Tìm hiểu mối liên quan giữa biến cố tim mạch với
mức độ thiếu máu cơ tim được đánh giá bằng tổng
điểm định lượng tổn thương, chúng tôi thấy nhóm có
biến cố có điểm SSS là 18,17 ± 5,3 và SRS là14,77
± 5,46 tăng rõ rệt so với nhóm không có biến cố 13,5
± 3,65 và 11,04 ± 3,58 (p<0,01). Điểm SDS tăng hơn
ở nhóm có biến cố nhưng chưa có ý nghĩa thống kê
(bảng 8). Khi phân nhóm thì tỉ lệ BN phải tiến hành thủ
thuật tái tưới máu tăng hơn rõ rệt ở nhóm SDS ≥ 7
(p<0,05) (biểu đồ 1). Zellweger và cs nghiên cứu trên
1413 BN sau NMCT được làm xạ hình SPECT tưới
máu cơ tim pha nghỉ và pha gắng sức, thời gian theo
dõi ≥ 1 năm, điểm SSS, SRS và SDS tăng cao hơn có
ý nghĩa ở nhóm BN có biến cố tim mạch với p<0,001
và p=0,02. Nhóm BN có SDS ≥ 7 có tỉ lệ NMCT tái
phát tăng hơn nhóm SDS < 7 (p<0,05) [10]. Nghiên
cứu của Brown K.A. và cs ở 451 BN sau NMCT được
làm SPECT, thời gian theo dõi trung bình 1,9 ± 0,2
năm, tỉ lệ tử vong và NMCT tái phát tăng rõ ở nhóm
SDS ≥ 7 so với nhóm SDS <7, chỉ số nguy cơ OR của
biến cố tử vong và NMCT tái phát đối với điểm SDS
là 2,4, SSS là 1,7 và SRS là 1,4 [3]. Kaya E. và cs
nghiên cứu 36 BN sau NMCT non Q được làm Tc99mMIBI Gated SPECT pha nghỉ, thời gian theo dõi 30,65
± 0,49 ngày, thấy sự khác biệt rõ rệt về điểm SRS
và độ rộng khuyết xạ (ES) giữa nhóm có tiên lượng
tốt và nhóm có tiên lượng xấu với p<0,001 [5]. Tình
trạng thiếu máu cơ tim tồn dư sau NMCT có giá trị tiên
đoán các biến cố tim mạch, được đánh giá bằng SDS
[2], [9]. Trong nghiên cứu của Acampa W. và cs trên
146 BN sau NMCT cấp thấy rằng có sự khác biệt có ý
nghĩa về tỉ lệ tử vong giữa 3 nhóm không thiếu máu,
thiếu máu nhẹ và thiếu máu nặng khi phân tích đường
cong sống còn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 27 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu giá trị tiên lượng của xạ hình Spect tưới máu cơ tim ở bệnh nhân sau nhồi máu cơ tim, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 247
nghiÊn CỨU KhoA hỌC
SCientiFiC reSeArCh
SUMMARy
* Khoa Y học hạt nhân - Bệnh
viện Trung ương Quân đội 108
Aims: The purpose of our study was to evaluate the prognostic
value of characteristics of defects in Tc99m-sestamibi gated SPECT
myocardial perfusion imaging (MPI) in post-MI patients.
Subjects and methods: 116 post-myocardial infarction
(MI) patients were underwent gated SPECT in Nuclear Medicine
Department, 108 Central Military Hospital from March 2007 to May
2010. Mean follow-up time was 23.27 ± 9,9 months.
Results: The reversible perfusion defects had higher rate
of patients with unstable angina (92.1% vs 76.9%, p<0.05) and
revascularization (95.8% vs 72.1%, p<0.01), respectively. The
fixed defect had higher rate of patients with congestive heart failure
compared to patient group without congestive heart failure (47.2%
vs 6.1%, p<0.001). In patients with unstable angina (UA) and/or
recurrent MI, severe and large defects were significant highger
than that of patients without UA and/or recurrent MI (p<0.05). In
congestive heart failure (CHF) patients, severe and large defects
were 97.1% and 76.8% in comparison with 88.2% and 70.7%
respectively (p < 0.05). In fatal patient group, 100% had large
defects compared to 72% in non-fatal MI patients. SSS and SRS
were higher in post-MI patient with coronary events compared to
those without coronary events (18.17 ± 5.3 vs 13.5 ± 3.65, p<0.001
and 14.77 ± 5.46 vs 11.04 ± 3.58, p < 0.01).
