Giá trị của phương pháp sinh thiết tuyến tiền
liệt qua đường trực tràng
Trước đây sinh thiết tuyến tiền liệt thường thực
hiện dưới sự hướng dẫn bằng ngón tay hay gọi là sinh
thiết mù. Sự ra đời của TRUS đã tạo một bước đột
phá làm tăng tính chính xác và hoàn thiện kỹ thuật sinh
thiết tuyến tiền liệt. Do đó, mô hình sinh thiết ngày càng
được mở rộng, vị trí sinh thiết ngày càng được bổ sung,
từ 6 mẫu lên đến 8 mẫu, 10 mẫu, 12 mẫu và thậm chí
còn 24 mẫu nhằm tăng tỉ lệ phát hiện ung thư tuyến
tiền liệt.
Trong tất cả những mô hình sinh thiết trên có hai
mô hình sử dụng phổ biến nhất là mô hình 6 mẫu và
12 mẫu. Nhiều công trình nghiên cứu, so sánh ghi
nhận tỉ lệ phát hiện ung thư trên hai mô hình này và
so sánh nhằm tìm ra mô hình lý tưởng với tỉ lệ phát
hiện ung thư cao và ít biến chứng do sinh thiết. Hầu
hết các nghiên cứu đều cho kết quả mô hình sinh thiết
tuyến tiền liệt 12 mẫu có tỉ lệ phát hiện ung thư tăng
đáng kể so với mô hình 6 mẫu [12],[13]. Chúng tôi lựa
chọn phương pháp sinh thiết 10 mẫu chứ không phải
12 mẫu với mong muốn khi giảm số mẫu sinh thiết có
thể giảm bớt những thương tổn cho bệnh nhân nhưng
vẫn đảm bảo hiệu quả và giá trị của phương pháp
chẩn đoán. Đánh giá giá trị của ba phương pháp mà
chúng tôi đã thực hiện trong đề tài cho thấy phương
pháp sinh thiết 10 mẫu cho tỉ lệ phát hiện ung thư cao
nhất với 35,3%, phương pháp này cũng có độ nhạy và
độ chính xác cao (94,7% và 98%), bởi vậy cho kết quả
đáng tin cậy. So sánh giữa phương pháp sinh thiết
6 mẫu và 10 mẫu cũng cho thấy răng phương pháp
sinh thiết 10 có tỉ lệ phát hiện ung thư cao hơn so với
phương pháp sinh thiết 6 mẫu (35,3% và 26,8%), như
vậy việc tăng số mẫu sinh thiết sẽ tăng khả năng chẩn
đoán ung thư tuyến tiền liệt đáng kể có ý nghĩa thống
kê với p=0,0367 < 0,05.
Ung thư tiền liệt tuyến được đặc trưng bởi các ổ
giảm âm và tăng sinh mạch trên siêu âm doppler, đặc
biệt ở tuyến ngoài. Các ổ giảm âm ở tuyến trong có thể
chấn đoán nhầm với phì đại lành tính hoặc viêm tuyến
tiền liệt [6]. Các nghiên cứu trước đây cho thấy xác suất
dương tính của sinh thiết tiền liệt tuyến tăng lên khi lấy
mẫu ở những vị trí bất thường trên siêu âm. Tuy nhiên,
tỉ lệ phát hiện ung thư của phương pháp này còn thấp
chỉ 19,5% (37/190) và chỉ bằng 54,4% so với phương
pháp sinh thiết 10 mẫu hệ thống. Vì phương pháp này
chỉ có thể áp dụng được đối với những trường hợp có
nhân bất thường phát hiện được trên siêu âm bởi vậy
phụ thuộc chủ yếu vào giá trị của các dấu hiệu trên siêu
âm, đặc biệt là độ nhạy và độ chính xác của việc phát
hiện tổn thương khu trú trên siêu âm. Theo y văn, siêu
âm không phát hiện được một cách đầy đủ và đáng tin
cậy của vùng tổn thương ung thư tuyến tiền liệt do đó
việc sinh thiết vào vị trí đích là không hiệu quả, khi đó
cần sinh thiết thêm ở những vùng nghi ngờ bất thường
xung quanh [6].
