Tồn tại dòng hải lưu mạnh có tốc độ dòng
trên 100 cm/s, chảy liên tục từ Tây sang Đông
nằm trong khoảng vĩ độ từ 50S đến 50N. Theo
thời gian dòng hải lưu biến đổi, lan rộng ra hai
bên và xuất hiện các xoáy nước lớn trong dải
hải lưu này. Song song với dòng hải lưu Tây -
Đông còn tồn tại dòng hải lưu mạnh ôm sát bờ
phía Tây Ân Độ Dương từ Nam Phi đến Sô Ma
Li theo hướng Nam - Bắc và bên bờ đông
Madagascar tồn tại dòng hải lưu mạnh chảy
theo hướng từ Bắc xuống Nam.
Xuất hiện và tồn tại nhiều xoáy nước Ấn
Độ Dương có kích thước lớn với đường kính có
thể lên tới 50 km đến hàng trăm km. Theo thời
gian các xoáy này dịch chuyển sang ngang, lên,
xuống và những vực xoáy xuất hiện gần khắp
Ấn Độ Dương nhưng chủ yếu xuất hiện nhiều
dải từ Nam Phi tới Australia.
Đây là nghiên cứu hoàn lưu dòng chảy đại
dương bên ngoài Biển Đông, sử dụng công
nghệ OpeNDAP để truy cập và lấy số liệu toàn
cầu cho kết quả phù hợp với các ảnh vệ tinh
của NASA công bố. Các kết quả nghiên cứu rất
có giá trị tham khảo và cung cấp thông tin cho
các hoạt động hàng hải, cứu hộ, giảng dạy và
các nghiên cứu khác ở vùng biển Ấn Độ
Dương
8 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 504 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương bằng mô hình số trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
204
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển; Tập 14, Số 3; 2014: 204-211
DOI: 10.15625/1859-3097/14/3/5157
NGHIÊN CỨU DÒNG HẢI LƯU ẤN ĐỘ DƯƠNG
BẰNG MÔ HÌNH SỐ TRỊ
Phạm Xuân Dương
Viện Hải dương học-Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
E-mail: duongpx63@yahoo.com
Ngày nhận bài: 5-6-2014
TÓM TẮT: Công nghệ OpeNDAP (Open-source Project for a Network Data Access Protocol)
được sử dụng để truy cập lấy số liệu toàn cầu cho khu vực Ấn Độ Dương phục vụ nghiên cứu. Dòng
hải lưu Ấn Độ Dương đã được tính toán trong thời gian dài hàng năm, các kết quả tính toán cho
thấy: Tồn tại các dòng hải lưu mạnh chảy liên tục từ Tây sang Đông cách xa đất liền nằm trong
khoảng vĩ độ từ 50S đến 50N và dòng hải lưu sát bờ phía Tây với tốc độ trên 100 cm/s. Ngoài ra ở
Ấn Độ Dương, tại nhiều vùng xuất hiện các xoáy nước synop có kích thước lớn với đường kính đến
hàng trăm km và tốc độ dòng trong các xoáy này rất lớn, trên 100 cm/s. Theo thời gian các vực
xoáy nước này không hoàn toàn nằm một chỗ mà thường xuyên di chuyển. Đối chiếu các kết quả
nghiên cứu với các bức ảnh công bố của NASA cho thấy có sự phù hợp.
Từ khóa: Ấn Độ Dương, Dòng hải lưu, ROMS, xoáy nước Synop.
