1. Vùng biển nghiên cứu có số lượng tàu
thuyền <20CV chiếm số lượng lớn; riêng
Quảng Nam – Đà Nẳng là 3.988 chiếm trên
85% tổng số tàu thuyền. Ngoài ra, còn có 272
tàu công suất 20 ÷ <90CV, trong đó có 50 tàu
lưới kéo đáy vẫn đang hoạt động vùng ven bờ;
2. Qua điều tra thu thập số liệu sơ cấp tại
 vùng biển nghiên cứu:
+ Tất cả tàu thuyền <90CV đều hoạt động
vùng ven bờ với các họ nghề ảnh hưởng đến
nguồn lợi đáng lưu ý là nghề lưới kéo, nghề lờ
dây và lưới rê 3 lớp;
+ Ngư trường đánh bắt của các nhóm tàu
không chênh lệch nhiều, nhóm <20CV cách bờ
không quá 6 hải lý, nhóm >20CV không quá 7
hải lý (trừ khu vực đảo Lý Sơn);
+ Qua sản lượng đánh bắt hàng năm và
chuyến biển gần nhất, nhận thấy: Năng suất
đánh bắt của đội tàu khai thác vùng biển ven bờ
suy giảm rõ rệt, nhất là nghề lưới kéo và lờ dây;
+ Trong đó sự suy giảm sản lượng chủ yếu
theo ngư dân: Do nhiều họ nghề khai thác cùng
ngư trường, và nguồn lợi suy giảm.
+ Thu nhập của ngư dân theo các nhóm
nghề, theo các vùng miền, địa phương chưa
bằng nhau.
+ Các nghề khai thác mang tính hủy diệt
vẫn còn hoạt động mạnh vùng ven bờ dẫn đến
các loại thủy hải sản, cá con, cá mới trưởng
thành bị khai thác quá mức.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 8 trang
8 trang | 
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 823 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đánh giá hiện trạng khai thác hải sản vùng biển ven bờ tỉnh Quảng Nam và lân cận, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 63
NGHIÊN CỨU ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KHAI THÁC HẢI SẢN
VÙNG BIỂN VEN BỜ TỈNH QUẢNG NAM VÀ LÂN CẬN
STUDY TO EVALUATE THE CURRENT STATUS OF FISHING OPERATION AT 
NEAR SHORE AREAS IN QUANG NAM PROVINCE AND SURROUNDING AREAS
Nguyễn Trọng Thảo1
Ngày nhận bài: 23/5/2018; Ngày phản biện thông qua: 23/6/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
TÓM TẮT
Trên cơ sở số liệu thứ cấp, và điều tra phỏng vấn 450 tàu thuyền của tỉnh Quảng Nam và vùng lân cận 
khai thác hải sản tại vùng biển ven bờ trong 2 năm (2016 ÷ 2017), nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Sự tập trung quá 
lớn tàu thuyền khai thác vùng ven bờ với 4.394 tàu có công suất nhỏ hơn 20CV, hoạt động cách bờ không quá 7 
hải lý với các nghề có tác động xấu đến nguồn lợi như lưới kéo đáy, lờ dây, lưới rê 3 lớp. Ngoài ra, còn có 272 
tàu công suất từ 20CV đến dưới 90CV, trong đó có 50 tàu lưới kéo đáy vẫn đang hoạt động tại vùng biển nghiên 
cứu đã làm cho sản lượng và năng suất đánh bắt liên tục giảm qua các năm. Sản lượng đánh bắt của đội tàu 
<20CV của Quảng Nam từ 27,9 tấn/năm 2015 giảm còn 11,314 tấn/năm 2016; đội tàu 20CV đến dưới 90CV, 
từ 35,4 tấn/năm giảm còn 20,2 tấn/năm 2016. Trong đó, năng suất và lợi nhuận suy giảm rõ nhất là các nghề: 
Lờ dây, lưới rê và lưới kéo. Thực tế cũng cho thấy, hơn 60% ngư dân nhận thức được sản lượng giảm do nguồn 
lợi giảm khoảng 20% và nhiều nghề khai thác cùng ngư trường. Nghiên cứu cung cấp thông tin quan trọng cho 
cán bộ quản lý địa phương và nhà khoa học thấy được thực trạng, đề xuất giải pháp khai thác hợp lý nguồn 
lợi, giải pháp quản lý phù hợp theo hướng phát triển nghề cá bền vững tại Quảng Nam và vùng biển lân cận.