Conclusions: the characteristics of myocardial perfusion
defect on MPI have prognostic value in post-MI patients.
NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ TIÊN LƯỢNG
CỦA XẠ HÌNH SPECT TƯỚI MÁU CƠ TIM
Ở BỆNH NHÂN SAU NHỒI MÁU CƠ TIM
evaluation the prognostic of SPeCt
in post myocardial infarct
Lê Ngọc Hà*, Vũ Thị Phương Lan*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012248
nghiên CỨU KHoa HỌC
i. đẶt VẤn đỀ
Nhồi máu cơ tim (NMCT) là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở các nước phát
triển cũng như ở Việt Nam. Theo thống kê của Hội
Tim mạch Hoa Kỳ, tỉ lệ lưu hành NMCT năm 2004 là
7.900.000, số mới mắc NMCT là 865.000 người, đến
năm 2006 tăng lên 8.500.000, số mới mắc là 935.000,
tử vong 141.462 [6]. Các bệnh nhân (BN) sau NMCT
thường có tỉ lệ tai biến tim mạch và tử vong cao do tình
trạng thiếu máu cơ tim tồn dư (residual ischemia), rối
loạn chức năng thất trái và loạn nhịp tim... Vì vậy, các
thăm dò chẩn đoán nhằm đánh giá tình trạng BN sau
NMCT để có các biện pháp điều trị thích hợp là hết
sức cần thiết. Những năm gần đây, kĩ thuật hạt nhân
đã có nhiều tiến bộ vượt bậc và được sử dụng rộng rãi
trong lĩnh vực tim mạch. Xạ hình SPECT tưới máu cơ
tim là phương pháp chẩn đoán không chảy máu rất có
giá trị trong chẩn đoán bệnh động mạch vành (ĐMV).
Đối với những BN sau NMCT, ngoài đánh giá được tổn
thương tại vùng nhồi máu, phương pháp này còn chẩn
đoán được tình trạng thiếu máu cơ tim cạnh vùng nhồi
máu và phát hiện thiếu máu cơ tim do tổn thương các
động mạch vành khác, phân biệt sẹo nhồi máu cơ tim
(tổn thương không hồi phục) với vùng cơ tim thiếu máu
nặng, đông miên (tổn thương có thể phục hồi sau điều
trị). Việc sử dụng kĩ thuật gated SPECT giúp đánh giá
vận động thành tim từng vùng, xác định kích thước,
chức năng tâm thu của thất trái... Các bệnh nhân có tổn
thương khuyết xạ cố định, diện hẹp, không rối loạn vận
động thành và giảm chức năng thất trái thường được
theo dõi và điều trị nội khoa. Trái lại, những bệnh nhân
có khuyết xạ có hồi phục, mức độ nặng, diện rộng, rối
loạn vận động thành thất và suy chức năng thất trái là
nhóm bệnh nhân có nguy cơ, tỉ lệ tai biến tim mạch cao.
Vì vậy, cần phải cân nhắc tiến hành thủ thuật tái tưới
máu. Mục đích đề tài này của chúng tôi nhằm “nghiên
cứu giá trị tiên lượng của các tổn thương trên xạ hình
SPECT tưới máu cơ tim ở các bệnh nhân sau nhồi máu
cơ tim”.
ii. đối tƯỢng Và PhƯƠng PhÁP nghiÊn CỨU
1. đối tượng nghiên cứu
116 BN sau NMCT được chụp xạ hình SPECT tưới
máu cơ tim tại Khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung
ương Quân đội 108 trong thời gian từ 3/2007- 5/2010.
Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Các BN được chẩn đoán NMCT cấp dựa theo tiêu
chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới năm 1971. Các BN
được đưa vào nghiên cứu khi đã qua giai đoạn cấp
ít nhất là 14 ngày, các men tim trở về giới hạn bình
thường. BN có chỉ định chụp xạ hình SPECT tưới máu
cơ tim theo chỉ định của Hội tim mạch hạt nhân Hoa Kỳ
(ASNC) (2007) [4].
BN có đầy đủ hồ sơ, được thăm khám lâm sàng và
cận lâm sàng kỹ lưỡng.
BN đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
BN không đồng ý tham gia nghiên cứu.
Các BN có các chống chỉ định chụp xạ hình tưới
máu cơ tim (XHTMCT) bằng gắng sức thể lực và dùng
thuốc dipyridamole theo hướng dẫn của Hội tim mạch
hạt nhân Hoa Kỳ 2007 [4].
BN có hình ảnh xạ hình tưới máu cơ tim nhiễu, xấu
không cho phép phân tích kết quả.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: phân tích, tiến cứu.
Các bước tiến hành
Khám lâm sàng và các xét nghiệm cận lâm sàng
thường quy và đăng ký vào hồ sơ nghiên cứu theo mẫu
thống nhất.
Chụp xạ hình tưới máu cơ tim Tc99m - MIBI
Gated SPECT pha nghỉ và pha gắng sức. Gắng sức
thể lực sử dụng thảm lăn hoặc gắng sức bằng thuốc
(Dipyridamole) theo hướng dẫn của hội tim mạch hạt
nhân Hoa Kỳ (ASNC) năm 2007 [4].
Dược chất phóng xạ: Tc99m - MIBI liều 20 mCi
tiêm tĩnh mạch.
Phương tiện
Máy SPECT Gamma camera STARCAM 4000i
của hãng GE (Hoa Kỳ), có phần mềm xử lý hình ảnh
kèm theo.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 249
nghiên CỨU KHoa HỌC
Đánh giá kết quả: hình ảnh XHTMCT được phân
tích bởi hai bác sĩ y học hạt nhân không được biết kết
quả điện tim gắng sức và chụp ĐMV. Kết quả phân tích
theo hướng dẫn của Hội tim mạch hạt nhân Hoa Kỳ
(ASNC) năm 2007 [4].
Theo dõi: BN được theo dõi diễn biến lâm sàng
qua thăm khám trực tiếp định kỳ, tái nhập viện và/hoặc
gọi điện thoại vào các thời điểm mỗi 6 tháng sau khi tiến
hành chụp XHTMCT. Các BN được lập phiếu theo dõi
thống nhất. Các biến cố tim mạch là cơn đau thắt ngực
và/hoặc NMCT tái phát, tiến hành can thiệp tái tưới máu
ĐMV, suy tim độ II - IV theo NYHA, tử vong do tim.
3. Xử lý số liệu
Số liệu nghiên cứu được xử lý theo các thuật toán
thống kê y học bằng chương trình SPSS 18.0.
iii. KẾt QUẢ nghiÊn CỨU
Bảng 1. Một số đặc điểm lâm sàng chung
của các bệnh nhân
Các đặc điểm lâm sàng Số lượng
(n = 116)
tỉ lệ (%)
Tuổi
Trung bình (X ±
SD)
65,22 ± 12,31
≤ 60 38 32,8
> 60 78 67,2
Giới
Nam 101 87,1
Nữ 15 12,9
Tăng huyết áp 73 62,9
Tăng lipid máu 38 32,8
Đái tháo đường 18 15,5
Hút thuốc 38 32,8
Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu
là 65,27± 12,21; 67,2% số BN trên 60 tuổi. Nam giới
chiếm 87,4%. Các yếu tố nguy cơ tim mạch chủ yếu là
tăng huyết áp (62,9%), rối loạn lipid máu (32,8%), hút
thuốc lá (32,8%).
