày - ruột không phải
đau (ví dụ buồn nôn, nôn, đầy bụng, tiêu chảy, kém hấp thu)
- 1 triệu chứng về hoạt động tình dục, sinh sản: ít nhất 1 triệu chứng về hoạt
động tình dục, sinh sản không phải đau (lãnh đạm, cường dương, xuất tinh,
kinh nguyệt không đều hay kéo dài, nôn nhiều khi có thai...).
- 1 triệu chứng giả các triệu chứng thần kinh: có ít nhất 1 triệu chứng gợi ý
đến bệnh lý thần kinh không phải đau
Các triệu chứng “chuyển di”: rối loạn phối hợp động tác, thăng bằng, liệt khu
trú, khó nuốt, nuốt nghẹn, mất tiếng, bí tiểu, các ảo giác, mất cảm giác sờ hay
đau, nhìn đôi, mù, điếc, co giật...
Các triệu chứng phân ly: quên, lên đồng, mất ý thức.
C. Có một trong hai biểu hiện sau:
- Khi làm xét nghiệm, các triệu chứng trên không cắt nghĩa được thoả đáng là
do các bệnh nội khoa, thần kinh hoặc hậu quả trực tiếp của rượu, ma tuý...
- Nếu có bệnh nội khoa, thần kinh nào đó có liên quan thì các triệu chứng trên
là quá mức so với đánh giá về lâm sàng và xét nghiệm
17
D. Các triệu chứng này không phải do bệnh nhân cố ý hay giả vờ.
1.5.1.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán theo ICD – 10 [9].
Một chẩn đoán xác định đòi hỏi có tất cả các tiêu chuẩn sau:
A. Ít nhất 2 năm có các triệu chứng cơ thể nhiều và thay đổi mà không tìm
thấy một giải thích thoả đáng nào về mặt cơ thể
B. Dai dẳng từ chối chấp nhận lời khuyên hoặc lời trấn an của nhiều bác sỹ
rằng không cắt nghĩa được các triệu chứng về mặt cơ thể.
C. Một số mức độ tật chứng của hoạt động xã hội và gia đình có thể quy vào
bản chất của các triệu chứng và hành vi đã gây ra
1.5.2 Chẩn đoán phân biệt
- Các RLDCT khác: rối loạn nghi bệnh, rối loạn đau, rối loạn chuyển di.
∗ Rối loạn nghi bệnh: Bệnh nhân bận tâm dai dẳng với nỗi sợ hãi hoặc
với ý tưởng mình bị một bệnh lý trầm trọng do sự hiểu biết sai lệch về các
triệu chứng cơ thể. Nỗi bận tâm này tồn tại dai dẳng mặc dù được giải thích
thoả đáng. Tuy nhiên niềm tin sai lệch này chưa đạt đến mức hoang tưởng
[13], [36].
Như vậy ở RLCTH, bệnh nhân nhấn mạnh vào sự biểu hiện của các triệu
chứng cơ thể và đòi hỏi được điều trị hết các triệu chứng này nên thường lạm
dụng nhiều loại thuốc. Trong khi đó ở rối loạn nghi bệnh, bệnh nhân lại tập
trung vào căn bệnh nằm dưới các triệu chứng và đòi hỏi khám xét để xác định
rõ căn bệnh đó, bệnh nhân thường sợ thuốc và tác dụng phụ của thuốc [4].
∗ Rối loạn đau: Đau ở một hay nhiều vị trí là đặc điểm nổi bật trong bệnh
cảnh lâm sàng. Đau gây khó chịu, làm giảm đáng kể khả năng lao động và
hoạt động xã hội của bệnh nhân.
Còn ở rối loạn cơ thể hoá, đau chỉ là một phần của bệnh cảnh lâm sàng,
ngoài ra còn có rất nhiều triệu chứng của cơ quan hay hệ thống khác [44].
18
∗ Rối loạn chuyển di: Biểu hiện của rối loạn chuyển di là một hoặc nhiều
triệu chứng về vận động và cảm giác tự động, gợi ý về một bệnh thần kinh mà
không có các triệu chứng đau, triệu chứng dạ dày - ruột, triệu chứng tình
dục... như trong RLCTH [13], [44].
- Rối loạn giả tạo bệnh (facticious disorder) và sự cố ý (malingering):
∗ Rối loạn giả tạo bệnh: Bệnh nhân giả vờ hay cố tình biểu hiện những
dấu hiệu tâm lý hoặc cơ thể với mục đích nhằm được trở thành người ốm. Tuy
nhiên, không có động cơ bên ngoài (như lợi ích về kinh tế, trách nhiệm trước
pháp luật) [36].