Từ khóa: Tàu cá, khai thác hải sản, lân cận, Quảng Nam.
ABSTRACT
Based on 450 interviews of fi shing vessels in Quang Nam province and surrounding areas in 2 years 
(2016 – 2017), the study has shown that: A huge number of less than 20 Hp fi shing vessels with 4,394 vessels, 
which operate within 7 nautical miles back to the shore with strong effected fi shing gears to marine resources 
such as bottom trawlers, traps, trammel net. In addition, there are 272 fi shing vessels which 20-<90 Hp, of 
which 50 bottom trawlers have been operating in near-shore areas leading to continuously reducing of the 
catches & productivities in recent years. The catches of less than 20 Hp fl eets in Quang Nam province have 
been reduced from 27.9 tons per year in 2015 down to 11.314 tons per year in 2016; the 20-<90 Hp fl eets, 
also reduce from 35.4 tons per year down to 20.2 tons per year respectively in 2016. In which, the reducing of 
productivities and profi ts are clearly shown at fl eets: traps, gillnet and trawl fi sheries. The reality also refl ected 
that, more than 60% of fi shers is aware that the reducing of the catches due to 20% reduction of the marine 
resources and many fi sheries are operating at same fi shing grounds. The study provides important information 
to local fi shery managers and scientists to see the current status, proposed solutions to a suitable fi shing 
operation to resources, appropriate management solutions forwarding to sustainable fi shery development in 
Quang Nam province and surrounding areas.
Key words: fi shing vessels, fi shing, surrounding areas, Quang Nam province.
¹ Viện Khoa học & Công nghệ Khai thác Thủy sản, 
Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
64 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vùng biển ven bờ Quảng Nam và lân cận có 
chiều dài bờ biển trên 160 km, hình thành nhiều 
ngư trường với nguồn lợi hải sản phong phú, đa 
dạng về chủng loại để phát triển nghề khai thác 
hải sản. Toàn khu vực có tàu công suất nhỏ hơn 
20CV chiếm khoảng 85,2% tổng số tàu thuyền, 
số tàu có khả năng khai thác xa bờ chỉ chiếm 
khoảng 14,8%. Sản lượng khai thác hàng năm 
đạt trên 100 nghìn tấn hải sản, góp phần xóa 
đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm cho 
hàng nghìn lao động tại địa phương, đóng góp 
vào sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Tuy nhiên, với số lượng lớn tàu ven bờ, áp 
lực khai thác ngày càng tăng, tình trạng ngư 
dân sử dụng ngư cụ cấm, kích thước mắt lưới 
nhỏ, đánh bắt không chọn lọc, thời gian hoạt 
động gần như quanh năm. Điều này đã tàn phá 
ngư trường và nguồn lợi, thậm chí còn phá 
hủy môi trường sinh thái rạn san hô, thảm cỏ, 
rong biển, làm mất nơi sinh cư của nhiều loài, 
 2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp điều tra khảo sát, thu thập 
số liệu 
+ Nguồn số liệu thứ cấp: Thu thập dữ liệu 
tại các Chi cục Thủy sản các tỉnh Quảng Nam, 
Quảng Ngãi và thành phố Đà Nẵng;
+ Điều tra số liệu sơ cấp: Dựa vào thông tin 
Hình 1. Phạm vi vùng biển nghiên cứu
trữ lượng nguồn lợi hải sản đang có nguy cơ 
bị cạn kiệt. Hiệu quả kinh tế trong quá trình 
sản xuất của ngư dân trong những năm gần đây 
có xu hướng giảm hơn so với giai đoạn trước.
