Nếu đối chiếu chung độ mô học của
carcinôm xâm nhập trong khảo sát này với các
công trình nghiên cứu của các tác giả khác,
chúng tôi nhận thấy đa số các ghi nhận về độ mô
học gần giống nhau ngoại trừ số liệu của Fisher
và cs[3], của Elston[2] thì khác biệt nhiều, sự khác
biệt trong kết quả đánh giá độ mô học đã được
Elston xem là phổ biến. Theo Elston khi cho
điểm các yếu tố trên tiêu bản, các bác sỹ giải
phẫu bệnh thường cho điểm khác nhau do nhận
định chủ quan của mỗi người. Vì vậy, trong loạt
nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp chấm
điểm cho từng trường hợp, có ít nhất là 2 bác sỹ
giải phẫu bệnh có kinh nghiệm cùng nhau chấm
điểm, nếu có kết quả khác nhau thì chúng tôi sẽ
thảo luận để đi đến sự thống nhất về điểm số.
Trong loạt nghiên cứu 524 trường hợp
carcinôm xâm nhập này, chúng tôi cố gắng tìm
mối tương quan giữa độ mô học với các tính
chất xâm nhiễm vi thể của ung thư (từ bảng 7
đến bảng 13).
Sự xâm nhiễm mạch máu và mạch bạch
huyết cũng tăng dần theo độ mô học, ít nhất ở
độ I (3,4%) và nhiều nhất ở độ II (10,3%).
Vấn đề liên quan giữa độ mô học và sự xâm
nhiễm da vú ở trên bướu, không có mối liên
quan rõ rệt, độ I (0,6%), độ III (0%). Điều này có
thể giải thích do đa số bệnh nhân ở các tỉnh xa,
thường điều trị tại nhà bằng cách đắp, giặt thuốc
lá làm tăng kích thước của bướu và có sự viêm
nhiễm, dính da mặc dù độ mô học của bướu ở
mức độ thấp.
Tỉ lệ xâm nhiễm da rìa vết mổ ở cả 3 độ mô
học đều thấp, từ 0-0,8%, chứng tỏ các phẫu
thuật viên đều bảo đảm tốt việc cắt rộng
quanh mô bướu, khiến tỉ lệ tái phát tại vết mổ
ở mức độ thấp.
Vấn đề liên quan giữa độ mô học và tính chất
bướu có nhiều khối còn chưa rõ ràng, cần nghiên
cứu thêm, độ I (25%), trong khi độ III (0,2%).
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 171 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu độ mô học của ung thư vú xâm nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
367
367
NGHIÊN CỨU ĐỘ MÔ HỌC CỦA UNG THƯ VÚ XÂM NHẬP
Hứa Chí Minh*, Hứa Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Sào Trung*
TÓM TẮT
Mục tiêu: Ung thư vú là một trong những loại ung thư thường gặp nhất ở phụ nữ. Việc tiên lượng
ung thư vú dựa vào nhiều yếu tố, trong đó có độ mô học. Đề tài này sẽ nghiên cứu về độ mô học và sự tương
quan với các đặc điểm giải phẫu bệnh và tình trạng di căn hạch.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sẽ đánh giá các đặc điểm Tuổi, kích thước u, vị trí
u, tình trạng di căn hạch nách, độ mô học của 524 trường hợp ung thư vú tại bệnh viện Đại học Y Dược từ
năm 2003-2006.
Kết quả: Tuổi thường gặp nhất: 40-59 (57,8%), vị trí u: ¼ trên ngoài (55,7%) và loại mô học thường
gặp: carcinôm ống tuyến vú, NOS. Hai độ mô học thường gặp: độ I (35,8%), độ II (56,7%). Độ mô học có
liên quan với tình trạng hoại tử u, tình trạng di căn hạch.
Kết luận: Độ mô học càng cao sẽ làm tiên lượng bệnh ung thư vú càng xấu.