∗ Sự cố ý: Sự cố ý không được coi là một RLTT hay một bệnh lý. Các cá
nhân giả vờ một cách có tính toán hoặc thổi phồng bệnh tật một cách có mục
đích nhằm đạt được điều gì đó như quyền lợi tài chính hoặc trốn tránh trách
nhiệm trước pháp luật. Họ thường lẩn tránh hoặc chống lại sự khám xét và
biểu lộ sự không nhất quán giữa những rối loạn chức năng và phát hiện khách
quan. Những người này có thể có rối loạn nhân cách chống đối xã hội [22].
Trevor A Hurwitz [41] tóm tắt sự khác nhau giữa RLDCT, rối loạn giả
tạo bệnh và sự cố ý như sau:
RLDCT Rối loạn giả tạo
bệnh
Sự cố ý
Ý thức về động cơ Không Không Có
Ý thức về sự giả
vờ
Không Có Có
- Rối loạn lo âu: Triệu chứng cơ thể trong rối loạn lo âu thường là các rối
loạn thần kinh thực vật như hồi hộp, đánh trống ngực, vã mồ hôi... và các
triệu chứng này xuất hiện và mất đi đồng thời với sự xuất hiện và mất đi
cảm giác lo lắng chủ quan của bệnh nhân.
19
- Rối loạn trầm cảm: Các triệu chứng cơ thể trong trầm cảm có thể là các
triệu chứng dạ dày-ruột hay các triệu chứng đau nhưng ít có tính chất di
chuyển như trong RLCTH. Hơn nữa, các triệu chứng này tồn tại và mất đi
cũng liên quan chặt chẽ với sự tiến triển của đợt trầm cảm.
- Các bệnh lý nội khoa: Phân biệt RLCTH với các bệnh nội khoa dựa
chủ yếu vào 3 đặc điểm sau của RLCTH [37]:
1. Các triệu chứng cơ thể ở hầu hết các hệ thống, cơ quan trong cơ
thể.
2. Không có sự tiến triển trầm trọng của các triệu chứng và không
có bất thường về cấu trúc.
3. Không có các dấu hiệu cận lâm sàng phù hợp với các triệu chứng
lâm sàng.
1.6. MỘT SỐ NÉT VỀ ĐIỀU TRỊ RLCTH
RLCTH là một chứng bệnh khó điều trị. Hiện nay, chưa có một phương
pháp nào điều trị triệt để RLCTH [53]. Các thầy thuốc thường có thái độ tiêu
cực và bi quan về điều trị RLCTH [52]. Neligh cho rằng tốt nhất nên coi đây
là một rối loạn suốt đời hơn là một tình trạng có thể chữa trị được [58].
Kaplan và Sadock [44] cho rằng nguyên nhân của RLCTH còn chưa
được biết rõ và chưa có một phương pháp nào có thể chữa được RLCTH nên
các thầy thuốc cần tập trung vào việc quản lý bệnh nhân hơn là việc điều trị.
Tuy nhiên, một số phương pháp trị liệu tâm lý và hoá dược cũng được
các tác giả cho là có hiệu quả trong điều trị RLCTH.
1.6.1 Nguyên tắc chung trong quản lý bệnh nhân [52].
(1) Đánh giá lâm sàng toàn diện: tiền sử, trạng thái tâm thần, khám xét
cơ thể.
(2) Phỏng vấn thành viên then chốt trong gia đình.
20
(3) Giảm tối thiểu số thầy thuốc tham gia. Đảm bảo một kế hoạch quản
lý đồng bộ và phù hợp.
(4) Giảm tối thiểu các thủ tục khám và điều trị.
5) Đảm bảo các buổi gặp có kế hoạch và thường xuyên với bệnh nhân.
Tránh nhu cầu đến gặp thầy thuốc hoặc các khoa cấp cứu.
(6) Ghi nhận xác thực các triệu chứng và phản hồi chẩn đoán tới cả
bệnh nhân và người nhà. Khi thích hợp, liên hệ các triệu chứng với các sự
kiện gây sang chấn trong cuộc sống.
(7) Xác định và hạn chế các lợi lộc thứ phát.
(8) Điều trị các RLTT và cơ thể liên quan một cách phù hợp.
1.6.2 Các phương pháp điều trị đặc hiệu
Việc quản lý bệnh nhân tốt nhất nên do một bác sỹ tuyến ban đầu đảm
nhận nhưng các phương pháp điều trị đặc hiệu phải do các bác sỹ tâm thần
quyết định và thực hiện [53], [66].