MỞ ĐẦU
Ấn Độ Dương là đại dương lớn thứ ba trên
thế giới, bao phủ khoảng 74 triệu km2, độ sâu
trung bình khoảng 3.890 m. Địa hình đáy Ấn
Độ Dương gồm các dãy núi lửa gồ ghề, còn
hoạt động. Những dãy núi này có hình dạng
chữ “Y” ngược, với đỉnh trên tại biển Aradian,
còn hai nhánh của nó tuần tự trải dài bên dưới
châu Phi và Úc. Các dòng hải lưu thịnh hành ở
Ấn Độ Dương phức tạp và phần lớn bị ảnh
hưởng bởi chế độ gió mùa. Gió mùa có tốc độ
gió lên đến 45 km/h xuất hiện tại phía Bắc, tại
biển Arabian và tại vịnh Bengal. Trong thời
gian khoảng tháng 4 đến tháng 10, Ấn Độ
Dương chịu ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam
và những tháng còn lại chịu ảnh hưởng của gió
mùa Đông Bắc. Ấn Độ Dương có tầm quan
trọng về mặt kinh tế và là vùng sản xuất dầu
lớn nhất trên thế giới bao gồm ở vịnh Persia,
Bengal và biển Arabia, ở đây có lượng dầu
khổng lổ nằm dưới biển.
ROMS [1] 1à mã nguồn mở của mô hình
hoàn lưu đại dương được sử dụng rộng rãi
trong cộng đồng khoa học, lượng người nghiên
cứu sử dụng và phát triển tăng nhanh trong
những năm gần đây, đặc biệt là tại các nước và
các cơ quan nghiên cứu có năng lực tính toán
thấp. Độ tin cậy của mô hình ROMS được đánh
giá cao qua so sánh các kết quả mô phỏng chế
độ thủy động lực học trong vùng biển giả định
trong trường hợp đơn giản đã có lời giải tích
(Huang và Spaulding “1995” đã có lời giải tích
khi tính dao động truyền vào kênh có độ sâu
không đổi, không có ma sát đáy, dao động mực
nước có biên độ 50 cm được đưa vào một đầu
của kênh kín có kích thước 12 × 12 km.
Trường hợp thứ hai là xem xét tính phù hợp về
phân bố vận tốc dòng chảy theo phương phẳng
đứng của một kênh kín cũng có kích thước 12 ×
12 km có độ sâu là 40 m dước tác động của ứng
suất gió 0,1 N/m2). ROMS được rất nhiều nhà
nghiên sử dụng và phát triển với nhiều qui mô
không gian và thời gian khác nhau: từ dải ven
Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương
205
bờ tới các đại dương thế giới; mô phỏng cho
vài ngày, vài tháng tới hàng chục năm.
Ngày 8/3/2014 máy bay MH370 của hãng
hàng không Malaysia mất tích một cách bí ẩn
sau khi cất cánh từ sân bay quốc tế Kuala
Lumpur (Malaysia) để đến thủ đô Bắc Kinh,
Trung Quốc. Trong việc tìm kiếm xác máy bay,
lực lượng tìm kiếm sẽ phải tính toán và thu hẹp
phạm vi nơi máy bay có thể lao xuống biển.
Tuy nhiên nhiệm vụ đó không hề dễ dàng chút
nào vì vùng biển Nam Ấn Độ Dương là một
khu vực biển biến động vô cùng bất thường.
Tại đây với những dòng hải lưu liên tục thay
đổi vận tốc và hướng mỗi ngày, khiến lực
lượng tìm kiếm gặp rất nhiều khó khăn trong
việc lần tìm dấu vết của những vật thể trôi dạt,
cũng như xác định xuất phát điểm của chúng.
Hình 1. Vùng biển phía tây Australia giáp với
Ấn Độ Dương, nơi được cho là MH370 có thể
bay qua (cho đến tháng 6/2014 vẫn chưa xác
định được máy bay rơi ở đâu). Australia sẽ tìm
kiếm ở vùng biển này, từ Ấn Độ Dương đến
quần đảo Cocos (chấm đỏ, Đồ họa:
Mapsofworld)
Các nghiên cứu, tính toán, mô phỏng dòng
hải lưu Ấn Độ Dương của các nhà khoa học
Việt Nam đăng trên các tạp chí không nhiều,
mà thường đăng tải các kết quả nghiên cứu về
các vùng, miền của Biển Đông là chủ yếu. Việt
Nam đang trên đường hội nhập quốc tế về mọi
lĩnh vực và hiện nay việc hội nhập nghiên cứu
các hoàn lưu đại dương thế giới của các nhà
khoa học biển Việt Nam đang được đặt ra. Do
vậy việc áp dụng mô hình số trị để nghiên cứu
dòng hải lưu Ấn Độ Dương trong bối cảnh hiện
nay là cần thiết để chúng ta có được những hiểu
biết nhiều hơn nữa về tính chất, quy luật, hình
thái của các dòng hải lưu Ấn Độ Dương cả về
mặt định tính cũng như định lượng.