Bảng 2. Các biến cố tim mạch ở các bệnh nhân
Biến cố tim mạch Số Bn(n = 116)
tỉ lệ
(%)
Cơn đau thắt ngực và/hoặc
NMCT tái phát
38 32,8
Suy tim 34 29,3
Tử vong do tim mạch 16 13,8
Thủ thuật tái tưới máu 48 41,4
Thời gian theo dõi TB (X ± SD) 23,27 ± 9,9 tháng
Trong số 116 BN, thời gian theo dõi trung bình
23,27 ± 9,9 tháng. Biến cố tim mạch thường gặp nhất
là thủ thuật tái tưới máu (41,4%), cơn đau thắt ngực
và/hoặc NMCT tái phát (32,8%) và suy tim (29,3%). Tử
vong 16 BN, chiếm tỉ lệ 13,8%.
Bảng 3. So sánh đặc điểm XHTMCT ở nhóm không và có biến cố tim mạch
Các đặc điểm khuyết xạ
nhóm không có biến cố nhóm có biến cố p
n=26 % n=90 %
Đặc điểm khuyết
xạ
Có phục hồi + kết hợp 24 92,3 71 78,9
>0,05
Cố định 26 7,7 19 21,1
Mức độ tổn thương
Nhẹ + Vừa 5 19,2 15 16,7
>0,05
Nặng 21 80,6 75 83,3
Diện tổn thương
Hẹp + Trung bình 8 30,8 20 22,2
>0,05
Rộng 18 69,2 70 77,8
Không có sự khác biệt về các đặc điểm khuyết xạ giữa hai nhóm có và không có biến cố tim mạch sau
NMCT.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012250
nghiên CỨU KHoa HỌC
Bảng 4. So sánh đặc điểm XHTMCT ở nhóm không
và có biến cố cơn đau thắt ngực và/hoặc NMCT tái phát
Các đặc điểm khuyết xạ
nhóm không có cơn đau thắt
ngực và/hoặc nMCt tái phát
nhóm có cơn đau thắt ngực
và/hoặc nMCt tái phát p
n = 78 % n = 38 %
Đặc điểm
khuyết xạ
Có phục hồi + kết
hợp 60 76,9 35 92,1 <0,05
Cố định 18 23,1 3 7,9
Mức độ tổn
thương
Nhẹ + Vừa 18 23,1 2 5,3
<0,05
Nặng 60 76,9 36 94,7
Diện tổn
thương
Hẹp + Trung bình 24 30,8 4 10,5
<0,05
Rộng 54 69,2 34 89,5
Các BN khuyết xạ phục hồi, mức độ khuyết xạ nặng và diện khuyết xạ rộng có nguy cơ biến cố cơn đau thắt
ngực và/hoặc NMCT tái phát tăng rõ rệt so với các BN có khuyết xạ cố định, mức độ nhẹ - vừa và diện tổn thương
hẹp - trung bình (p<0,05).
Bảng 5. So sánh đặc điểm XHTMCT ở nhóm không và có biến cố suy tim
Các đặc điểm khuyết xạ
nhóm không suy tim nhóm có suy tim
p
n = 82 % n = 34 %
Đặc điểm khuyết
xạ
Có phục hồi + kết hợp 77 93,9 18 52,9
<0,001
Cố định 5 6,1 16 47,1
Mức độ
tổn thương
Nhẹ + Vừa 19 23,2 1 2,9
<0,01
Nặng 63 76,8 33 97,1
Diện tổn thương
Hẹp + Trung bình 24 29,3 4 11,8
<0,05
Rộng 58 70,7 30 88,2
Các BN khuyết xạ cố định có biến cố suy tim tăng so với nhóm không suy tim (47,1% so với 6,1%, p<0,001).
Mức độ khuyết xạ nặng và diện rộng làm tăng rõ biến cố suy tim so với nhóm mức độ nhẹ - vừa và diện hẹp - trung
bình (p<0,05).