1.6.2.1 Liệu pháp tâm lý
∗ Liệu pháp nhận thức - hành vi.
Một số tác giả cho rằng liệu pháp nhận thức – hành vi là lựa chọn hàng
đầu trong điều trị RLCTH [66]. Các nhà tâm lý hành vi khẳng định rằng
những hành vi bất thường là hiện tượng mắc phải với cùng một phương thức
của hành vi bình thường thông qua quá trình tập nhiễm. Họ xem rối loạn tâm
căn cũng xuất hiện theo cơ chế tập nhiễm nhưng không thích ứng và kéo dài,
đáp ứng bệnh lý mang tính khái quát hoá những kích thích ban đầu – sang
chấn tâm lý [2].
Theo Francois Mai (2004) [52], quá trình trị liệu nhận thức – hành vi ở
bệnh nhân RLCTH như sau:
1) Phát triển hợp đồng điều trị (gồm sự thống nhất về tần suất, thời
gian và số lần trị liệu)
21
2) Thiết lập các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn. Xem lại thường
xuyên.
3) Tập trung vào cách đối phó với triệu chứng.
4) Khuyến khích bệnh nhân ghi lại hàng ngày những suy nghĩ, cảm
xúc và hành vi đối phó. Xem lại thường xuyên.
5) Thúc đẩy các hoạt động thể chất, xã hội, giải trí và nghề nghiệp
hàng ngày.
6) Thúc đẩy các bài tập thư giãn hàng ngày.
7) Thúc đẩy bệnh nhân kiềm chế và tự quản lý.
Có rất nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp nhận thức hành vi
đối với bệnh nhân RLCTH. Speckens và cộng sự (2003) [70] trong một
nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng, sau 6 tháng điều trị 82% bệnh nhân
RLCTH và 64% nhóm đối chứng có cải thiện hoặc hồi phục và sự thay đổi
này còn duy trì sau 12 tháng điều trị.
∗ Liệu pháp nâng đỡ
Liệu pháp nâng đỡ tốt nhất nên được thực hiện bởi một thầy thuốc nội
khoa hiểu và thông cảm với những khó khăn đặc biệt của bệnh nhân và có khả
năng đáp ứng thoả đáng với cả những vấn đề về tâm lý và cơ thể. Điều này
xuất phát từ thực tế là hầu hết bệnh nhân RLCTH tin rằng họ có bệnh cơ thể
chứ không phải RLTT nên họ dễ chấp nhận một bác sỹ nội khoa để chữa
chứng bệnh cơ thể cho họ hơn. Các buổi trị liệu phải được lên kế hoạch và
nhất quán. Thầy thuốc cung cấp sự bảo đảm và nâng đỡ bệnh nhân nhưng
không thường xuyên đến nỗi sự phụ thuộc quá mức xuất hiện [52].
1.6.2.2 Liệu pháp hoá dược
22
Stress được nhiều tác giả cho là có liên quan đến cơ chế bệnh sinh của
RLCTH. Stress tác động thông qua trục dưới đồi - tuyến yên - tuyến thượng
thận gây ra rối loạn điều tiết catecholamin, glucocorticoid... trong não và cơ
thể nên việc dùng thuốc tác động vào quá trình này là cần thiết. Ngoài ra,
bệnh nhân RLCTH có khuynh hướng chấp nhận điều trị bằng thuốc hơn là
điều trị tâm lý [13].
∗ Các thuốc chống trầm cảm
RLCTH thường có kèm trầm cảm. Tuy nhiên, các thuốc chống trầm
cảm có tác dụng với các bệnh nhân cơ thể hoá ngay cả khi không có rối loạn
trầm cảm phối hợp [52].
Các thuốc chống trầm cảm ba vòng (amitriptyline) thường được dùng
do có tác dụng yên dịu và giảm đau. Song, bệnh nhân rối loạn cơ thể hoá có
xu hướng tăng nhạy cảm với thuốc nên có nguy cơ bị nhiều tác dụng phụ. Vì
vậy, một số tác giả cho rằng nên sử dụng các thuốc chống trầm cảm ức chế tái
hấp thu chọn lọc serotonine (Selective serotonine reuptake inhibitor – SSRI)
cho bệnh nhân RLCTH. Okugawa và cộng sự (2002) nhận thấy paroxetine có
tác dụng tốt trong điều trị RLCTH [52].
∗ Các thuốc giải lo âu
Thuốc giải lo âu hay dùng là Benzodiazepine [13]. Do có nguy cơ gây
lạm dụng hay lệ thuộc nên chỉ dùng trong một thời gian ngắn [52].