CƠ SỞ VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Cơ sở nghiên cứu, tính toán dòng hải lưu
Ấn Độ Dương trong nghiên cứu của tác giả là
triển khai áp dụng và phát triển mô hình
ROMS. Các phương trình chi phối của ROMS
được thiết lập dựa trên ba hệ tọa độ: Đề Các -
Sigma - Cong trực giao. Hệ tọa độ Đề Các với
x tăng theo hướng Đông, y tăng theo hướng Bắc
và z tăng theo hướng thẳng đứng từ dưới lên.
Bề mặt tự do của biển được xác định tại vị trí z
= ζ(x,y,t) và đáy tại vị trí z = - H(x,y). Trong
đó, v
là vector vận tốc theo phương ngang
với các thành phần (u, v), w là thành phần
thẳng đứng, T-S là thành phần nhiệt - muối và
∇ là toán tử gradient theo phương ngang. Khi
đó ROMS đưa ra bảy phương trình: Phương
trình liên tục đối với chất lỏng không nén được,
hai phương trình động lượng theo phương
ngang, phương trình động lượng theo phương
thẳng đứng, phương trình trạng thái, phương
trình khuyếch tán nhiệt độ, phương trình
khuyếch tán độ muối [2]. Bằng cách biến đổi từ
tọa độ Đề Các (x, y, z) sang hệ tọa độ không
thứ nguyên (Sigma) theo phương thẳng đứng
(x’, y’, σ ), sau đó sử dụng các toán tử xx =' ,
'y y= , zH
ζσ ζ
−
=
+
(z = ζ “σ = 0”, z =-H
“σ =-1”), chúng ta thực hiện các phép biến đổi
hệ tọa độ Đề Các sang hệ tọa độ Sigma ở mặt
biển z = ζ đến đáy biển z = -H có tọa độ
không thứ nguyên σ = 0 và σ = -1. Khi đó
nhận được 7 phương trình chi phối của ROMS
trong hệ tọa độ Sigma [3]. Ở hệ tọa độ cong
trực giao, bằng cách sử dụng các toán tử ξ, η
vuông góc và các biên của miền tính trùng với
các đường đẳng ξ, η, khi hàm ánh xạ được xác
Phạm Xuân Dương
206
định thì các hệ số đo ( )ηξ ,m , ( )ηξ ,n cũng
được xác định. Các hệ số đo m và n của hệ tọa
độ cong trực giao liên kết các khoảng cách sai
phân theo hướng ξ, η với các cung thực tế, thay
thế và biến đổi các phương trình của ROMS
trong hệ tọa độ Đề Các sẽ được 7 phương trình
tương ứng trong hệ tọa độ cong trực giao [4, 5].
Miền nghiên cứu nằm trong khoảng từ 350S
- 300N và 180N - 1200N chia thành 137 × 199
điểm nút với kích thước bước lưới dy dao động
trong khoảng 45,63 - 55,57 km và dx khoảng
45,51 - 55,57 km. Địa hình đáy biển được nội
suy từ số liệu địa hình đáy biển toàn cầu
ETOPO-2 có độ phân dải 2’ và được chia thành
5 lớp theo hệ tọa độ Sigma (hệ tọa độ Sigma [6,
7]). Sử dụng điều kiện ổn định và hội tụ theo
tiên chuẩn Courant – Fredrichs - Lewy (điều
kiện ổn định và hội tụ - xem chi tiết Durran
[8]).