ABSTRACT
STUDYING ON HISTOLOGIC GRADE OF INVASIVE BREAST CANCER
Hua Chi Minh, HuaThi Ngoc Ha, Nguyen Sao Trung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 - 2008: 368 - 372
Objectives: Breast cancer is one of the most common cancer in women. There are many prognostic
factors of breast cancer, including histologic grade. This article study histologic grade and its correlation
with pathologic characteristics and lymph node metastasis.
Material and methods: Five hundreds-twenty four breast cancer patients collected from University
Medical Center from 2003-2006. Age, tumor size, tumor position, lymph node status, histologic grade were
evaluated.
Results: the most common of breast cancer: age: 40-59 (57,8%), tumor position: a upper-outer quadrant
(55,7%) and major histological type: ductal carcinôma, NOS. The frequent histopathologic grades are grade I
(35,8%), grade II (56,7%). Histologic grade have correlation with tumor necrosis, infiltration and lymph
node metastasis.
Conclusion: The higher histologic grade, the worse breast cancer prognosis.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư vú là một trong những ung thư có
xuất độ cao ở giới nữ. Theo nhiều công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước, ung thư vú
thường có xuất độ cao thứ nhất hoặc thứ nhì so
với các loại ung thư khác ở giới nữ[1,5 ,12,13]. Do đó,
đã có nhiều công trình nghiên cứu về nhiều khía
cạnh khác nhau của ung thư vú. Về phương diện
chẩn đoán, nhất là giải phẫu bệnh học, các tác giả
nước ngoài đã nghiên cứu rất kỹ, giúp cho việc
chẩn đoán dương tính các ung thư vú và chẩn
đoán phân biệt ung thư vú với các tổn thương
lành tính khác của vú. Trong thập niên 1980, các
tác giả nước ngoài còn áp dụng việc khảo sát mô
học của carcinôm vú xâm nhập và dùng độ mô
học (grade) như một thông số để đánh giá tiên
lượng bệnh[2,15]. Ở nước ta cũng có công trình
nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến ung
thư vú. Tuy nhiên, các công trình này hoặc chỉ đi
sâu vào vấn đề dịch tễ học, lâm sàng, điều trị,
hoặc chỉ nghiên cứu về một vài đặc tính giải phẫu
bệnh học đại thể và vi thể[,5,9,13]. Riêng về độ mô
* Bộ môn Giải phẫu bệnh – Đại học Y Dược TP. HCM
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
368
368
học, chỉ mới có một khảo sát của N. M. Hùng[8]
trên 40 trường hợp ở bệnh viện K Hà Nội.
Thực hiện công trình nghiên cứu dựa trên
loạt lớn bệnh nhân, chúng tôi nhằm các mục tiêu
sau đây:
1. Khảo sát độ mô học của carcinôm vú xâm
nhập.
2. Tìm hiểu mối liên hệ của độ mô học với
loại mô học.
3. Khảo sát mối tương quan giữa độ mô học
với tình trạng di căn hạch limphô tại vùng.
4. Khảo sát mối tương quan giữa độ mô học
với tình trạng xâm nhập vi thể.
5. Khảo sát về tuổi mắc bệnh, định khu của
carcinôm vú xâm nhập.
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Tiền cứu 524 trường hợp ung thư vú ở bệnh
nhân nữ đã được điều trị tại BV ĐHYDược Tp.
HCM trong thời gian từ 2003 đến 2006. Các
trường hợp này đều được chẩn đoán giải phẫu
bệnh là carcinôm xâm nhập. Vật liệu nghiên cứu
gồm các bệnh án lâm sàng, các tiêu bản vi thể.