∗ Các thuốc an thần kinh
Nguyễn Kim Việt (2005) cho rằng an thần kinh từ lâu đã được coi là
thuốc chống stress, an thần kinh liều thấp được xem xét để thay
Benzodiazepine và thuốc chống trầm cảm. Dùng an thần kinh liều thấp có
hiệu quả mà ít tác dụng phụ [13].
Sulpiride là an thần kinh mà một số tác giả đã đề cập đến trong điều trị
RLCTH. Rouillon và cộng sự (2001) nghiên cứu về hiệu quả của sulpiride
23
trong điều trị RLCTH ở năm nước Châu Âu nhận thấy 58,2% bệnh nhân có
đáp ứng và sulpiride là thuốc dung nạp tốt, không có một tác dụng phụ nào
trầm trọng được báo cáo [65].
24
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành tại Viện Sức khoẻ Tâm thần - Bệnh viện
Bạch Mai.
2.2 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Bao gồm tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán xác định RLCTH nhập
Viện Sức khoẻ Tâm thần trong thời gian nghiên cứu.
2.2.1 Cỡ mẫu nghiên cứu:
Cỡ mẫu được tính theo công thức “Ước tính một tỉ lệ trong quần thể”
[11]:
2
2
)2/1(
)1(
∆
−
×=
−
ppZn α
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu.
α : Mức ý nghĩa thống kê.
Z2(1-α /2): Hệ số tin cậy.
Khi α bằng 0,05 (độ tin cậy 95%) thì Z2(1-α /2) bằng 1,962.
p: Xác suất triệu chứng cốt lõi ở bệnh nhân RLCTH, lấy bằng 0,5. Khi
lấy p bằng 0,5 thì cỡ mẫu tính được sẽ lớn nhất [11].
∆ : Độ sai lệch mong muốn giữa mẫu và quần thể, lấy bằng 0,16.
Áp dụng vào công thức trên tính được n = 37. Như vậy, cỡ mẫu của nghiên
cứu tối thiểu là 37 bệnh nhân.
Nghiên cứu của chúng tôi gồm 40 bệnh nhân RLCTH được chẩn đoán
xác định và được điều trị tại Viện Sức khoẻ Tâm thần. Cỡ mẫu này hoàn toàn
phù hợp.
25
2.2.2 Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11 năm 2005 đến hết tháng 11 năm
2006.
2.2.3 Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán RLCTH theo DSM –
IV:
A. Có nhiều triệu chứng cơ thể, bắt đầu trước tuổi 30, kéo dài nhiều năm, luôn
tìm kiếm sự điều trị, ảnh hưởng rõ rệt đến làm việc và hoạt động xã hội.
B. Phải có các triệu chứng sau (xuất hiện ở một thời điểm nào đó của bệnh):
- 4 triệu chứng đau: có triệu chứng đau ở ít nhất 4 vị trí hay hoạt động khác
nhau (ví dụ đau đầu, bụng, lưng, khớp, tứ chi, ngực, trực tràng, đau khi có
kinh, đau khi giao hợp, đau khi đi tiểu)
- 2 triệu chứng dạ dày - ruột: có ít nhất 2 triệu chứng dạ dày - ruột không phải
đau (ví dụ buồn nôn, nôn, đầy bụng, tiêu chảy, kém hấp thu)
- 1 triệu chứng về hoạt động tình dục, sinh sản: ít nhất 1 triệu chứng về hoạt
động tình dục, sinh sản không phải đau (lãnh đạm, cường dương, xuất tinh,
kinh nguyệt không đều hay kéo dài, nôn nhiều khi có thai...).
- 1 triệu chứng giả các triệu chứng thần kinh: có ít nhất 1 triệu chứng gợi ý
đến bệnh lý thần kinh không phải đau
Các triệu chứng “chuyển di”: rối loạn phối hợp động tác, thăng bằng, liệt khu
trú, khó nuốt, nuốt nghẹn, mất tiếng, bí tiểu, các ảo giác, mất cảm giác sờ hay
đau, nhìn đôi, mù, điếc, co giật...
Các triệu chứng phân ly: quên, lên đồng, mất ý thức.
C. Có một trong hai biểu hiện sau:
- Khi làm xét nghiệm, các triệu chứng trên không cắt nghĩa được thoả đáng là
do các bệnh nội khoa, thần kinh hoặc hậu quả trực tiếp của rượu, ma tuý...
26
- Nếu có bệnh nội khoa, thần kinh nào đó có liên quan thì các triệu chứng trên
là quá mức so với đánh giá về lâm sàng và xét nghiệm
D. Các triệu chứng này không phải do bệnh nhân cố ý hay giả vờ.
2.2.4 Tiêu chuẩn loại trừ
Không nhận vào nhóm nghiên cứu các đối tượng sau:
- Có bệnh lý thực thể về nội khoa hay thần kinh.