Nguồn số liệu
Số liệu nhiệt muối ở Ấn Độ Dương được sử
dụng lấy từ các số liệu phân tích NOMADS
(NOAA Operational Model Archive and
Distribution System) do Trung tâm Dữ liệu
Khí hậu Quốc gia (NCDC), Trung tâm Dự báo
Môi trường Quốc gia (NCEP) và Phòng Thí
nghiệm Thủy động lực (GFDL) cùng phối hợp
xây dựng. Mục tiêu chính của NOMADS là tạo
điều kiện cho mọi người truy cập vào các mô
hình số trị dự báo thời tiết (NWP) cũng như
hoàn lưu đại dương (GCM), phát triển mối liên
kết giữa các cộng đồng nghiên cứu mô hình và
hợp tác cộng đồng giữa các nhà khoa học biển,
thời tiết và khí hậu. Số liệu gió được lấy thông
qua mô hình khí quyển (COAMPS) và từ số
liệu vệ tinh scatterometers (QuikSCAT). Chuỗi
số liệu gió bề mặt được trích từ bộ số liệu Khí
quyển - Đại dương tổng hợp (The
Comprehensive Ocean - Atmospheric Data Set
- COADS). Đây là cơ sở dữ liệu được xây dựng
và duy trì tại Mỹ bởi Trung tâm Nghiên cứu
Khí quyển Quốc gia (NCAR) và Cục Khí
quyển - Đại dương Quốc gia (NOAA), đặc biệt
là Trung tâm Chẩn đoán Khí hậu (Climate
Diagnostics Center CDC), Viện hợp tác Nghiên
cứu các Khoa học Môi trường (Cooperative
Institute for Research in Environmental
Sciences - CIRES) thuộc trường Đại học Tổng
hợp Colorado và Trung tâm Dữ liệu Khí hậu
Quốc gia (National Climatic Data Center -
NCDC).
Tại biên lỏng số liệu thủy triều được tính từ
mô hình thủy triều toàn cầu TPXO7.1 [9]. Mô
hình TPXO7 sử dụng dữ liệu từ
TOPEX/Poseidon toàn cầu phiên bản 7.1
(TPXO7.1), đây là một mô hình thủy triều đại
dương toàn cầu rất hữu ích cho nghiên cứu đại
dương thế giới. Trong mô hình này các sóng
thành phần sẽ được tính toán và nội suy cho các
điểm lưới của vùng Ấn Độ Dương [10].
Thông lượng nước ngọt bề mặt (freshwater
flux), nhiệt độ, lượng bay hơi, lượng mưa, hệ
số sức căng bề mặt biển theo suốt thời gian
trong năm được lấy từ COADS.
Biên lỏng hướng sông không được sử dụng,
vì độ sâu nhỏ nhất trong miền tính được lấy là
hmin = 30 m.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Số liệu đầu vào
Hình 2. Độ muối bề mặt
Hình 3. Nhiệt độ bề mặt
Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương
207
Hình 4. Độ muối tại các biên lỏng
Hình 5. Nhiệt độ tại các biên lỏng
Hình 6. Trường gió bề mặt ngày thứ 105
Hình 7. Trường gió bề mặt ngày thứ 285
Trong nghiên cứu của tác giả bài báo các
dòng hải lưu Ấn Độ Dương được tính toán
bằng mô hình ROMS trong khoảng thời gian
dài hàng năm. Kết quả tính toán, dữ liệu dòng
chảy, nhiệt độ, độ muối, dao động mực nước
cho toàn vùng nghiên cứu được ghi vào một
file có đuôi .nc (andoduong_his_0001.nc) liên
tục 02 giờ một lần (từ 0 giờ ngày 1/1/2013 -
31/12/2013).
Khi mô phỏng các điều kiện thời tiết Ấn Độ
Dương tại những thời điểm cụ thể trong quá
khứ, tác giả đã sử dụng số liệu về điều kiện
biên khai thác được từ các mô hình và cơ sở dữ
liệu toàn cầu (OGCM). Tại biên lỏng sử dụng
các số liệu từ Atlas biển toàn cầu, với các biên
lỏng có thủy triều (mực nước và dòng triều)
được tính từ mô hình thủy triều TPXO7.1. Các
kết quả sử dụng TPXO7.1 cho nghiên cứu được
thể hiện qua các hình 2-7, minh họa điều kiện
tại các biên lỏng của trường nhiệt muối, trường
gió, biên độ sóng thành phần và thông lượng
nước thăng giáng bề mặt của vùng nghiên cứu
trong năm 2013.