Các mẫu bệnh phẩm sau khi mổ đều được gửi
đến bộ môn giải phẫu bệnh, bác sỹ giải phẫu
bệnh tự tay cắt lọc bệnh phẩm theo trình tự sau:
1. Mô u.
2. Cân cơ ngực lớn.
3. Núm vú.
4. Da trên mô u
5. Da vú ở rìa vết mổ
6. Mô tuyến vú ở nhiều nơi khác ngoài mô vú
7. Các hạch nách nhóm I
8. Các hạch nách nhóm II
9. Các hạch nách nhóm III
Sau đó các mẫu bệnh phẩm được khảo sát
giải phẫu bệnh vi thể dưới kính hiển vi quang
học, do hai bác sỹ giải phẫu bệnh có kinh
nghiệm đọc. Phân loại vi thể và đánh giá độ mô
học dựa theo cách đánh giá của Elston[2]. Đánh
giá và đối chiếu các kết quả trên với các kết quả
của các công trình đã công bố bằng các phép
kiểm thống kê, phép U và phép kiểm χ2.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Tuổi bệnh nhân
Bảng 1: Tỉ lệ mắc bệnh theo tuổi
Tuổi 20-29 30-39 40-49 50-59 60-69 ≥ 70 TC
Số
ca 6 140 180 123 49 26 524
Tỉ lệ
% 1,14 26,71 34,35 23,47 9,35 4,96 100
Tuổi nhỏ nhất: 25; Tuổi cao nhất: 88
Đặc tính giải phẫu bệnh đại thể
Vị trí vú bị ung thư
Bảng 2: Tỉ lệ vị trí vú bị ung thư
Vị trí Số trường hợp Tỉ lệ %
Vú trái 284 54,2
Vú phải 240 45,8
TC 524 100
Định khu của khối bướu
Bảng 3: Định khu của bướu
Định
khu
¼ trên
ngoài
¼ trên
trong
¼
dưới
ngoài
¼
dưới
trong
Quầng
vú
Không
ghi
nhận
TC
Số ca 292 119 43 25 41 4 524
Tỉ lệ
% 55,7 22,7 8.2 4.7 7,8 0,7 100
Kích thước khối bướu
Bảng 4:
Kích thước Số trường hợp Tỉ lệ %
< 2 cm 42 8
2 cm – 5 cm 377 72
> 5 cm 87 20
TC 524 100
Đặc tính giải phẫu bệnh vi thể
Loại mô học
Bảng 5: Tỉ lệ các loại carcinôm xâm nhập
Loại carcinôm Số trường hợp Tỉ lệ %
Ống tuyến vú NOS 475 90,7
Ống tuyến vú đa bào 13 2,5
Ống tuyến vú nhầy 20 3,9
Ống tuyến vú nhú 2 0,3
Ống tuyến vú ống 1 0,2
Ống tuyến vú chuyển sản gai 1 0,2
Carcinôm tại chỗ 1 0,2
Glycogen rich carcinôm 1 0,2
Tiểu thùy 3 0,5
Bã khô 5 0,9
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
369
369
Loại carcinôm Số trường hợp Tỉ lệ %
Nhú 2 0,3
Tổng cộng 524 100
Độ mô học của các carcinôm xâm nhập
Bảng 6: Độ mô học
Độ mô học Số trường hợp Tỉ lệ %
I 125 23,8
II 336 64,1
III 63 12,1
Tổng cộng 524 100
Các đặc điểm vi thể khác liên quan đến độ
mô học của carcinôm xâm nhập
Bảng 7: Liên quan giữa độ mô học và sự xâm nhiễm
mạch limphô và mạch máu
Xâm nhập mạch máu Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 18 54 10
Tỉ lệ % 3,4 10,3 2
Bảng 8: Liên quan giữa độ mô học và tình trạng xâm
nhiễm cân cơ ngực lớn
Xâm nhiễm cân cơ Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 17 33 2
Tỉ lệ % 3,2 6,3 0,4
Bảng 9: Liên quan giữa độ mô học và tình trạng xâm
nhiễm da vú ở trên u
Xâm nhiễm cân cơ Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 3 8 0
Tỉ lệ % 0,6 1,6 0
Bảng 10: Liên quan giữa độ mô học và tình trạng
xâm nhiễm da vú ở rìa vết mổ
Xâm nhiễm da rìa vết mổ Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 3 4 0
Tỉ lệ % 0,6 0,8 0
Bảng 11: Liên quan giữa độ mô học và tình trạng
bướu có nhiều khối trong mô tuyến vú
Bướu có nhiều khối Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 13 6 1
Tỉ lệ % 25 1,2 0,2
Bảng 12: Liên quan giữa độ mô học và phản ứng của
mô limphô trong mô bướu
Phản ứng mô limphô Độ I Độ II Độ III
Số trường hợp 103 169 24
Tỉ lệ % 19,6 32,2 4,6
Tình trạng di căn hạch limphô
Tỉ lệ di căn hạch limphô theo độ mô học
Bảng 13: Tỉ lệ di căn hạch
Độ mô học Số trường hợp di căn Tỉ lệ di căn %
I (125 TH) 73 14%
II (336 TH) 194 37%
III (65 TH) 25 4,8%
Tổng số
(524 TH)
292 55,7%
BÀN LUẬN
Tuổi của bệnh nhân
Theo bảng 1, từ tuổi 30 của ung thư vú bắt
đầu tăng vọt so với trước đó, với 26,71% ở 30-39
tuổi. Cao nhất ở khoảng tuổi từ 40-49 (34,35%).