Vì vậy, “Nghiên cứu đánh giá hiện trạng 
khai thác hải sản vùng biển ven bờ Quảng Nam 
và lân cận”. Nhằm đưa ra được cơ sở khoa 
học cho những giải pháp khai thác bền vững, 
chuyển đổi cơ cấu nghề cho ngư dân mang lại 
hiệu quả thu nhập và an sinh xã hội, bảo vệ 
nguồn lợi hải sản ven bờ là hết sức cần thiết và 
cấp bách ở Quảng Nam và vùng lân cận. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NG-
HIÊN CỨU
1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1.1. Đối tượng nghiên cứu: là các tàu hoạt động 
khai thác thủy sản ở vùng biển ven bờ giới hạn 
ở các điểm A-C đến B-8 (hình 1)
1.2. Phạm vi nghiên cứu: 
Vùng biển tỉnh Quảng Nam và lân cận được 
giới hạn trong phạm vi sau: 
lập sẵn trên phiếu điều tra, tiến hành điều tra 
thông qua phỏng vấn các hộ ngư dân, thuyền 
trưởng, thuyền viên và chủ nậu nhằm thu thập 
các số liệu liên quan đến hoạt động khai thác 
thủy gồm: tàu thuyền và trang bị phục vụ, ngư 
cụ và sản lượng khai thác, doanh thu, chi phí, 
ngư trường khai thác, hiệu quả tổ chức sản 
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 65
xuất, vấn đề suy giảm nguồn lợi và sinh kế của 
ngư dân....
+ Số mẫu điều tra trong 2 năm (2016 ÷ 
2017) là 450 mẫu, phân bố như sau: 
2.2. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý trên các phần mềm 
hiện có (Exel, Statistica 6.0). Số liệu được tổng 
hợp và phân tích theo hệ thống dựa trên các chỉ 
tiêu thống kê của các tài liệu được thu thập, 
làm rõ thực trạng khai thác và suy giảm nguồn 
lợi hải sản ở vùng biển nghiên cứu.
2.3. Phương pháp đánh giá
So sánh các chỉ số điều tra các năm và các qui 
định về pháp luật nghề cá của Chính phủ, địa phương.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Biến động cơ cấu tàu thuyền và nghề khai 
thác giai đoạn 2012 - 2017
Sau 5 năm số lượng tàu có công suất >90CV 
của Tỉnh Quảng Nam đã tăng lên đáng kể; tuy 
nhiên, số tàu có công suất dưới 20CV vẫn còn 
2.862 chiếc hoạt động khai thác ở sông và 
vùng biển ven bờ, chiếm 65,16% tàu thuyền 
toàn Tỉnh; điều này đã tác động rất lớn đến 
nguồn lợi ven bờ và tái tạo nguồn lợi thủy sản 
tại địa phương [4]. Đến tháng 3/2017 cơ cấu 
tàu thuyền ở Quảng Nam và lân cận theo nhóm 
nghề như sau:
1.1. Tại Quảng Nam:
+ Nhóm tàu ≥20CV chủ yếu khai thác hải sản 
và dịch vụ, số lượng thuyền nghề nhiều nhất là 
nhóm nghề vây, chụp mực, mành, pha xúc với 
507 tàu (trong đó nghề Vây chiếm 402 tàu, không 
tính lượng tàu chong đèn cho nghề vây); tiếp đến 
là nhóm nghề câu với 335 tàu; nhóm nghề lưới rê 
với 279 tàu và nghề lồng bẫy có 106 tàu. 
+ Nhóm tàu <20CV khai thác ở sông và ven 
bờ vẫn không thay đổi nhiều so với 5 năm trước 
(2.198 chiếc khai thác biển, 664 chiếc khai thác 
thủy sản ở sông) tập trung hoạt động chủ yếu 
theo các nhóm nghề: lưới rê, câu tay và chong 
đèn, lưới kéo ruốc, mành đèn, lặn và dịch vụ 
thủy sản. Điều hết sức lưu ý trong các nhóm 
tàu này có 104 tàu nghề kéo ruốc với mùa vụ 
rất ngắn, như vậy cần đặt ra công tác quản lý 
của đội tàu khi không khai thác moi (ruốc) [1]. 