Hình 8. Biên độ sóng thủy triều K1
Hình 9. Thông lượng nước bề mặt ngày thứ 15
Kết quả tính toán và phân tích
Các kết quả tính toán được thể hiện qua bản
đồ phân bố trường vector dòng chảy thể hiện
Phạm Xuân Dương
208
dòng hải lưu có tốc độ trên 100 cm/s và dưới
100 cm/s, cho phép nhận định các kết quả tính
toán có các đặc điểm như sau:
Tồn tại dòng hải lưu mạnh có tốc độ dòng
trên 100 cm/s, chảy liên tục từ Tây sang Đông
nằm trong khoảng vĩ độ từ 50S đến 50N. Theo
thời gian dòng hải lưu biến đổi, trong nhiều
khoảng thời gian dài, dòng hải lưu nằm trong
một dải có hướng tập trung (từ Tây sang Đông,
hình 10). Ở nhiều khoảng thời gian khác ,dòng
hải lưu không tập trung phân bố theo dải đó
nữa mà lan rộng ra hai bên. Xu thế chung của
dòng hải lưu này vẫn là Tây sang Đông, nhưng
trong từng vùng của dải dòng hải lưu Tây Đông
lại xuất hiện các xoáy nước lớn (hình 11). Theo
một số ghi nhận về tư liệu của các tàu qua Ân
Độ Dương đánh giá ở đây là nơi duy nhất trên
thế giới có các dòng hải lưu liên tục chảy về
phía Đông với tốc độ rất cao, nhiều lúc lên tới 2
mét một giây, nước cuốn nhanh nhất so với tất
cả các vùng biển khác trên thế giới.
Luôn xuất hiện và tồn tại dòng hải lưu
mạnh ôm sát bờ phía Tây Ấn Độ Dương từ
Nam Phi (South Africa) đến Sô Ma Li
(Somalia) theo hướng Nam Bắc với tốc độ trên
100 cm/s. Khác với dòng hải lưu Tây Đông,
dòng hải lưu bờ tây luôn tập trung, không mở
rộng và hiếm xuất hiện các xoáy nước mạnh (từ
các hình 10 trở lên). Ngay gần dòng hải lưu
này, bên bờ đông Madagascar cũng có dòng hải
lưu mạnh tập trung chảy theo hướng ngược lại
(từ Bắc xuống Nam).
Xuất hiện và tồn tại nhiều xoáy nước, xoáy
nước Ấn Độ Dương có kích thước lớn với
đường kính có thể lên tới 50 km đến hàng trăm
km, theo thời gian các xoáy nước này dịch
chuyển sang ngang, lên và xuống. Các vực xoáy
này xuất hiện gần khắp Ấn Độ Dương nhưng
chủ yếu xuất hiện nhiều trong dải từ Nam Phi tới
Australia. Vùng biển này có nhiều xoáy nước
lớn tốc độ dòng trên 100 cm/s (xem từ các hình
10 trở lên). Với tốc độ này, các xoáy nước đại
dương cũng sẽ cuốn trôi tất cả vật thể trên biển,
giống vòi rồng hoặc lốc xoáy trên đất liền (tốc
độ thấp hơn rất nhiều. Xoáy nước thường là
những vùng nước hình tròn có áp suất cực cao
hoặc cực thấp và vì chuyển động quay của trái
đất nên nước biển bắt đầu chuyển động xung
quanh chúng - bởi hiệu ứng Coriolis). Ngoài
đặc điểm ở trên, Ấn Độ Dương còn xuất hiện
nhiều xoáy đôi đi liền nhau.
Vùng biển Thailand - Myanma - India
thường xuất hiện xoáy nước đại dương tốc độ
cao. Trong khi đó vùng India - Pakistan - Oman
- Yemen lại hiếm khi xuất hiện các xoáy nước
đại dương này.