Từ 50-59, xuất độ ung thư vú vẫn còn đáng kể
(23,47%). Tỉ lệ này phù hợp với các số liệu của
các tác giả trước[1,5,12,13]. Như thế chỉ riêng từ 40-59
tuổi, xuất độ ung thư vú đã lên đến 57,8%.
Đặc tính giải phẫu bệnh đại thể
Tỉ lệ ung thư vú xâm nhập xảy ra ở vú trái
(54,2%) nhiều hơn so với vú phải (45,8%) phù
hợp với y văn thế giới[1,5,12, 13].
Tỉ lệ về định khu của khối ung thư ở vú
trong loạt nghiên cứu này cũng phù hợp với y
văn[1,5,12,13]. Nhiều nhất là ở ¼ trên ngoài của vú
(55,7%). Ít nhất là ở ¼ dưới trong (4,7%).
Theo bảng 4 thì đa số bệnh nhân bị ung thư vú
đến khám ở giai đoạn khá muộn, u có kích thước
từ 2-5 cm chiếm tỉ lệ cao hẳn (72%) so với giai đoạn
sớm, bướu có kích thước nhỏ dưới 2cm (8%). Điều
này khiến chúng ta phải suy nghĩ để tăng cường
giáo dục cho nhân dân, phát hiện sớm bệnh ung
thư vú ở giới nữ, nhất là đối với phụ nữ từ 40
tuổi trở lên.
Loại mô học
Theo bảng 5, carcinôm ống tuyến vú NOS có
xuất độ cao nhất (90,7%) và carcinôm tiểu thùy
có xuất độ thấp (0,5%).
So sánh xuất độ của các carcinôm xâm nhập
trong công trình nghiên cứu này với một số công
trình nghiên cứu khác, chúng tôi thấy loại
carcinôm NOS luôn luôn có xuất độ vượt trội.
Theo Elston[2] phương pháp đánh giá ung
thư vú theo độ mô học ra đời từ năm 1925 bởi
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
370
370
Greenhoughle. Sau đó là một loạt các công trình
khác của Patey và Graff (1928), Scaff và Handley
(1938), Bloom (1950), Bloom và Richardson
(1957), Elston nhận định rằng độ mô học của
ung thư vú là một chỉ số có thể giúp các nhà lâm
sàng đánh giá phần nào tiên lượng bệnh. Việc
tiên lượng bệnh này sẽ càng chính xác hơn khi
phối hợp độ mô học của ung thư vú với loại mô
học, tình trạng di căn hạch và sự xâm nhiễm da,
mạch máu, cân cơ
Theo cách đánh giá này độ mô học được áp
dụng cho các carcinôm xâm nhập, dựa theo 3
yếu tố sau đây: sự thành lập ống tuyến, mức độ
di dạng nhân, tỉ lệ nhân chia.