Bảng 6. So sánh đặc điểm XHTMCT ở nhóm không và có biến cố tử vong
Các đặc điểm khuyết xạ
nhóm không tử vong nhóm tử vong
p
n = 100 % n = 16 %
Đặc điểm khuyết xạ
Có phục hồi + kết hợp 82 82 13 81,3
>0,05
Cố định 18 18 3 18,8
Mức độ tổn thương
Nhẹ + Vừa 17 17 3 18,3
>0,05
Nặng 83 83 13 81,3
Diện tổn thương
Hẹp + Trung bình 28 28 0 0
<0,05
Rộng 72 72 16 100
Các BN khuyết xạ diện rộng có biến cố tử vong tăng có ý nghĩa so với nhóm có diện tổn thương hẹp - trung
bình (p<0,05).
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 251
nghiên CỨU KHoa HỌC
Bảng 7. So sánh đặc điểm XHMCT ở nhóm không và có biến cố thủ thuật tái tưới máu
Các đặc điểm khuyết xạ
nhóm không tiến hành
thủ thuật tái tưới máu
nhóm tiến hành thủ
thuật tái tưới máu p
n = 68 58,6 n = 48 41,4
Đặc điểm khuyết xạ
Có phục hồi + kết hợp 49 72,1 46 95,8
<0,01
Cố định 19 27,9 2 4,2
Mức độ tổn thương
Nhẹ + Vừa 9 13,2 11 22,9
>0,05
Nặng 59 86,8 37 77,1
Diện tổn thương
Hẹp + Trung bình 12 17,6 16 33,3
>0,05
Rộng 56 82,4 32 66,7
Các BN khuyết xạ phục hồi có tỉ lệ biến cố thủ thuật tái tưới máu tăng có ý nghĩa so với nhóm khuyết xạ cố
định (p<0,01).
Bảng 8. Mối liên quan giữa điểm định lượng tổn thương khuyết xạ
ở nhóm không và có biến cố tim mạch
điểm định lượng tổn thương nhóm không biến cố
(n = 26)
nhóm có biến cố
(n = 90)
p
SSS (X ± SD) 13,5 ± 3,65 18,17 ± 5,3 <0,001
SRS (X ± SD) 11,04 ± 3,58 14,77 ± 5,46 <0,01
SDS (X ± SD) 2,58 ± 1,60 3,38 ± 2,40 >0,05
Điểm SSS và SRS trung bình là 18,17 ± 5,3 và 14,77 ± 5,46 ở nhóm có biến cố tim mạch cao hơn rõ rệt so với
nhóm không có biến cố (p<0,05).
0
20
40
60
80
0 - 1 2 - 6 ≥ 7
33,8
61,8
4,4
14.6*
68,8
16.6*
Không tiến hành thủ
thuật tái tưới máu
Có tiến hành thủ
thuật tái tưới máu
Biểu đồ1. So sánh SDS giữa nhóm có và không tiến hành thủ thuật tái tưới máu (*p<0,05).
Tỉ lệ BN có SDS ≥ 7 cao hơn có ý nghĩa ở nhóm
được tiến hành thủ thuật tái tưới máu có so với nhóm
không tiến hành thủ thủ thuật tái tưới máu (p<0,05).