Hình 10. Dòng hải lưu mạnh tập trung từ Tây
sang Đông Ấn Độ Dương (ở vĩ độ 50S đến 50N )
Hình 11. Dòng hải lưu Tây Đông mạnh mở
rộng ra hai bên (vĩ độ 70S đến 70N)
Hình 12. Dòng hải lưu Tây Đông lại xuất hiện
các xoáy nước (vĩ độ 80S đến 80N)
Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương
209
Hình 13. Dòng hải lưu Tây Đông chia thành
hai nhánh chạy song song (phía Bắc)
Ngày 8/3/2014 máy bay MH370 nói trên
được cho là mất tích một cách bí ẩn trên vùng
biển Nam Ấn Độ Dương. Với những kết quả
nghiên cứu này cho thấy nếu máy bay rơi vào
vùng có dòng hải lưu và các vực xoáy lớn thì
các vật thể của máy bay trôi dạt rất nhanh và
khó xác định. Trong một giờ các vật thể này đã
bị đẩy đi một quãng đường xa dao động trong
khoảng 36 km (thậm chí còn hơn) so với điểm
xuất phát. Do chuyển động của dòng hải lưu
mạnh và của các xoáy nước nên các bức ảnh
chụp vật thể trên biển của vệ tinh các nước về
rác (được cho là của MH370) không khiến mọi
người ngạc nhiên. Vệ tinh của Trung Quốc
chụp ảnh được những vật thể ở vị trí cách nơi
vệ tinh Úc phát hiện vật thể khác chụp cách đó
2 ngày hơn 120 km, còn mảnh vỡ do vệ tinh
Pháp chụp được lại nằm cách đó 800 km.
So sánh kết quả tính toán với các công bố
ảnh vệ tinh
Dòng chảy của Ấn Độ Dương có dòng chảy
mạnh biến động bất thường, nhiều vùng dòng
chảy cuộn vào nhau và tạo thành các xoáy nước
và các xoáy nước này có sức mạnh cũng giống
như những vòi rồng trên đất liền. Theo công bố
của NASA, những xoáy này đã được vệ tinh
chụp được. So sánh ảnh vệ tinh (hình 15) về
các vực xoáy và trường dòng chảy theo tính
toán (hình 14) cho thấy các xoáy tính toán ở vài
vùng Ấn Độ Dương tương thích với ảnh vệ
tinh. Khi mô phỏng các dòng hoàn lưu Ấn Độ
Dương tác động đến quá trình phát tán rác thải
trong quá trình lưu thông, NOAA đã phác họa
ra dòng hoàn lưu nhốt giữ rác thải (hình 15, 16
bên phải). Khi đưa ra vấn đề này NOAA đã
khuyến cáo vùng Ấn Độ Dương có các dòng
hải lưu liên tục chảy về phía Đông mà không
đụng phải đất liền. Từ đó cho thấy các kết quả
tính toán và phác thảo dòng hải lưu của NOAA
là tương tối phù hợp.
Hình 14. Bức tranh của dòng hải lưu Ấn Độ
Dương do tính toán
Hình 15. Bức tranh vực xoáy của NASA (bên trái) và bức tranh phác họa của NOAA
về dòng hải lưu Ấn Độ Dương
Phạm Xuân Dương
210
.
Hình 16. Bức tranh mô phỏng dòng hải lưu đại dương thế giới (bên trái, nguồn [11]) và bức tranh
dòng hải lưu Ấn Độ Dương (bên phải) của NOAA
KẾT LUẬN
Tồn tại dòng hải lưu mạnh có tốc độ dòng
trên 100 cm/s, chảy liên tục từ Tây sang Đông
nằm trong khoảng vĩ độ từ 50S đến 50N. Theo
thời gian dòng hải lưu biến đổi, lan rộng ra hai
bên và xuất hiện các xoáy nước lớn trong dải
hải lưu này. Song song với dòng hải lưu Tây -
Đông còn tồn tại dòng hải lưu mạnh ôm sát bờ
phía Tây Ân Độ Dương từ Nam Phi đến Sô Ma
Li theo hướng Nam - Bắc và bên bờ đông
Madagascar tồn tại dòng hải lưu mạnh chảy
theo hướng từ Bắc xuống Nam.