Bên cạnh đó sinh thiết tuyến tiền liệt qua đường
trực tràng có độ an toàn cao, tỉ lệ biến chứng thấp, có
tới 64,7% trường hợp không có biến chứng, một số ít
còn lại có các biến chứng nhẹ như đau (18,9%), chảy
máu trực tràng (12,1%), tiểu máu (10,5%), xuất tinh
máu (3,2%), nhiễm trùng (1,1%), không có trường hợp
nào có biến chứng nặng như shock.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 11 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu giá trị của sinh thiết dưới hướng dẫn siêu âm qua đường trực tràng trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/20154
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA SINH THIẾT
DƯỚI HƯỚNG DẪN SIÊU ÂM QUA
ĐƯỜNG TRỰC TRÀNG TRONG CHẨN ĐOÁN
UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Researching the value of biopsy under guideline of
transrectal ultrasound in the diagnosis of Prostate cancer
Nguyễn Thanh Thủy*, Nguyễn Lan Hương*, Nguyễn Duy Huề**
* Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Bạch Mai
** Khoa Chẩn đoán hình ảnh,
Bệnh viện Việt Đức
Purpose: To describe the image of prostate cancer in transrectal
ultrasound and to define the value of biopsy under guideline of
transrectal ultrasound.
Materials and method:
Prospective study on 190 patients with prostate biopsy in Viet
Duc hospital from Sep/ 2013 to Aug/ 2014, of those 68 cases are
cancer. Describe the transrectal ultrasound image and study the
sensitivity, the specificity, the accuracy of biopsy under guideline of
transrectal ultrasound.
Results:
Prostate cancer on the transrectal ultrasound has the image of
rough margin 73.5%; unclear between internal and external zone
54.4%; irregular hyper angiogenesis 61.8%; disappear the image
of fat around prostate 52.9%; node with hypo-echo 100%, hyper
angiogenesis 89.2%, rough margin 56.1% and in the external 67.6%.
The 10 speciment prostate biopsy by transrectal ultrasound have
the sensitivity 94.7%; the specificity 100.0%; the accuracy 98.0% and
low complication with the rate of un-complication of 64.7%.
Conclusion:
The prostate biopsy under guideline of transcretal ultrasound
have high value in early diagnosis the prostate cancer, safely and
less complication.
Keywords: prostate biopsy, transcretal ultrasound.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 5
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư tuyến tiền liệt (KTTL) là một bệnh khá phổ
biến ở nam giới hiện nay, tỉ lệ hiện mắc và tử vong chỉ
xếp sau ung thư phổi, tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ hai
trong tất cả các ung thư ở nam giới trên 50 tuổi. Người
bệnh KTTL giảm trung bình khoảng 9 năm tuổi thọ, kèm
theo sự suy giảm chất lượng cuộc sống do biến chứng
của bệnh (rối loạn tiểu tiện, suy thận do xâm lấn tại chỗ,
liệt 2 chân do di căn xương sống.
Ước tính hiện nay có gần 2,8 triệu người sống
chung với bệnh lý ung thư tuyến tiền liệt [1]. Nếu KTTL
được phát hiện sớm ở giai đoạn còn khu trú, tỉ lệ sống
sau 5 năm là 100%, trong khi đó tỉ lệ này giảm xuống
còn 32% nếu được phát hiện ở giai đoạn ung thư di
căn. Sự khác biệt này cho thấy tầm quan trọng trong
tầm soát và chẩn đoán KTTL ở giai đoạn sớm [2]. Sự
kết hợp thăm khám tuyến tiền liệt, định lượng PSA
huyết thanh và siêu âm qua đường trực tràng được
xem là sự lựa chọn đầu tiên và quan trọng trong chẩn
đoán sớm KTTL. Tuy nhiên, để đưa ra phác đồ điều trị
KTTL cần phải có kết quả giải phẫu bệnh lý. Bởi vậy, để
chẩn đoán sớm và chính xác KTTL cần tiến hành sinh
thiết tuyến tiền liệt.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu tiến cứu mô tả 190 bệnh nhân có bất
thường khi thăm trực tràng, xét nghiệm PSA, trên siêu âm
qua đầu dò trực tràng hay trên cộng hưởng từ được sinh
thiết tuyến tiền liệt qua đường trực tràng tại Khoa Chẩn
đoán hình ảnh Bệnh viện Việt Đức từ 9/2013 đến 8/2014.