Mỗi yếu tố được chấm từ 1-3 điểm. Cộng
điểm của 3 yếu tố với nhau, độ mô học được xếp
như sau:
Độ I (biệt hóa rõ): 3-5 điểm
Độ II (biệt hóa vừa): 6-7 điểm
Độ III (biệt hóa kém): 8-9 điểm
Tại Việt Nam, năm 1990, N. M. Hùng[8] đã áp
dụng cách đánh giá độ mô học này trên bệnh
nhân được điều trị tại BV K Hà Nội, và nhận
thấy rằng độ mô học của ung thư vú có liên
quan đến mức độ di căn hạch và với tiên lượng
bệnh.
Theo bảng 6, trong 524 trường hợp carcinôm
xâm nhập, nhiều nhất là độ II (64,1%) và ít nhất
là độ III (12,1%).
Bảng : Tỉ lệ % về độ mô học theo các tác giả
Tác giả Độ mô học
I
Độ mô học
II
Độ mô học
III
Bloom,
Richardson[2]
26% 45% 29%
Wolff et al[13] 33% 33% 34%
Champion et al[13] 23% 52% 25%
Fisher et al[3] 3% 30% 67%
Elston[2] 17% 37% 46%
N. M. Hung[8] 26,1% 65,2% 8,7%
N.S.Trung,
N.C.Hung[10]
38,32% 40,52% 21,16%
Nghiên cứu này 23,8 64,1 12,1
Nếu đối chiếu chung độ mô học của
carcinôm xâm nhập trong khảo sát này với các
công trình nghiên cứu của các tác giả khác,
chúng tôi nhận thấy đa số các ghi nhận về độ mô
học gần giống nhau ngoại trừ số liệu của Fisher
và cs[3], của Elston[2] thì khác biệt nhiều, sự khác
biệt trong kết quả đánh giá độ mô học đã được
Elston xem là phổ biến. Theo Elston khi cho
điểm các yếu tố trên tiêu bản, các bác sỹ giải
phẫu bệnh thường cho điểm khác nhau do nhận
định chủ quan của mỗi người. Vì vậy, trong loạt
nghiên cứu này, chúng tôi đã phối hợp chấm
điểm cho từng trường hợp, có ít nhất là 2 bác sỹ
giải phẫu bệnh có kinh nghiệm cùng nhau chấm
điểm, nếu có kết quả khác nhau thì chúng tôi sẽ
thảo luận để đi đến sự thống nhất về điểm số.
Trong loạt nghiên cứu 524 trường hợp
carcinôm xâm nhập này, chúng tôi cố gắng tìm
mối tương quan giữa độ mô học với các tính
chất xâm nhiễm vi thể của ung thư (từ bảng 7
đến bảng 13).
Sự xâm nhiễm mạch máu và mạch bạch
huyết cũng tăng dần theo độ mô học, ít nhất ở
độ I (3,4%) và nhiều nhất ở độ II (10,3%).
Vấn đề liên quan giữa độ mô học và sự xâm
nhiễm da vú ở trên bướu, không có mối liên
quan rõ rệt, độ I (0,6%), độ III (0%). Điều này có
thể giải thích do đa số bệnh nhân ở các tỉnh xa,
thường điều trị tại nhà bằng cách đắp, giặt thuốc
lá làm tăng kích thước của bướu và có sự viêm
nhiễm, dính da mặc dù độ mô học của bướu ở
mức độ thấp.
Tỉ lệ xâm nhiễm da rìa vết mổ ở cả 3 độ mô
học đều thấp, từ 0-0,8%, chứng tỏ các phẫu
thuật viên đều bảo đảm tốt việc cắt rộng
quanh mô bướu, khiến tỉ lệ tái phát tại vết mổ
ở mức độ thấp.
Vấn đề liên quan giữa độ mô học và tính chất
bướu có nhiều khối còn chưa rõ ràng, cần nghiên
cứu thêm, độ I (25%), trong khi độ III (0,2%).