1.2. Khu vực lân cận: 
Số tàu dưới <20CV hoạt động vùng lân 
cận Quảng Nam - Đà Nẵng có đến 1.104 tàu; 
trong đó có 204 tàu nghề lưới rê, 134 tàu nghề 
câu, 93 tàu nghề te xúc ruốc, 92 tàu nghề rớ, 
lồng bẫy, lặn, câu và 582 thuyền thúng máy 
hành nghề lưới rê (đáng chú ý trong đó có 108 
thuyền thúng không được cấp giấy phép khai 
thác thủy sản) [3]. Vùng lân cận Quảng Nam 
- Bình Sơn (Quảng Ngãi) có 428 có tàu, hoạt 
động chủ yêu nghề lưới rê, lồng bẫy, nghề câu 
và nghề lưới kéo. Ngoài ra còn có 272 tàu công 
suất từ 20 ÷ < 90CV vẫn đang hoạt động lén lút 
Bảng 1: Thống kê số mẫu khảo sát theo địa phương và nhóm công suất
Bảng 2: Phân bố mẫu điều tra theo nghề khai thác
ĐVT: Chiếc
ĐVT: Chiếc
66 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
tại vùng biển nghiên cứu [2].
Số lượng tàu thuyền <20CV của Quảng Nam 
và vùng lân cận Bình Sơn (Quảng Ngãi), Đà 
Nẵng đã ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn lợi 
thủy sản vùng biển ven bờ; một thực trạng đáng 
quan ngại là vùng ven bờ vẫn còn nghề lưới kéo 
đáy hoạt động; trong đó Quảng Ngãi còn 15 tàu 
22 - 45CV [2], Đà Nẵng có 10 tàu 30 -35CV và 
Quảng Nam còn 25 tàu hoạt động [5].
2. Thực trạng tàu thuyền, trang thiết bị và ngư cụ 
nghề khai thác hải sản tại vùng biển nghiên cứu
Qua điều tra tra khảo sát 450 tàu đang hoạt 
động tại vùng biển nghiên cứu, kết quả như sau: 
2.1. Tàu thuyền và trang thiết bị
+ Tàu thuyền dưới 20CV tại các địa phương 
có công suất trung bình 10,6CV, trong đó nhỏ 
nhất là tàu thuyền ở Quảng Nam có công suất 
trung bình 11CV, tương ứng với chiều dài tàu 
trung bình là 6,7m.
+ Đối với khối tàu từ 20CV trở lên phổ biến 
nhóm công suất 30CV (23,67 ÷ 31,66), có công 
suất nhỏ nhất là Đà Nẳng (30CV) và lớn nhất 
tại Quảng Ngãi (90CV); tương ứng với chiều 
dài tàu trung bình từ 5,65 đến 11,66m, nhỏ 
nhất là 3,2m và lớn nhất là 15m. Tất cả các địa 
phương, tàu không trang bị máy phụ.
+ Về các trang thiết bị an toàn hàng hải và 
máy móc phục vụ khai thác: Tất cả 3 địa phương, 
2 nhóm công suất và các nhóm nghề chỉ trang bị 
la bàn và đàm thoại tầm ngắn; về máy khai thác 
chỉ trang bị máy tời đối với nghề lưới vây và 
lưới kéo ở Quảng Nam và Quảng Ngãi.
2.2. Thực trạng ngư cụ 
Trong số 450 tàu điều tra, nghề khai thác 
chủ yếu là lưới rê có 2 loại là lưới rê đơn và 
lưới rê 3 lớp. Trong tất cả các họ nghề điều tra, 
hoạt động khai thác tác động lớn đến nguồn lợi 
hải sản vùng ven bờ là nghề lờ dây, nghề lưới 
rê 3 lớp và lưới kéo đáy. 
Để đánh giá cường lực khai thác của từng 
nghề tác động đến nguồn lợi thủy sản, tiến 
hành điều tra các thông số cấu trúc ngư cụ của 
từng nhóm nghề. Cụ thể, chiều dài lưới và kích 
thước mắt lưới đối với lưới rê, số lượng lồng 
bẫy, kích thước mắt lưới ở đụt đối với nghề 
lưới kéo, ở tùng của nghề lưới vây.