Bệnh nhân có nguy cơ KTTL sẽ được khám và tư
vấn sinh thiết tuyến tiền liệt qua đường trực tràng, được
hướng dẫn chuẩn bị thụt tháo làm sạch đại tràng và sử
dụng kháng sinh dự phòng trước đó ít nhất 1 ngày. Tất
cả các bệnh nhân đều được tiến hành thăm trực tràng
để đánh giá những thuận lợi và bất lợi đồng thời đánh
giá sơ bộ mật độ tuyến tiền liệt. Sau đó được tiến hành
siêu âm qua đầu dò trực tràng đánh giá thể tích, nhu
mô, bờ và tình trạng xâm lấn của tuyến tiền liệt. Tất cả
các bệnh nhân đủ điều kiện sinh thiết đều được tiến
hành theo mô hình sinh thiết 10 mẫu của Presti [3] bao
gồm sinh thiết 6 mẫu và 4 mẫu mở rộng, các mẫu được
đánh số theo thứ tự. Với trường hợp trên siêu âm có
tổn thương khu trú, ngoài sinh thiết 10 mẫu theo phân
vùng như bình thường sẽ tiến hành sinh thiết thêm một
mẫu vào đúng vị trí nhân đó và đánh số 11, 12 gọi là
sinh thiết mẫu đích.
Phương pháp vô cảm: tiến hành gây mê toàn thân
bằng thuốc gây mê Propofol 1% (10mg/ml ống 20ml).
Sau sinh thiết bệnh nhân được đưa về khoa, nằm
ít nhất 24h để theo dõi biến chứng có thể có.
Sơ đồ sinh thiết tuyến tiền liệt 10 mẫu qua trực tràng
(Mặt phẳng đứng ngang)
III. KẾT QUẢ
Trong thời gian từ 9/2013 đến 8/2014 có 190 bệnh
nhân nguy cơ cao KTTL, được tiến hành sinh thiết, sau
đó 51 bệnh nhân được tiến hành phẫu thuật, tổng cộng
có 68 bệnh nhân có kết quả GPB là ung thư trong đó 67
trường hợp được chẩn đoán sau sinh thiết, 01 trường
hợp được chẩn đoán sau mổ.
3.1. Thể tích tuyến
Bảng 3.1. Thể tích tuyến tiền liệt của bệnh nhân ung thư
(n=68)
Thể tích tuyến
(Gram)
Số lượng
(n)
Tỉ lệ
(%)
Trung bình
( ± SD)
≤25 13 19,1
37,59 ±
12,32
>25 - ≤40 30 44,1
>40 - ≤60 16 23,5
>60 - ≤80 4 5,9
>80 - ≤100 2 2,9
>100 3 4,4
Tổng 68 100
Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt ở những
bệnh nhân ung thư là 37,59 gram.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/20156
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.2. Đặc điểm nhu mô tuyến
Bảng 3.2. Đặc điểm nhu mô tuyến tiền liệt ung thư trên
siêu âm (n=68)
Đặc điểm
Số lượng
(n)
Tỉ lệ
(%)
Không đồng nhất 52 76,5
Vôi hóa 26 39,7
Nang 2 2,9
Mất ranh giới TT và TN 37 54,4
Có 76,5% trường hợp nhu mô tuyến tiền liệt không
đồng nhất (bao gồm có nhân giảm âm, vôi hóa và thoái
hóa nang). Mất ranh giới giữa tuyến trong và tuyến
ngoài ở 37/68 bệnh nhân (54,4%).
Bảng 3.3. Tỉ lệ vùng tăng sinh mạch bất thường của
KTTL (n=68)
Đặc điểm Doppler n %
Có tăng sinh mạch 42 61,8
Không tăng sinh mạch 26 38,2
Tổng 68 100
61,8% KTTL có vùng tăng sinh mạch bất thường
trên siêu âm Doppler.
Bảng 3.4. Số lượng nhân ung thư tuyến tiền liệt trên
siêu âm (n=68)
Số nhân
Số lượng
(n)
Tỉ lệ
(%)
Có 1 nhân 31 45,6
Có 2 nhân 10 14,7
Không có nhân 27 39,7
Tổng 68 100
Trong 68 bệnh nhân ung thư có 41 trường hợp
siêu âm phát hiện có nhân bất thường (60,3%), trong
đó có 31 trường hợp chỉ có 1 nhân, 10 trường hợp có 2
nhân, tất cả nhân đều là giảm âm. Trong số 31 trường
hợp có 1 nhân thì 4 nhân kết quả GPB là lành tính. Như
vậy có 47 nhân ung thư/37 bệnh nhân.