Xuất hiện và tồn tại nhiều xoáy nước Ấn
Độ Dương có kích thước lớn với đường kính có
thể lên tới 50 km đến hàng trăm km. Theo thời
gian các xoáy này dịch chuyển sang ngang, lên,
xuống và những vực xoáy xuất hiện gần khắp
Ấn Độ Dương nhưng chủ yếu xuất hiện nhiều
dải từ Nam Phi tới Australia.
Đây là nghiên cứu hoàn lưu dòng chảy đại
dương bên ngoài Biển Đông, sử dụng công
nghệ OpeNDAP để truy cập và lấy số liệu toàn
cầu cho kết quả phù hợp với các ảnh vệ tinh
của NASA công bố. Các kết quả nghiên cứu rất
có giá trị tham khảo và cung cấp thông tin cho
các hoạt động hàng hải, cứu hộ, giảng dạy và
các nghiên cứu khác ở vùng biển Ấn Độ
Dương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2. Phạm Xuân Dương, 2013. “Mô hình hóa
trường dòng chảy tại cửa sông Đồng Bò
(Nha Trang) dưới tác động của công trình
lấn biển”, Kỷ yếu Hội nghị quốc tế “Biển
Đông 2012”, tập 2, tr. 9-16.
3. Phạm Xuân Dương, 2012. “Nghiên cứu
hoàn lưu vùng vịnh Bình Cang - Nha Trang
bằng mô hình số trị”. Luận án tiến sĩ địa lý,
Viện khoa học Khí tượng,Thủy văn và Môi
trường, Hà Nội.
4. Bùi Hồng Long, Phạm Xuân Dương, 2010.
“Một số kết quả tính toán dòng chảy theo
mùa trong vùng vịnh Bình Cang - Nha
Trang bằng mô hình ROMS, Tuyển tập
nghiên cứu biển, tập XVII, tr. 30-42.
5. Arakawa, A. and V. R. Lamb, 1977.
Methods of computational physics, Vol. 17,
p. 174-265. Academic Press.
6. Arakawa, A., and Lamb, V. R., 1977.
Computational design of the basic
dynamical processes of the UCLA general
circulation model. Methods in
computational physics, 17, 173-265.
7. Mellor, G. L., and Blumberg, A. F., 1985.
Modeling vertical and horizontal
diffusivities with the sigma coordinate
system. Monthly Weather Review, 113(8):
1379-1383.
8. Durran, D. R., 1999. Numerical methods
for wave equations in geophysical fluid
dynamics (No. 32). Springer.
9. Da Silva, A. M., Young-Molling, C. C., and
Levitus, S., 1994. Atlas of Surface Marine
Data 1994, Vol. 1-5. NOAA Atlas
Nghiên cứu dòng hải lưu Ấn Độ Dương
211
NESDIS, 6-10. U. S. Gov. Printing Office,
Washington D.C.
10. Marchesiello, P., McWilliams, J. C., and
Shchepetkin, A., 2001. Open boundary
conditions for long-term integration of
regional oceanic models. Ocean modelling,
3(1): 1-20.
11.
surface/currents/equirectangular=-283.96,-
47.16,318
STUDY ON OCEAN CURRENT IN INDIAN OCEAN USING
NUMERICAL MODEL
Pham Xuan Duong
Institute of Oceanography-VAST
ABSTRACT: OpeNDAP technology (Open-source Project for a Network Data Access
Protocol) is used to get access to global data for Indian Ocean region for research. The ocean
currents in the Indian Ocean has been computed for many years, results show that: The strong
currents exist continuously in Indian Ocean. They flow from west to east that are away from the
mainland and in the range from 50S to 50N latitude, and the current near west coast has speed of
over 100 cm/s. Also, in many parts of Indian Ocean there are the large synop vortices that have
diameter of about hundreds of kilometers, and the speed of vortices is very great, over 100 cm/s.
Over time, these vortices do not stay at the same place, but move frequently. The results by using
numerical modelling are compared with NASA satellite images and have the correspondence.
Keywords: Indian Ocean, ocean currents, ROMS, large Synop vortices.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5157_20912_1_pb_6149_2079647.pdf