iV. Bàn LUận
Đánh giá tiên lượng cho BN sau NMCT là vấn đề
rất quan trọng để quyết định chiến lược điều trị. Gated
SPECT là phương pháp thăm dò an toàn và chính xác
cho phép phân tầng sớm các nguy cơ tai biến và quyết
định chiến thuật điều trị ở những BN sau NMCT. Khi
nguy cơ tai biến tim mạch thấp, bác sĩ tim mạch thường
lựa chọn phương pháp điều trị nội khoa và cho BN xuất
viện sớm. Với những BN có diện tổn thương khuyết xạ
cố định do sẹo nhồi máu thì biện pháp điều trị nội khoa
bảo tồn là tối ưu. Trái lại, ở những BN có vùng thiếu
máu cơ tim rộng biểu hiện bằng vùng khuyết xạ có hồi
phục thì biện pháp điều trị can thiệp tái tưới máu là cần
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012252
nghiên CỨU KHoa HỌC
thiết [1], [7], [8]. Nghiên cứu của chúng tối tiến hành
theo dõi trên 116 BN trong thời gian trung bình 23,27
± 9,9 tháng. Biến cố tim mạch thường gặp nhất là thủ
thuật tái tưới máu (41,4%). Tử vong 16 BN (13,8%). Khi
phân tích các tổn thương khuyết xạ thì không thấy có
sự khác biệt giữa hai nhóm có và không có biến cố. Tỉ
lệ BN có biến cố cơn đau thắt ngực và/hoặc NMCT tái
phát tăng rõ rệt ở nhóm khuyết xạ có hồi phục và kết
hợp (92,1% so với 79,6%, p<0,05) (bảng 4). Trái lại, ở
nhóm có biến cố suy tim thì tỉ lệ bệnh nhân có khuyết xạ
cố định tăng có ý nghĩa so với nhóm không có biến cố
này (47,1% và 6,1% p<0,001). Điều đó có thể giải thích
là do các khuyết xạ cố định thường thể hiện tình trạng
sẹo cơ tim gây giảm chức năng co bóp cơ tim nên dẫn
đến suy tim, trong khi BN có khuyết xạ có hồi phục thể
hiện tình trạng thiếu máu cơ tim nên thường có các biến
cố cơn đau thắt ngực và NMCT. Can thiệp tái tưới máu
ở những BN này sẽ cải thiện đáng kể các tổn thương
trên xạ hình. Chúng tôi nhận thấy tỉ lệ BN có biến cố
can thiệp tái tưới máu tăng có ý nghĩa so với nhóm
không có biến cố này đối với các tổn thương khuyết
xạ có hồi phục và kết hợp (91,7% so với 75%, p<0,05)
(bảng 7). Mức độ và diện khuyết xạ đánh giá tình trạng
tổn thương cơ tim do thiếu máu vành gây ra, những tổn
thương mức độ nặng và diện rộng là nhóm có nguy cơ
cao gây các tai biến tim mạch. Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi đã thấy các BN có khuyết xạ mức độ nặng và
diện rộng có các biến cố đau thắt ngực và suy tim tăng
cao (94,7% so với 76,9%, p<0,05; 89,5% so với 69,2%,
p<0,05) (bảng 4) và (97,1% so với 76,8%, p<0,01;
88,2% so với 70,7%, p<0,05 ) (bảng 5). Biến cố tử vong
gặp 13,8%, cao hơn có ý nghĩa so với nhóm sống còn
đối với khuyết xạ diện rộng (100% so với 72%, p<0,05)
(bảng 6). Nghiên cứu INSPIRE (Adenosine Sestamibi
Post-Infarction Evaluation) là một thử nghiệm lâm sàng
tiến cứu đa trung tâm có quy mô lớn sử dụng xạ hình
SPECT để phân tầng sớm nguy cơ và quyết định chiến
thuật điều trị ở những BN sau NMCT. Nghiên cứu gồm
728 BN được làm xạ hình SPECT tưới máu cơ tim sau
NMCT cấp 10 ngày, theo dõi trong vòng 1 năm cho thấy
độ rộng khuyết xạ và độ rộng vùng khuyết xạ có hồi
phục tăng cao hơn ở nhóm có nguy cơ cao so với nhóm
nguy cơ thấp với p<0,001[7].