- Các rối loạn dạng cơ thể khác như rối loạn nghi bệnh, rối loạn đau dai
dẳng, rối loạn dạng cơ thể không biệt định.
- Rối loạn trầm cảm.
- Rối loạn lo âu.
- Các trường hợp giả bệnh hoặc giả vờ.
2.3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1 Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả, tiến cứu, sau đó là nghiên cứu
từng trường hợp.Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu đều được nghiên cứu theo
một mẫu bệnh án thống nhất.
2.3.2 Phương pháp thu thập thông tin
Thông tin được thu thập tại các khoa của Viện Sức khoẻ Tâm thần -
Bệnh viện Bạch Mai.
2.3.2.1 Công cụ thu thập thông tin
- Mẫu bệnh án nghiên cứu: Để mô tả lâm sàng, chúng tôi thiết kế một mẫu hồ
sơ bệnh án chuyên biệt phù hợp với mục tiêu nghiên cứu (phụ lục) dựa trên
các tiêu chuẩn chẩn đoán của Bảng Chẩn đoán và Thống kê các rối loạn tâm
thần lần thứ 4 của Hội Tâm thần học Mỹ (DSM – IV) nhằm thu thập thông tin
về triệu chứng, hội chứng bệnh.
- Các trắc nghiệm tâm lý: Beck, Zung, MMPI.
- Hồ sơ bệnh án của bệnh viện.
27
2.3.2.2 Các bước tiến hành nghiên cứu
Tất cả các đối tượng nghiên cứu đều được làm bệnh án theo mẫu
chuyên biệt, thống nhất bao gồm các bước:
- Phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân và người nhà bệnh nhân về tiền sử cũng như
toàn bộ quá trình diễn biễn bệnh của bệnh nhân cũng như hoàn cảnh sống và
tiền sử người nhà của bệnh nhân.
- Khám lâm sàng chi tiết, toàn diện về tâm thần, thần kinh, nội khoa.
- Theo dõi hàng ngày kể từ khi bệnh nhân vào viện để phát hiện những triệu
chứng mới phát sinh và diễn biến của bệnh.
- Tham khảo ý kiến của các bác sỹ điều trị tại bệnh phòng, hội chẩn để xác
định chẩn đoán khi cần thiết.
- Ghi chi tiết hồ sơ bệnh án của bệnh nhân trong quá trình điều trị tại bệnh
viện.
- Làm các xét nghiệm cận lâm sàng:
+ Xét nghiệm cơ bản: công thức máu, máu lắng, chức năng gan, thận,
sinh hoá máu, điện não đồ, X quang tim phổi
+ Các xét nghiệm để chẩn đoán phân biệt nếu cần.
+ Các trắc nghiệm tâm lý: Beck, Zung, MMPI
2.3.3 Các thông số nghiên cứu
2.3.3.1 Các yếu tố chung của nhóm nghiên cứu
- Đặc điểm về tuổi của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Đặc điểm về tuổi khởi phát của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
- Đặc điểm về giới: Nam, nữ.
- Đặc điểm về nơi ở: nông thôn, thành thị.
- Đặc điểm về nghề nghiệp:
Lao động trí óc
Lao động chân tay
28
Kinh doanh – buôn bán
Tự do – không ổn định
- Đặc điểm về trình độ học vấn:
Mù chữ
Tiểu học
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trung cấp – cao đẳng - đại học
Sau đại học
- Đặc điểm về tình trạng hôn nhân:
Chưa kết hôn
Kết hôn
Ly hôn/ ly thân
Goá
2.3.3.2 Phân tích đặc điểm lâm sàng
- Đặc điểm chung về các triệu chứng cơ thể:
+ Hoàn cảnh xuất hiện triệu chứng:
Tự nhiên
Sau sang chấn tâm lý
+Tính chất biểu hiện triệu chứng:
Cố định
Thay đổi
+Điều trị ở các chuyên khoa cơ thể:
Có đáp ứng
Chỉ đáp ứng trong những ngay đầu tiên
Không đáp ứng
- Nơi giới thiệu bệnh nhân đến khám tâm thần:
29
Tự đến
Gia đình đưa đến
Cơ sở y tế
- Các chuyên khoa cơ thể đã khám: Tiêu hoá, thần kinh, tim mạch, ...
- Hoàn cảnh khởi phát:
Tự phát
Sau bệnh cơ thể
Sau sang chấn tâm lý (loại sang chấn).