Thực trạng cấu trúc ngư cụ và cường lực 
nghề tại vùng biển nghiên cứu được điều tra 
khảo sát ở các địa phương theo các dãi công sất 
đối với từng nghề như sau:
+ Đối với lưới rê đơn và rê 3 lớp: Điều tra 
kích thước mắt lưới nhỏ nhất, chiều dài vàng lưới 
lớn nhất cho cả 2 dãi công suất của nghề lưới rê 
đơn và lưới rê 3 lớp tại vùng biển nghiên cứu.
Bảng 4: Kích thước mắt lưới ở đụt lưới kéo và lờ dây tại các địa phương vùng nghiên cứu
Bảng 3: Kích thước mắt lưới và chiều dài lưới rê tại địa phương nghiên cứu
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 67
2.3. Thực trạng mùa vụ và ngư trường khai 
thác tại các địa phương vùng nghiên cứu
Ngư trường đánh bắt cả 2 mùa trong vùng 
nghiên cứu theo nghề và địa phương thay đổi 
không đáng kể, thống kê qua bảng 5.
Vào vụ chính hoạt động khai thác cả 2 khối 
tàu đều đánh bắt chung ngư trường. Tất cả các 
nghề chủ yếu hoạt động vùng ven bờ không quá 6 
hải lý (trừ nghề lưới vây và lờ dây ở Quảng Ngãi 
nhưng cũng không vượt quá 8 hải lý so với bờ).
Qua điều tra 450 tàu cho kết quả trên, và 
thực tế với số lượng 4.394 tàu đang hoạt động 
tại vùng biển nghiên cứu đã tác động rất lớn đến 
nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ tại Quảng Nam. 
Ngư trường hoạt động vào mùa phụ chủ yếu 
vẫn vùng ven bờ, cách bờ không quá 6 hải lý. 
Nghề lờ dây và lưới vây của khối tàu từ 20CV 
trở lên hoạt động xa hơn nhưng cũng không 
quá 11 hải lý so với bờ.
3. Năng suất, sản lượng, hiệu quả sản xuất 
của đội tàu khai thác hải sản tại địa phương 
nghiên cứu 
Qua khảo sát năm 2016 và phỏng vấn hồi 
cuối năm 2015 về hiệu quả sản xuất của các 
nghề; đồng thời, xác định hiệu quả của các 
chuyến biển gần nhất nhằm xác định xu hướng 
biến dộng nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ tại 
địa phương nghiên cứu. Kết quả như sau:
3.1. Trong năm 2015:
+ Về sản lượng và doanh thu trung bình của 
các đội tàu: Đội tàu nhỏ hơn 20CV ở Quảng 
Nam và đội tàu từ 20CV trở lên ở Quảng Ngãi 
cho sản lượng và doanh thu trung bình cao nhất. 
+ Về chi phí cho hoạt động khai thác: cao 
nhất thuộc 2 nhóm tàu của Quảng Ngãi, thấp 
nhất thuộc đội tàu <20CV của Quảng Nam.
+ Lợi nhuận bình quân/năm: Nhóm tàu 
<20CV có lợi nhuận cao nhất là nghề lồng bẫy 
ghẹ, nghề câu của Quảng Nam. Thấp nhất là 
nghề lờ dây ở Quảng Ngãi và Quảng Nam.
+ Nhóm tàu 20CV trở lên: nghề câu ở Quảng 
Ngãi, nghề lưới kéo và lưới rê 3 lớp ở Quảng 
Nam và Quảng Ngãi cho lợi nhuận cao nhất.
+ Riêng nghề lưới vây ven bờ của Quảng Ngãi, 
chỉ đội tàu <20CV mới có lợi nhuận [2]. Số liệu thống 
kê phỏng vấn cho theo bảng 5 và 6 [1], [2], [3].