Tìm hiểu mối liên quan giữa biến cố tim mạch với
mức độ thiếu máu cơ tim được đánh giá bằng tổng
điểm định lượng tổn thương, chúng tôi thấy nhóm có
biến cố có điểm SSS là 18,17 ± 5,3 và SRS là14,77
± 5,46 tăng rõ rệt so với nhóm không có biến cố 13,5
± 3,65 và 11,04 ± 3,58 (p<0,01). Điểm SDS tăng hơn
ở nhóm có biến cố nhưng chưa có ý nghĩa thống kê
(bảng 8). Khi phân nhóm thì tỉ lệ BN phải tiến hành thủ
thuật tái tưới máu tăng hơn rõ rệt ở nhóm SDS ≥ 7
(p<0,05) (biểu đồ 1). Zellweger và cs nghiên cứu trên
1413 BN sau NMCT được làm xạ hình SPECT tưới
máu cơ tim pha nghỉ và pha gắng sức, thời gian theo
dõi ≥ 1 năm, điểm SSS, SRS và SDS tăng cao hơn có
ý nghĩa ở nhóm BN có biến cố tim mạch với p<0,001
và p=0,02. Nhóm BN có SDS ≥ 7 có tỉ lệ NMCT tái
phát tăng hơn nhóm SDS < 7 (p<0,05) [10]. Nghiên
cứu của Brown K.A. và cs ở 451 BN sau NMCT được
làm SPECT, thời gian theo dõi trung bình 1,9 ± 0,2
năm, tỉ lệ tử vong và NMCT tái phát tăng rõ ở nhóm
SDS ≥ 7 so với nhóm SDS <7, chỉ số nguy cơ OR của
biến cố tử vong và NMCT tái phát đối với điểm SDS
là 2,4, SSS là 1,7 và SRS là 1,4 [3]. Kaya E. và cs
nghiên cứu 36 BN sau NMCT non Q được làm Tc99m-
MIBI Gated SPECT pha nghỉ, thời gian theo dõi 30,65
± 0,49 ngày, thấy sự khác biệt rõ rệt về điểm SRS
và độ rộng khuyết xạ (ES) giữa nhóm có tiên lượng
tốt và nhóm có tiên lượng xấu với p<0,001 [5]. Tình
trạng thiếu máu cơ tim tồn dư sau NMCT có giá trị tiên
đoán các biến cố tim mạch, được đánh giá bằng SDS
[2], [9]. Trong nghiên cứu của Acampa W. và cs trên
146 BN sau NMCT cấp thấy rằng có sự khác biệt có ý
nghĩa về tỉ lệ tử vong giữa 3 nhóm không thiếu máu,
thiếu máu nhẹ và thiếu máu nặng khi phân tích đường
cong sống còn.
V. KẾt LUận
Tỉ lệ các biến cố cơn đau thắt ngực và NMCT tái
phát, thủ thuật tái tưới máu động mạch vành tăng rõ rệt
ở nhóm khuyết xạ có hồi phục và kết hợp. Biến cố suy
tim gặp nhiều hơn ở nhóm khuyết xạ cố định. Có sự liên
quan giữa khuyết xạ mức độ nặng và diện tổn thương
rộng với các biến cố cơn đau thắt ngực và NMCT tái
phát, suy tim, tử vong ở BN sau NMCT.
Tỉ lệ các biến cố tim mạch có liên quan tới tổng
điểm SSS và SRS. Biến cố cơn đau thắt ngực và tiến
hành thủ thuật tái tưới máu tăng ở nhóm SDS ≥ 7.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 08 - 04 / 2012 253
nghiên CỨU KHoa HỌC
1. Lê Ngọc Hà (2009), “Giá trị và vai trò của xạ
hình tưới máu cơ tim trong lâm sàng”, Tạp chí y dược
học lâm sàng 108 tập 4, tr 51-58.
2. Acampa W., Spinelli L., Petretta M. et al (2005),
“Prognostic Value of Myocardial Ischemia in Patiens
with Uncomplicated Acute Myocardial Infarction: Direct
Comparison of Stress Echocardiography and Myocardial
Perfusion Imaging”, J Nucl Med, 46: 417-423.
3. Brown K.A., Heller G.V., Landin R.S. et al (1999), “Early
Dipyridamole 99mTc-Sestamibi Single Photon Emission
Computed Tomographic Imaging 2 to 4. Days After Acute
Myocardial Infarction Predicts In-Hospital and Postdischarge
Cardiac Events Comparison With Submaximal Exercise
Imaging”, Circulation; 100: pp.2060-2066.
5. Hansen Ch.L., Goldstein R.A., Akinboboye
O.O. et al (2007), “ASNC Imaging Guidelines For
Nuclear Cardiology Procedures: Myocardial perfusion
and function: Single photon emission computed
tomography”, J Nucl Cardiol; 14:e39-60.