Bảng 3.5. Đặc điểm tăng sinh mạch của nhân ung thư
trên siêu âm (n=47)
Doppler
Vị trí
Tăng sinh
Không
tăng sinh
Tổng
n % n % n %
Tuyến trong 12 25,5 4 8,5 16 34,0
Tuyến ngoài 26 55,4 5 10,6 31 66,0
Tổng 38 80,9 9 19,1 47 100
Nhân ung thư chủ yếu gặp ở tuyến ngoài 31/47
(66%). Phần lớn số nhân có tăng sinh mạch trên siêu
âm Doppler 38/47 (80,9%).
3.3. Đặc điểm bờ của tuyến
Bảng 3.6. Đặc điểm bờ của ung thư tuyến tiền liệt trên
siêu âm (n=68)
Đặc điểm
Số lượng
(n)
Tỉ lệ
(%)
Bờ đều 18 26,5
Bờ không đều 50 73,5
Mất lớp mỡ xung quanh 36 52,9
Phần lớn ung thư tuyến tiền liệt có hình ảnh mất
tính chất mất đối xứng và trở nên không đều biểu hiện
xâm lấn tại chỗ (73,5%), kèm theo mất lớp mỡ quanh
tuyến biểu hiện có xâm lấn ngoài tuyến (52,9%).
3.4. Đặc điểm xâm lấn
Bảng 3.7. Số lượng và vị trí xâm lấn của ung thư (n=68)
Triệu chứng Số lượng Tỉ lệ %
Xâm lấn
túi tinh
1 bên 12 17,6
2 bên 22 32,4
Xâm lấn cổ bàng quang 31 45,6
Xâm lấn trực tràng 3 4.4
Hạch 12 17,6
Có 34/68 trường hợp phát hiện được xâm lấm túi
tinh (50%), trong đó xâm lấn 2 bên gấp đôi xâm lấn
1 bên. 45,6% trường hợp có xâm lấn cổ bàng quang
chiếm. Xâm lấn trực tràng < 5%. Di căn hạch có 17,6%.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 7
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.6. Giá trị của phương pháp sinh thiết tuyến tiền
liệt qua đường trực tràng
Se: Độ nhạy; Sp: Độ đặc hiệu; PPV: Giá trị dự
báo dương tính.
NPV: Giá trị dự báo âm tính; ACC: Độ chính xác.
Bảng 3.8. Giá trị của các phương pháp sinh thiết
tuyến tiền liệt
Phương
pháp
Các giá trị
10 mẫu 6 mẫu Mẫu đích
Tỉ lệ ung thư
35,3%
67/190
26,8%
51/190
19,5%
37/190
Se
94,7%
18/19
75%
51/68
92,2%
47/51
Sp
100%
32/32
100%
122/122
100%
64/64
PPV
100%
18/18
100%
51/51
100%
47/47
NPV
97%
32/33
87,8%
122/139
94,1%
64/68
ACC
98%
50/51
91,1%
173/190
96,5%
111/115
Tỉ lệ phát hiện ung thư của phương pháp sinh
thiết 10 mẫu là cao nhất (35,3%), thấp nhất là phương
pháp mẫu đích (19,5%). Độ nhạy và độ chính xác của
phương pháp 10 mẫu và mẫu đích tương đương nhau
(>90%), độ nhạy của phương pháp sinh thiết 6 mẫu là
thấp nhất (75%).
Bảng 3.9. Tỉ lệ biến chứng sau sinh thiết (n=190)
Triệu chứng Số lượng Tỉ lệ
Đau 36 18,9%
Chảy máu trong sinh thiết 23 12,1%
Tiểu máu 20 10,5%
Đi ngoài ra máu 0 0%
Xuất tinh ra máu 6 3,2%
Nhiễm trùng 2 1,1%
Không biến chứng 123 64,7%
Biến chứng hay gặp nhất là đau (18,9%). Có
64,7% trường hợp không có biến chứng.
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm ung thư tuyến tiền liệt trên siêu âm
qua đường trực tràng
Thể tích trung bình của tuyến tiền liệt trong nhóm
bệnh nhân ung thư mà chúng tôi nghiên cứu là 37,59
gram, kết quả này cũng khá phù hợp với nghiên cứu
của Phan Văn Hoàng (2009) với thể tích tuyến trung
bình là 38,29gram [4], nhưng lại thấp hơn so với Đỗ
Trường Thành (2010) là 59,80 gram [5], điều này cũng
có thể giải thích là do sự khác nhau về cỡ mẫu và
tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân sinh thiết. Như vậy ở
những bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến cũng có kèm
tăng thể tích toàn phần của tuyến, tuy nhiên sự tăng
này là không đáng kể do kích thước trung bình của
tuyến là 37,59 gram và cũng không loại trừ có thể ung
thư lại phát triển trên nền một tăng sản lành tính đã
có từ trước.