Bảng 5: Hiệu quả sản xuất của các nhóm tàu theo địa phương và nhóm công suất năm 2015
Bảng 6: Lợi nhuận trung bình theo nghề và nhóm công suất từng địa phương ĐVT: 1.000đ
3.2. Trong năm 2016:
+ Về sản lượng và doanh thu trung bình: Sản 
lượng cao nhất thuốc đội tàu <20CV ở Quảng Ngãi 
và đội tàu từ 20CV trở lên ở Quảng Nam; doanh 
thu cả 2 nhóm tàu của Quảng Ngãi đều cao nhất.
+ Về chi phí khai thác đều cao cho cả 
2 nhóm tàu ở Quảng Ngãi; nhưng lợi nhuận 
bình quân cao nhất ở đội tàu từ 20CV trở lên 
68 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
ở Quảng Ngãi. Trong khi đó, lợi nhuận cả 2 
nhóm tàu tại Quảng Nam đều cao.
+ Lợi nhuận bình quân/năm theo nghề cao 
nhất thuộc về nhóm nghề lưới vây, lưới rê của 
Quảng Ngãi; nghề câu của Quảng Nam. Đáng 
lưu ý là lợi nhuận nghề lưới rê 3 lớp của nhóm 
từ 20CV trở lên ở Quảng Ngãi sụt giảm nghiêm 
trọng. Lợi nhuận bình quân/năm suy giảm 
nghiêm trọng cả 2 nhóm tàu là nghề lờ dây 
và lưới kéo tại vùng biển nghiên cứu. Số liệu 
thống kê theo bảng 7 và 8.
Bảng 7: Hiệu quả sản xuất của các nhóm tàu theo địa phương và nhóm công suất năm 2016
Bảng 8: Lợi nhuận trung bình theo nghề và nhóm công suất từng địa phương ĐVT: 1.000đ
Như vậy, qua 2 năm (2015 – 2016), sản 
lượng khai thác vùng ven bờ tại vùng biển 
nghiên cứu suy giảm rõ rệt ở cả 2 đội tàu của 
các địa phương. Cụ thể, đội tàu <20CV của 
Quảng Nam từ 27,9 tấn/năm 2015 giảm còn 
11,314 tấn/năm 2016; đội tàu 20CV trở lên, 
từ 35,4 tấn/năm giảm còn 20,2 tấn/năm 2016. 
Trong đó, năng suất và lợi nhuận suy giảm rõ 
nhất là các nghề: Lờ dây, lưới rê và lưới kéo. 
Để nghiên cứu xu hướng biến động nguồn 
lợi thủy sản ven bờ thông qua khảo sát chuyến 
biển gần nhất của các nhóm nghề, nhóm công 
suất trong vùng biển nghiên cứu để so sánh 
với năng suất và lợi nhuận bình quân/năm. 
Kết quả điều tra cho trong các bảng sau:
Bảng 9: Năng suất khai thác các nhóm tàu theo địa phương
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 69
Nhận xét: Qua khảo sát ta thấy xu hướng 
suy giảm nguồn lợi thủy sản vùng ven bờ càng 
rõ nét, khi cả sản lượng và lợi nhuận của các 
nhóm tàu và nghề khai thác suy giảm rõ rệt, trừ 
nghề lồng bẫy ghẹ.
4. Tổ chức sản xuất
+ Về tổ chức sản xuất ở các địa phương, 
theo 2 hình thức: Đơn lẻ và theo tổ đội. Đối 
với nhóm tàu <20CV chủ yếu sản xuất đơn 
lẻ; riêng Đà Nẳng có trên 50% hoạt động theo 
nhóm/đội. Với nhóm tàu từ 20CV trở lên ở 
Quảng Nam có 47,95%, Đà Nẳng có 68,9%, 
Quảng Ngãi có 20% hoạt động theo nhóm/đội.
+ Về hoạt động sản xuất theo nhóm nghề: 
Nhóm dưới 20CV chủ yếu hoạt động đơn lẻ; 
trừ nghề lưới vây 100% theo tổ đội và nghề 
lưới kéo có 50%. Đối với nhóm tàu từ 20CV 
trở lên, hoạt động theo nhóm/đội có trên 50% 
là nhóm nghề lồng bẫy ghẹ, lưới rê đơn và lưới 
vây.