-Loại sang chấn tâm lý:
Mâu thuẫn trong gia đình
Mâu thuẫn trong công việc
Mâu thuẫn xã hội
- Dấu hiệu khởi phát.
- Đặc điểm các vị trí đau:
Được tiếp cận khảo sát trong quá trình bị bệnh và đánh giá trực tiếp tại
thời điểm nằm viện:
Đau đầu
Đau cổ - vai – gáy
Đau ngực
Đau bụng
Đau lưng - thắt lưng
Đau chân tay
Đau khớp
Đau cơ bắp
Đau khi có kinh
Đau khi đi tiểu
Đau khi giao hợp
30
- Các triệu chứng dạ dày - ruột:
Được tiếp cận khảo sát trong quá trình bị bệnh và đánh giá trực tiếp tại
thời điểm nằm viện:
Ăn không ngon miệng
Buồn nôn,nôn khan
Nôn ra thức ăn
Khô miệng, đắng miệng
Đầy bụng, khó tiêu
Sợ mùi thức ăn
Táo bón
Ỉa chảy
- Các triệu chứng về hoạt động tình dục:
Được tiếp cận khảo sát trong quá trình bị bệnh và đánh giá trực tiếp tại
thời điểm nằm viện:
Ở nữ: Kinh nguyệt không đều
Mất kinh
Kinh kéo dài
Giảm ham muốn tình dục
Lãnh đạm
Các triệu chứng khác
Ở nam: Xuất tinh sớm
Di tinh, mộng tinh
Cường dương
Giảm ham muốn tình dục
Bất lực
- Các triệu chứng giả thần kinh:
31
Được tiếp cận khảo sát trong quá trình bị bệnh và đánh giá trực tiếp tại
thời điểm nằm viện:
Triệu chứng chuyển di:
Co giật
Liệt khu trú
Rối loạn giác quan: nhìn mờ, mù, nghe kém, điếc, khó nói,
câm.
Mất thăng bằng
Tê bì
Hòn cục ở họng, nuốt khó, nuốt nghẹn.
Ngất
Triệu chứng phân ly:
Quên
Lên đồng
Mất ý thức
- Các triệu chứng khác:
Được tiếp cận khảo sát trong quá trình bị bệnh và đánh giá trực tiếp tại
thời điểm nằm viện:
Hệ tim mạch: Rối loạn nhịp tim
Rối loạn TKTV
Hệ hô hấp: Khó thở
Trên da: Ngứa
Bỏng rát
Rối loạn giấc ngủ
Các triệu chứng khác
- Số triệu chứng trung bình trong cả quá trình bệnh.
- Số triệu chứng trung bình trong thời gian nằm viện.
32
- Rối loạn trầm cảm: mức độ nhẹ, vừa, nặng.
- Rối loạn lo âu: rối loạn hoảng sợ, rối loạn lo âu lan toả, ám ảnh sợ.
- Thang điểm Beck, Zung.
- Đặc điểm nhân cách theo thang MMPI:
Diễn đồ V – tâm thể
Nghi bệnh (Hd cao)
Trầm cảm (D cao)
Phân ly (Hy cao)
Suy nhược (Pt cao)
Các kết quả khác
- Mức độ ảnh hưởng tới lao động nghề nghiệp: nặng, vừa, nhẹ.
- Thái độ của bệnh nhân lúc vào và ra viện:
Không chấp nhận khám và điều trị tâm thần
Hợp tác và tin tưởng điều trị.
2.4 XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Các số liệu thu thập được phân tích và xử lý bằng chương trình Epi Info
6.04 theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế Thế giới.
- Các thuật toán được sử dụng:
+ Tính trung bình thực nghiệm.
+ Tính độ lệch chuẩn thực nghiệm.
+ Tính phương sai thực nghiệm.
+ Thuật toán so sánh X2 và t student.
2.5 VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu được thực hiện với sự đồng ý của ban lãnh đạo VSKTT.
- Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được giải thích rõ mục tiêu và phương
pháp nghiên cứu, tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và có quyền rút khỏi
nghiên cứu mà không cần giải thích.
33
- Các thông tin do đối tượng nghiên cứu cung cấp được đảm bảo giữ bí mật.
- Nghiên cứu chỉ mô tả lâm sàng, không can thiệp nên mọi chỉ định dùng các
liệu pháp điều trị hoàn toàn do các bác sỹ điều trị quyết định theo tình trạng
của bệnh nhân.
34
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU
Tuổi của nhóm nghiên cứu
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi của nhóm nghiên cứu.