Trong số những bệnh nhân ung thư có tới 76,5%
trường hợp nhu mô tuyến tiền liệt không đồng nhất trên
siêu âm, bao gồm 39,7% trường hợp rải rác trong tuyến
có nhiều nốt vôi hóa nhỏ li ti, có 2,9% trường hợp có
thoái hóa dạng nang. 41/68 trường hợp có nhân bất
thường trong nhu mô tuyến 60,3%. Theo y văn tình
trạng vôi hóa gặp trong ung thư cũng hay gặp nhưng tỉ
lệ không cao [6], vôi hóa có thể gặp trên nền một tuyến
tiền liệt viêm mạn tính. Nang xuất hiện bên trong tuyến
tiền liệt có thể gây tăng sản lành tính tuyến tiền liệt hoặc
có thể là nang ứ đọng, phần lớn những bệnh nhân có
nang tuyến tiền liệt thì không có triệu chứng, đôi khi
những nang này có thể gây ra những triệu chứng nhiễm
trùng, chèn ép do nang phát triển to ra và gây đau cho
bệnh nhân [7].
Dù xuất phát từ tuyến ngoài hay tuyến trong ung
thư tuyến tiền liệt tiến triển theo thời gian sẽ phá vỡ
cấu trúc tuyến, làm mất ranh giới tuyến ngoài và tuyến
trong, nó thể hiện tính không đồng nhất của nhu mô
tuyến. Theo Nguyễn Đình Minh (2011), dấu hiệu mất
ranh giới tuyến ngoài và tuyến trong có độ nhạy và độ
đặc hiệu tương đối cao với tỉ lệ tương ứng 77,3% và
87,5%, độ chính xác lên tới 83,4% [8]. Như vậy, mất
ranh giới tuyến trong - tuyến ngoài cũng là một dấu hiệu
có giá trị trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. Tuy
nhiên dấu hiệu này trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ
có độ nhạy là 54,4%, thấp hơn so với nghiên cứu trên,
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/20158
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
điều này có thể được giải thích là do ung thư mới chỉ
phát triển theo một chiều vào trong hay ra ngoài chứ
chưa phá vỡ cấu trúc của vùng lân cận.
Đặc điểm tăng sinh mạch bất thường nhu mô
tuyến tiền liệt: trong nghiên cứu của chúng tôi bệnh
nhân ung thư có 61,8% trường hợp có vùng tăng sinh
mạch bất thường, đây là một dấu hiệu quan trọng gợi
ý tổn thương ác tính. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
Doppler là một công cụ hữu ích trong việc tìm kiếm các
tổn thương ung thư, đặc biệt là những ung thư có độ
ác tính cao trong tuyến đồng âm [6]. Siêu âm Doppler
màu và năng lượng đã được chứng minh là tăng khả
năng phát hiện ung thư nhờ xác định mức độ tưới máu
mô TTL. Những vùng tăng tưới máu khu trú có nguy cơ
ung thư cao gấp 4-5 lần những vùng lân cận với tưới
máu bình thường.
Trong số 68 bệnh nhân ung thư có 41 trường hợp
có nhân bất thường trên siêu âm chiếm 60,3%, trong đó
có 31 trường hợp có 1 nhân chiếm 45,6%, 10 trường
hợp có 2 nhân chiếm 14,7%, không có trường hợp nào
nhiều hơn 2 nhân. Như vậy trên 41 bệnh nhân ung thư
tuyến tiền liệt thì có tổng cộng 51 nhân. Tất các các
nhân đều là nhân giảm âm.