Qua phỏng vấn ngẫu nhiên ngư dân về sản 
lượng đánh bắt hiện tại so với sản lượng đánh 
bắt hàng năm của 5 năm trước, kết quả như sau:
+ Sản lượng đánh bắt đã giảm so với 5 năm 
trước. Cụ thể, nhóm tàu <20CV có hơn 70% 
cho rằng sản lượng đã giảm từ 3% đến hơn 
20%; đối với đội tàu từ 20CV trở lên có 33% 
cho rằng không suy giảm, trong khi đó có 63% 
cho rằng đã suy giảm từ 3 đến 20% tùy nghề 
khai thác. 
+ Nguyên nhân suy giảm sản lượng so với 5 
năm trước, theo ngư dân 3 địa phương thì chủ 
yếu do nhiều nghề khai thác cùng ngư trường 
và nguồn lợi bị suy giảm.
IV. KẾT LUẬN
1. Vùng biển nghiên cứu có số lượng tàu 
thuyền <20CV chiếm số lượng lớn; riêng 
Quảng Nam – Đà Nẳng là 3.988 chiếm trên 
85% tổng số tàu thuyền. Ngoài ra, còn có 272 
tàu công suất 20 ÷ <90CV, trong đó có 50 tàu 
lưới kéo đáy vẫn đang hoạt động vùng ven bờ;
2. Qua điều tra thu thập số liệu sơ cấp tại 
Bảng 10: Năng suất khai thác các nhóm tàu theo nghề
Bảng 11: Lợi nhuận chuyến biển các nhóm tàu ĐVT: 1.000đ
Bảng 12: Lợi nhuận bình quân theo nghề ĐVT: 1.000đ
70 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2018
vùng biển nghiên cứu: 
+ Tất cả tàu thuyền <90CV đều hoạt động 
vùng ven bờ với các họ nghề ảnh hưởng đến 
nguồn lợi đáng lưu ý là nghề lưới kéo, nghề lờ 
dây và lưới rê 3 lớp;
+ Ngư trường đánh bắt của các nhóm tàu 
không chênh lệch nhiều, nhóm <20CV cách bờ 
không quá 6 hải lý, nhóm >20CV không quá 7 
hải lý (trừ khu vực đảo Lý Sơn); 
+ Qua sản lượng đánh bắt hàng năm và 
chuyến biển gần nhất, nhận thấy: Năng suất 
đánh bắt của đội tàu khai thác vùng biển ven bờ 
suy giảm rõ rệt, nhất là nghề lưới kéo và lờ dây;
+ Trong đó sự suy giảm sản lượng chủ yếu 
theo ngư dân: Do nhiều họ nghề khai thác cùng 
ngư trường, và nguồn lợi suy giảm.
+ Thu nhập của ngư dân theo các nhóm 
nghề, theo các vùng miền, địa phương chưa 
bằng nhau.
+ Các nghề khai thác mang tính hủy diệt 
vẫn còn hoạt động mạnh vùng ven bờ dẫn đến 
các loại thủy hải sản, cá con, cá mới trưởng 
thành bị khai thác quá mức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chi cục Thủy sản Quảng Nam. Báo cáo thống kê tàu thuyền đăng ký các năm 2015, 2016, 3/2017
2. Chi cục Thủy sản Quảng Ngãi. Báo cáo thống kê tàu thuyền đăng ký các năm 2015, 2016, 3/2017
3. Chi cục Thủy sản Đà Nẵng. Báo cáo thống kê tàu thuyền đăng ký các năm 2015, 2016, 3/2017
4. Chi cục Thủy sản Quảng Nam (9/2016). Báo cáo đánh giá tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2016. 
Nhiệm vụ, giải pháp năm 2017.
5. Nguyễn Trọng Thảo (10/2017), báo cáo chuyên đề “Đánh giá hiện trạng khai thác hải sản vủng biển ven bờ 
Quảng Nam và lân cận”.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 nghien_cuu_danh_gia_hien_trang_khai_thac_hai_san_vung_bien_v.pdf nghien_cuu_danh_gia_hien_trang_khai_thac_hai_san_vung_bien_v.pdf