Nhóm tuổi Số BN (n) Tỷ lệ (%)
< 20 0 0
20 – 29 8 20
30 – 39 16 40
40 – 49 5 12,5
≥ 50 11 27,5
Tổng 40 100
X ± SD 39,5 ± 11,82
Nhận xét:
- Tuổi hay gặp nhất là từ 30 – 39 với 13 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 40%.
- Tuổi ít gặp nhất là từ 40 - 49 với 5 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 12,5%.
- Tuổi cao nhất là 62 tuổi.
- Tuổi thấp nhất là 20 tuổi.
- Lứa tuổi trung bình của RLCTH là 39,5 ± 11,82.
Tuổi khởi phát
Bảng 3.2 : Đặc điểm tuổi khởi phát bệnh.
35
Nhóm tuổi Số BN (n) Tỷ lệ (%)
< 20 4 10
21 – 25 5 12,5
26 – 30 31 77,5
Tổng 40 100
X ± SD 27,1 ± 3,85
Nhận xét:
- Tuổi khởi phát RLCTH thưòng gặp là từ 26 – 30 có 31 bệnh nhân chiếm
tỷ lệ 77,5%.
- Tuổi khởi phát bệnh ít gặp là dưới 20 tuổi có 4 bệnh nhân chiếm 10%.
- Tuổi khởi phát thấp nhất là 14 tuổi.
- Tuổi khởi phát cao nhất là 30 tuổi, chúng tôi không lấy vào mẫu nghiên
cứu những bệnh nhân khởi phát bệnh sau 30 tuổi.
- Tuổi khởi phát trung bình là 27,1 ± 3.85.
Giới tính
87,5%
12,5%
Nam N÷
Biểu đồ 3.1: Tỷ lệ bệnh nhân theo giới
Nhận xét:
- Số bệnh nhân nữ là 35 bệnh nhân chiếm tỷ lệ cao (87,5%).
- Số bệnh nhân nam chỉ có 5 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 12,5%, thấp hơn đáng
kể so với số bệnh nhân nữ.
36
- Tỉ lệ nữ/nam là 7/1.
Nơi ở
Bảng 3.3 : Đặc điểm về nơi ở.
Nơi ở Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Nông thôn 31 77,5
Thành thị 9 22,5
Tổng số 40 100
Nhận xét:
- Số bệnh nhân sống ở nông thôn chiếm đa số với tỷ lệ 77,5%.
- Số bệnh nhân sống ở thành thị chỉ có 22,5%.
Nghề nghiệp
Bảng 3.4 : Đặc điểm về nghề nghiệp.
Nghề nghiệp Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Lao động trí óc 8 20
Lao động chân tay 18 45
Kinh doanh - Buôn bán 6 15
Tự do - Không ổn định 8 20
Tổng số 40 100
Nhận xét:
- Nghề lao động chân tay chiếm tỷ lệ cao nhất với 45%.
- Nghề lao động trí óc và nghề tự do – không ổn định cùng chiếm 20%.
- Còn lại là nghề kinh doanh – buôn bán với 15%.
Trình độ học vấn
Bảng 3.5 : Đặc điểm về trình độ học vấn.
Trình độ học vấn Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Mù chữ 0 0
Tiểu học 6 15
37
Trung học cơ sở 17 42,5
Trung học phổ thông 7 17,5
Trung cấp, cao đẳng, đại học 10 25
Sau đại học 0 0
Tổng 40 100
Nhận xét:
- Số bệnh nhân có trình độ trung học cơ sở nhiều nhất, chiếm 42,5%.
- Số bệnh nhân có trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học ít nhất, chiếm
10%.
- Không thấy bệnh nhân mù chữ hoặc có trình độ sau đại học.
Tình trạng hôn nhân
Bảng 3.6 : Đặc điểm về tình trạng hôn nhân.
Tình trạng hôn nhân Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Chưa kết hôn 7 17,5
Kết hôn 28 70
Ly thân/ Ly dị 3 7,5
Goá 2 5
Tổng số 40 100
Nhận xét:
- Nhóm bệnh nhân kết hôn chiếm tỷ lệ cao nhất (70%).
- Rất ít bệnh nhân đã ly thân/ly dị hoặc goá với 7,5% và 5%.
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG CỦA NHÓM NGHIÊN CỨU
Các yếu tố sang chấn tâm lý liên quan đến khởi phát bệnh
38
62,5%
17,5%
25%
10%
0
20
40
60
80%
SC trong GĐ SC trong CV SC trong XH BÖnh c¬ thÓ MT
BiÓu ®å 3.2: Tû lÖ c¸c lo¹i sang chÊn t©m lý liªn quan ®Õn
khëi ph¸t bÖnh
Nhận xét: Loại sang chấn tâm lý hay gặp nhất là sang chấn trong gia đình
chiếm tới 62,5%. Bệnh cơ thể mạn tính ít gặp nhất, chỉ có 10%.