Trong số 51 nhân có 4 nhân kết quả GPB là lành
tính 7,8%. Trong số 47 nhân ung thư có 38/47 nhân
có tăng sinh mạch trên siêu âm Doppler chiếm 80,9%,
31/47 số nhân nằm ở vùng tuyến ngoài 66% và 26/47
nhân có bờ không đều, ranh giới không rõ 55,3%. Các
đặc điểm này tương đối phù hợp với các nghiên cứu về
đặc điểm ung thư tuyến tiền liệt từ trước tới nay, những
nhân ung thư tuyến tiền liệt nhỏ, có phản âm kém do
hình dạng nốt tế bào ung thư tương phản với phần
nền của mô tuyến vùng ngoại biên bình thường, một
số nghiên cứu đối chiếu về tình trạng bệnh học đã cho
rằng, những khối u phản âm kém là loại kém biệt hóa
và dễ thấy trên siêu âm hơn [6]. Đa số các nhân ung
thư tuyến tiền liệt phản âm kém, tương ứng với điểm
Gleason cao thì độ biệt hóa kém so với độ biệt hóa cao
hay vừa của nhân ung thư tuyến tiền liệt đồng âm hoặc
tăng âm. Tuy nhiên, nhân giảm âm không hoàn toàn
đặc hiệu cho ung thư vì có thể gặp trong viêm, teo,
tăng sản lành tính và ngay cả mô tuyến tiền liệt bình
thường [6]. Về vị trí của ung thư, Mc Neal đã thống kê
rằng 70% ung thư xuất phát từ vùng ngoại vi, 20% từ
vùng chuyển tiếp và 10% từ vùng trung tâm. Trên siêu
âm, ung thư ở vùng ngoại vi được phát hiện nhiều nhất
và cũng phải kể đến sự hỗ trợ hữu hiệu của Doppler
màu [9].
Bên cạnh sự phá vỡ cấu trúc tuyến, sự lan tràn của
ung thư sẽ phá vỡ vỏ tuyến. Trên siêu âm, ung thư xâm
lấn vỏ được biểu hiện khi thấy bờ lồi khu trú, không đều
hay mất liên tục tương ứng vị trí tổn thương. Chiều dài
tiếp xúc giữa tổn thương với bờ tuyến tương ứng với vị
trí xâm lấn vỏ [8]. Theo Nguyễn Đình Minh (2011) dấu
hiệu xâm lấn vỏ trên siêu âm trong chẩn đoán ung thư
tuyến tiền liệt có độ nhạy 76%, độ đặc hiệu là 80,4% giá
trị dự báo dương tính 72,2% và mức độ chẩn đoán đúng
là 78,6%. Do vậy, xâm lấn vỏ tuyến tiền liệt trên siêu âm
cũng là một dấu hiệu đáng tin cậy. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, phần lớn bệnh nhân ung thư cũng có bờ
không đều trên siêu âm chiếm 73,5%. Dấu hiệu mất lớp
mỡ xung quanh cũng là một dấu hiệu rất quan trọng
biểu hiện sự xâm lấn ra bên ngoài của tuyến tiền liệt.
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 52,9% trường hợp
có biểu hiện của mất lớp mỡ quanh tuyến. Mất tăng âm
của lớp mỡ sau bên gợi ý xâm lấn đám rối tĩnh mạch
quanh tuyến tiền liệt, mất lớp mỡ hay thay đổi góc giữa
đáy tuyến tiền liệt với túi tinh biểu hiện của việc ung thư
đã xâm lấn đến túi tinh [10].
Sự lan rộng của khối u ở giai đoạn tiến triển có
thể xâm lấn các tạng lân cận đặc biệt là túi tinh thông
qua lớp mỡ quanh tuyến hoặc qua ống phóng tinh. Trên
siêu âm chúng tôi xác định được 52,9% trường hợp có
tình trạng xâm lấn ra ngoài tuyến tiền liệt, trong đó có
50% trường hợp xâm lấn túi tinh một bên và hai bên,
45,6% trường hợp xâm lấn bàng quang, 4,4% xâm lấn
trực tràng, 17,6% trường hợp phát hiện được có hạch
lân cận. Kết quả này cho thấy có sự phù hợp với một
số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài như Rifkin
MD trên siêu âm có thể phát hiện được mức độ xâm
lấn tại chỗ của ung thư khoảng từ 40% - 90% [11]. Theo
Nguyễn Đình Minh (2011) trên siêu âm phát hiện được
60% ung thư xâm lấn các tạng xung quanh [8].