Tình trạng di căn hạch limphô
Bảng 13 cho thấy tỉ lệ di căn hạch limphô của
các độ mô học. Các hạch bị di căn là hạch nách
cùng bên với vú bị ung thư ở cả 3 nhóm hạch.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
371
371
Tỉ lệ di căn hạch nách ở độ mô học I là 14%,
ở độ mô học II là 37% chứng tỏ độ mô học cao
thì tỉ lệ di căn hạch nách nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Qua khảo sát 524 trường hợp carcinôm xâm
nhập của vú, chúng tôi nhận thấy:
- Mức độ thường gặp của các loại carcinôm
theo thứ tự giảm dần là: NOS, đa bào, nhầy,
nhú, tiểu thùy, trong đó có sự vượt trội hẳn của
carcinôm ống tuyến vú NOS.
- Độ mô học có liên quan đến sự xâm nhiễm
vi thể ở mạch máu và mô chung quanh u, độ mô
học càng cao, khả năng xâm nhiễm càng lớn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Blanc B., Boubli L. (1989): Cancer du sein. Dans
Gynécologie, édition pradel, Edisem, p 440-456.
2. Elston CW. (1992): Grading of invasive carcinoma of the
breast. In Page D. L., Anderson T. J. Diagnostic
histopathology of the breast. Churchill Livingston, p 300-311.
3. Fisher E. et al (1975): The pathology of invasive breast
cancer. Cancer 36:1.
4. Henderson I. C. (1991): Breast cancer. In Wilson J. D.,
Braunwald E. et al. Harrison’s principles of internal
medicine. 12 edition, Mc Grawhill, p 1612-1628.
5. McDivitt RW., Stewart FW., Berg JW. (1967): Tumors of
the breast. In Atlas of tumor pathology, series 2, fascicle 2,
Washington DC, AFIP.
6. Nguyễn Bá Đức (1991): Dự thảo chương trình phòng chống
ung thư quốc gia. Y học Việt Nam, trang 2-12, tập 158.
7. Nguyễn Chấn Hùng và cs (1993): Ghi nhận ung thư tại
Trung tâm Ung bướu Thành phố Hồ Chí Minh năm 1990-
1991-1992. Tài liệu của Trung tâm Ung bướu Thành phố
Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Mạnh Hùng (1991): Đánh giá độ tổ chức học của
ung thư biểu mô tuyến vú. Y học Việt Nam, trang 120-122,
tập 158.
9. Nguyễn Sào Trung (1991): Góp phần khảo sát đặc tính giải
phẫu bệnh của ung thư vú của phụ nữ miền Nam Việt
Nam. Tập san công trình nghiên cứu y học. Trường Đại
học Y Dược Tp. HCM, trang 52-55.
10. Nguyễn Sào Trung, Nguyễn Chấn Hùng (1994): Góp phần
nghiên cứu độ mô học của ung thư vú xâm nhập. Tập san
hội Hình thái học Việt Nam, trang 30-32.
11. Nguyễn Văn Nguyên (1975): Góp phần nghiên cứu sang
thương mô bệnh học của tuyến vú. Luận án bác sỹ, Đại
học Y khoa Sài Gòn.
12. Parkin D. M. et al (1986): Cancer occurrence in developing
countries. IARC scientific publication No 75, Lyon.
13. Phạm Hoàng Anh, Nguyễn Thị Hạnh, Trần Hồng Trường
(1991): Tỉ lệ mắc ung thư ở người Hà Nội ước tính qua 3 năm
thực hiện ghi nhận. Y học Việt Nam, trang 13-16, tập 158.
14. Sakamoto G. (1992): Infiltration carcinoma, major histological
types. In Page D. L., Anderson T. J. Diagnostic histopathology
of the breast. Churchill Livingston, p 194-235.
15. Wallgreen A., Silfversward C., Eklund G. (1976):
Prognostic factors in mammary carcinoma. Acta Radiol 15:
1-16.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 12 * Phụ bản Số 1 * 2008 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề HN KH KT BV Bình Dân
372
372
STUDYING ON HISTOLOGIC GRADE OF INVASIVE BREAST CANCER.................................................367
Hua Chi Minh, HuaThi Ngoc Ha, Nguyen Sao Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 1 -
2008: 368 - 372 .......................................................................................................................................................367
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_do_mo_hoc_cua_ung_thu_vu_xam_nhap.pdf