6. Kaya E., Entok E., Cavusoglu Y. et al (2008),
“Short – Term Prognostic Value of Rest Tc 99m – MIBI
Gated SPECT After Acute Non – Q Wave yocardial
Infarction”, Eur J Gen Med;5(3): pp.170-177.
7. Lloyd-Jones D., Adams R.J., Brown T.M. et al
(2010), ”Heart Disease and Stroke Statistics—2010
Update: A Report From the American Heart Association,
Circulation; 121: pp.e46-e215.
8. Mahmarian J.J., Shaw L.J., Filipchuk N.G. et al
(2006), “A Multinational Study to Establish the Value of
Early Adenosine Technetium-99m Sestamibi Myocardial
Perfusion Imaging in Identifying a Low-Risk Group
for Early Hospital Discharge After Acute Myocardial
Infarction” , J Am Coll Cardiol, 48: pp.2448 –57.
9. Mahmarian J.J., Dwivedi G., Lahiri T. (2004),
“Role of nuclear cardiac imaging in myocardial infarction:
Postinfarction risk stratification”, J Nucl Cardiol;11:
pp.186-209.
10. Udelson JE, Flint EJ (2004) “Radionuclide
imaging in risk assessment after acute coronary
syndromes”. Heart; 90 (Suppl V): pp.v16-v25.
11. Zellweger M.J., Dubois E.A., Lai S. et al (2002),
“Risk stratification in patients with remote prior myocardial
infarction using rest-stress myocardial perfusion
SPECT: Prognostic value and impact on referral to early
catheterization”, J Nucl Cardiol; 9: pp.23-32.
TÓM TẮT
Mục đích: Nghiên cứu giá trị tiên lượng của các tổn thương trên xạ hình SPECT tưới máu cơ tim ở các bệnh
nhân (BN) sau nhồi máu cơ tim (NMCT).
Đối tượng và phương pháp: 116 BN sau NMCT được chụp gated SPECT xạ hình tưới máu cơ tim (XHTMCT)
bằng Tc99m-sestamibi tại khoa Y học hạt nhân, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 3/2007 - 5/2010 và theo dõi
các biến cố tim mạch trong vòng 23,27 ± 9,9 tháng.
Kết quả: Tỉ lệ biến cố cơn đau thắt ngực và/hoặc NMCT tái phát và thủ thuật tái tưới máu cao hơn ở nhóm
khuyết xạ có hồi phục (92,1 so với 76,9, p<0,05 và 95,8% so với 72,1%, p<0,01). Khuyết xạ cố định cao hơn có ý
nghĩa ở nhóm suy tim so với nhóm không có biến cố này (47,2% so với 6,1%, p<0,001). Nhóm có cơn đau thắt ngực
và/hoặc NMCT tái phát có tỉ lệ khuyết xạ mức độ nặng 94,7% và diện rộng 76,9% cao hơn rõ rệt so với nhóm không
có biến cố này (76,9% và 69,2%) với p<0,05. Ở nhóm BN suy tim, khuyết xạ mức độ nặng chiếm tỉ lệ 97,1% và diện
rộng 76,8% so với nhóm không suy tim là 88,2% và 70,7% (p<0,05). Nhóm BN tử vong có khuyết xạ diện rộng là
100% so với 72% ở nhóm không tử vong. Giá trị định lượng tổng điểm tưới máu pha gắng sức (SSS) và tổng điểm
tưới máu pha nghỉ (SRS) tăng rõ rệt ở nhóm có biến cố tim mạch so với nhóm không có biến cố (18,17 ± 5,3 so với
13,5 ± 3,65, p<0,001 và 14,77 ± 5,46 so với 11,04 ± 3,58, p<0,01).
Kết luận: Các đặc điểm hình ảnh trên XHTMCT có giá trị tiên lượng biến cố tim mạch ở BN sau NMCT.
NGƯỜI THẩM ĐỊNH: GS.TS. Phan Sỹ An
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_gia_tri_tien_luong_cua_xa_hinh_spect_tuoi_mau_co.pdf