Trên siêu âm có thể xác định được sự lan rộng
của tổn thương vào túi tinh với hình ảnh mất khoảng
mỡ tăng âm giữa bàng quang - túi tinh, mất đối xứng,
mất đi phần góc nhọn của túi tinh, hình ảnh này thấy
rõ nhất khi so sánh với bên lành. Khối u có kích thước
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/2015 9
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
lớn có thể xâm lấn vào trực tràng, cổ bàng quang, vùng
tam giác bàng quang, đoạn cuối niệu quản và thành
bên tiểu khung. Hình không đều của đáy bàng quang
và thành trực tràng là biểu hiện của sự xâm lấn vào các
cơ quan này [6],[8]. Theo nghiên cứu của chúng tôi độ
nhạy của dấu hiệu này là 52,9%, còn theo Nguyễn Đình
Minh dấu hiệu này trên siêu âm có độ nhạy và độ đặc
hiệu tương ứng là 60% và 95,5% độ chính xác là 80,3%
[8]. Như vậy, độ nhạy của dấu hiệu này trên siêu âm
còn thấp nhưng độ đặc hiệu là rất cao, nhìn chung độ
chính xác là đáng tin cậy. Độ nhạy của chẩn đoán còn
thấp là có thể được giải thích do không phải tất cả ung
thư tuyến tiền liệt đều có xâm lấn tạng, chỉ những ung
thư tiến triển mới có dấu hiệu này.
4.2. Giá trị của phương pháp sinh thiết tuyến tiền
liệt qua đường trực tràng
Trước đây sinh thiết tuyến tiền liệt thường thực
hiện dưới sự hướng dẫn bằng ngón tay hay gọi là sinh
thiết mù. Sự ra đời của TRUS đã tạo một bước đột
phá làm tăng tính chính xác và hoàn thiện kỹ thuật sinh
thiết tuyến tiền liệt. Do đó, mô hình sinh thiết ngày càng
được mở rộng, vị trí sinh thiết ngày càng được bổ sung,
từ 6 mẫu lên đến 8 mẫu, 10 mẫu, 12 mẫu và thậm chí
còn 24 mẫu nhằm tăng tỉ lệ phát hiện ung thư tuyến
tiền liệt.
Trong tất cả những mô hình sinh thiết trên có hai
mô hình sử dụng phổ biến nhất là mô hình 6 mẫu và
12 mẫu. Nhiều công trình nghiên cứu, so sánh ghi
nhận tỉ lệ phát hiện ung thư trên hai mô hình này và
so sánh nhằm tìm ra mô hình lý tưởng với tỉ lệ phát
hiện ung thư cao và ít biến chứng do sinh thiết. Hầu
hết các nghiên cứu đều cho kết quả mô hình sinh thiết
tuyến tiền liệt 12 mẫu có tỉ lệ phát hiện ung thư tăng
đáng kể so với mô hình 6 mẫu [12],[13]. Chúng tôi lựa
chọn phương pháp sinh thiết 10 mẫu chứ không phải
12 mẫu với mong muốn khi giảm số mẫu sinh thiết có
thể giảm bớt những thương tổn cho bệnh nhân nhưng
vẫn đảm bảo hiệu quả và giá trị của phương pháp
chẩn đoán. Đánh giá giá trị của ba phương pháp mà
chúng tôi đã thực hiện trong đề tài cho thấy phương
pháp sinh thiết 10 mẫu cho tỉ lệ phát hiện ung thư cao
nhất với 35,3%, phương pháp này cũng có độ nhạy và
độ chính xác cao (94,7% và 98%), bởi vậy cho kết quả
đáng tin cậy. So sánh giữa phương pháp sinh thiết
6 mẫu và 10 mẫu cũng cho thấy răng phương pháp
sinh thiết 10 có tỉ lệ phát hiện ung thư cao hơn so với
phương pháp sinh thiết 6 mẫu (35,3% và 26,8%), như
vậy việc tăng số mẫu sinh thiết sẽ tăng khả năng chẩn
đoán ung thư tuyến tiền liệt đáng kể có ý nghĩa thống
kê với p=0,0367 < 0,05.
Ung thư tiền liệt tuyến được đặc trưng bởi các ổ
giảm âm và tăng sinh mạch trên siêu âm doppler, đặc
biệt ở tuyến ngoài. Các ổ giảm âm ở tuyến trong có thể
chấn đoán nhầm với phì đại lành tính hoặc viêm tuyến
tiền liệt [6]. Các nghiên cứu trước đây cho thấy xác suất
dương tính của sinh thiết tiền liệt tuyến tăng lên khi lấy
mẫu ở những vị trí bất thường trên siêu âm. Tuy nhiên,
tỉ lệ phát hiện ung thư của phương pháp này còn thấp
chỉ 19,5% (37/190) và chỉ bằng 54,4% so với phương
pháp sinh thiết 10 mẫu hệ thống. Vì phương pháp này
chỉ có thể áp dụng được đối với những trường hợp có
nhân bất thường phát hiện được trên siêu âm bởi vậy
phụ thuộc chủ yếu vào giá trị của các dấu hiệu trên siêu
âm, đặc biệt là độ nhạy và độ chính xác của việc phát
hiện tổn thương khu trú trên siêu âm. Theo y văn, siêu
âm không phát hiện được một cách đầy đủ và đáng tin
cậy của vùng tổn thương ung thư tuyến tiền liệt do đó
việc sinh thiết vào vị trí đích là không hiệu quả, khi đó
cần sinh thiết thêm ở những vùng nghi ngờ bất thường
xung quanh [6].