Đặc điểm của các triệu chứng cơ thể
Tính chất chung của các triệu chứng cơ thể
Bảng 3.7 : Đặc điểm chung của các triệu chứng cơ thể
Đặc điểm Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Hoàn cảnh xuất hiện
triệu chứng
Tự nhiên 9 22,5
Sau SCTL 31 77,5
Tính chất biểu hiện
triệu chứng trong quá
trình bệnh
Cố định 0 0
Thay đổi 40 100
Điều trị của các
chuyên khoa cơ thể
Có đáp ứng 5 12,5
Chỉ đáp ứng với
những ngày điều trị
đầu tiên
18 45
Không đáp ứng 17 42,5
Nhận xét:
39
- RLCTH thường xuất hiện sau SCTL, chiếm tới 77,5%, một số nhỏ xuất
hiện tự nhiên chiếm 22,5%.
- Các triệu chứng biểu hiện luôn thay đổi trong quá trình bệnh (100%),
không phát hiện bệnh nhân nào biểu hiện bệnh có tính chất cố định.
- Đa số bệnh nhân chỉ đáp ứng trong những ngày điều trị đầu tiên (45%)
hoặc không đáp ứng (42,5%) với điều trị của các chuyên khoa cơ thể.
3.2.2.2 Đặc điểm các vị trí đau
Bảng 3.8 : Các vị trí đau.
Vị trí Quá trình bệnh Lúc nằm việnSố BN (n) Tỷ lệ (%) Số BN (n) Tỷ lệ (%)
Đầu 31 77,5 23 57,5
Cổ - vai – gáy 16 40 7 17,5
Ngực 25 62,5 12 30
Bụng 27 67,5 9 22,5
Lưng - thắt lưng 21 52,5 10 25
Chân tay 20 50 8 20
Khớp 29 72,5 9 22,5
Cơ bắp 17 42,5 5 12,5
Khi có kinh 9 22,5 2 5
Khi giao hợp 0 0 0 0
Khi đi tiểu 0 0 0 0
Nhận xét:
- Trong quá trình bệnh: Các vị trí đau hay gặp là đầu (77,5%), khớp
(72,5%), bụng (67,5%) và ngực (62,5%). Ít gặp đau khi có kinh (22,5%) và
không gặp đau khi giao hợp hay khi đi tiểu.
- Trong lúc nằm viện: Hay gặp đau đầu (57,5%), đau ngực (30%). Đau
khi có kinh gặp 5% và cũng không thấy đau khi giao hợp và đau khi đi
tiểu.
Đặc điểm các triệu chứng dạ dày - ruột
Bảng 3.9 : Các triệu chứng dạ dày - ruột.
40
Triệu chứng
Quá trình bệnh Lúc nằm viện
Số BN (n) Tỷ lệ (%) Số BN (n) Tỷ lệ
(%)
Ăn không ngon miệng 21 52,5 15 37,5
Buồn nôn, nôn khan 23 57,5 12 30
Nôn ra thức ăn 2 5 1 2,5
Khô miệng, đắng miệng 11 27,5 5 12,5
Đầy bụng, khó tiêu 20 50 13 32,5
Táo bón 14 35 5 12,5
Ỉa chảy 7 17,5 2 5
Sợ mùi thức ăn 7 17,5 3 7,5
Nhận xét:
- Trong quá trình bệnh: Các triệu chứng hay dạ dày - ruột hay gặp là
buồn nôn, nôn khan (57,5%), ăn không ngon miệng (52,5%), đầy bụng,
khó tiêu (50%); ít thấy ỉa chảy (17,5%), sợ mùi thức ăn (17,5%) và nôn
ra thức ăn (5%).
- Trong lúc nằm viện: Các triệu chứng hay gặp vẫn là ăn không ngon
miệng (37,5%), đầy bụng, khó tiêu (32,5%), buồn nôn, nôn khan
(30%). các triệu chứng ít gặp là sợ mùi thức ăn(7,5%), ỉa chảy (5%),
nôn ra thức ăn (2,5%).
Đặc điểm các triệu chứng về hoạt động tình dục
Bảng 3.10 : Các triệu chứng về hoạt động tình dục ở nhóm nữ (n = 35)
Triệu chứng Quá trình bệnh L
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24168711NghienCuuDacDiemLamSangRoiLoanCotheHoa.pdf