Bên cạnh đó sinh thiết tuyến tiền liệt qua đường
trực tràng có độ an toàn cao, tỉ lệ biến chứng thấp, có
tới 64,7% trường hợp không có biến chứng, một số ít
còn lại có các biến chứng nhẹ như đau (18,9%), chảy
máu trực tràng (12,1%), tiểu máu (10,5%), xuất tinh
máu (3,2%), nhiễm trùng (1,1%), không có trường hợp
nào có biến chứng nặng như shock.
V. KẾT LUẬN
Sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn của siêu
âm qua đường trực là phương pháp can thiệp có giá trị
cao giúp chẩn đoán sớm ung thư tuyến tiền liệt, đồng
thời trên siêu âm giúp phản ảnh được những hình ảnh
bất thường về nhu mô tuyến, bờ tuyến và tình trạng
tăng sinh mạch bất thường gợi ý cho việc sinh thiết
chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 19 - 03/201510
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Virgo K DeSantis C, Stein K, et al (2012). Cancer
Treatment and Survivorship Statistics, CA: A Cancer
Journal for Clinicians, 62(4).
2. Gerald L.A. (2009). Introduction. Urol 73, Suppl
5A, 1-3.
3. Presti JC Jr, Chang và cs (2000). The optimal
systematic prostate biopsy scheme should include 8
rather than 6 biopsies: result of a prospective clinical
trial. J Urol, 163(1), 163-166.
4. Phan Văn Hoàng, Nguyễn Văn Học, Nguyễn
Chí Phong (2009). Sinh thiết tuyến tiền liệt 12 mẫu qua
ngã trực tràng tại Bệnh viện Bình Dân. Tạp Chí Y Học
TPHCM. 14(1). 448-451.
5. Đỗ Trường Thành (2011). Đánh giá kết quả phương
pháp sinh thiết tuyến tiền liệt dưới hướng dẫn siêu âm qua
trực tràng. Tạp chí Y học thực hành, (783)-9.
6. Carol M. Rumack, Stephanie R. Wilson, J.
William Charboneau. Prostate. Diagnostic Ultrasound,
Mosby, American, 399-429.
7. John R. Ramey, Ethan J. Halpern (2007).
Ultrasonography and biopsy of the Prostate, Campell
Wash Urologgy 9th. Section XVI. 92.
8. Nguyễn Đình Minh, Nguyễn Lan Hương, Nguyễn
Duy Huề (2011). Giá trị siêu âm qua trực tràng trong
sinh thiết tiền liệt tuyến. Tạp chí Y học thực hành, (822)-
5. 62-65
9. McNeal JE (1969). Origin and development of
carcinoma in the Prostate. Cancer, 23, 24-34.
10. Bùi Văn Lệnh và Trần Công Hoan (2004). Ung
thư tiền liệt tuyến. Siêu âm chẩn đoán bộ máy tiết niệu
sinh dục. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 120-9.
11. Rifkin MD (2003). Biopsy techniques, In: Rifkin
MD (eds), Ultrasound of the prostate cancer, 3rd Internation
Consultation on Prostate cancer - Paris, 19-47.
12. Eichler K, Hempel S, Wilby J, et al (2006).
Diagnostic value of systematic biopsy methods in the
investigation of prostate cancer: a systematic review. J
Urol, 175(5), 1605-12.
13. Ahmed A, Elabbady, Mahrousa M. Khedr
(2006). Extended 12-core prostate Biopsy Increase
Both the Detection of Prostate Cancer and the Accuracy
of Gleason Score. Eur Urol, 46(1), 49-53.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Người liên hệ: Nguyễn Thanh Thủy
- Ngày nhận bài: 20/2/2015
- Ngày chấp nhận đăng: tháng 03/2015
NGƯỜI THẨM ĐỊNH: PGS.TS. Hoàng Minh Lợi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_gia_tri_cua_sinh_thiet_duoi_huong_dan_sieu_am_qua.pdf