Hiện nay tình hình quản lý thu gom chất thải rắn trên địa bàn quận 7 từtừ đi
vào ổn định nhưng chưa chặt chẽ. Vẫn còn một sốhộdân vứt rác xuống kênh rạch
gây ô nhiễm môi trường. Điều đó cho thấy vấn đềvềvệsinh môi trường vẫn chưa
được xửlý triệt để.
Vịtrí các điểm tập kết chất thải rắn chưa phù hợp, lực lượng rác dân lập thu
gom từnguồn thải ra tới điểm hẹn quá xa. Địa hình quận 7 có nhiều hẻm nhỏ, đường
gập ghềnh khó vận chuyển, mất nhiều thời gian trong quá trình thu gom.
Các phương tiện chuyên dùng nhưxe ép rác đầu tưchưa đầy đủnên thường
xuyên xảy ra tình trạng xe ép vận chuyển khối lượng chất thải rắn nhiều hơn tải trọng
của xe. Việc này làm rơi vãi chất thải rắn trên đường vận chuyển đến bãi chôn lấp,
ảnh hưởng tới môi trường và người đi đường.
101 trang |
Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2286 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn quận 7 - Tp Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 67
Bảng 6.6 Chi phí đầu tư cho các loại xe
Loại xe
Lượng rác
trong xe
(kg)
Tỷ lệ
nén
ép
Lượng rác
đưa vào
xe (tấn)
Số
chuyến
xe phải
chở
(Chuyến/
ngày)
Chi phí
bảo trì
bảo dưỡng
(USD/
năm)
Chi phí
vận hành
(USD/
năm)
Khấu
hao
(USD/
năm)
Tổng chi
phí cho mỗi
xe
(USD/
năm)
Isuzu
NKR55E 4m3
4.330 1,5 6,495 44 151 270.100 3.010 273.261
Hino
FG1JJUB
14m3
7.195 1,5 10,792 26 274 160.600 5.470 165.744
Hino
FC3JEUA 9
m3
5.195 1,5 7,792 36 210 219.000 4.191 223.401
Mitsubishi
Canter 5,3m3
2.630 1,5 3,945 72 158 438.000 3.160 441.318
Mitsubishi
Canter 6,3m3
2.930 1,2 3,516 81 149 489.100 2.980 492.229
Theo kết quả tính toán trong Bảng 6.6 trên, nếu so sánh về mặt kinh tế trong việc đầu
tư xe ép rác, loại xe được lựa chọn để tính toán cho toàn bộ hệ thống thu gom rác
thực phẩm là xe HINO FG1JJUB 14 m3.
Khối lượng riêng nén ép trong xe ép rác HINO FG1JJUB 14m3 được tính:
7715,1
14
905.7100.15)/( 3 =×−=×= ξρ
V
Mmkg (kg/m3) = 0,771tấn/m3
Với M: khối lượng rác xe ép chở (kg), V: thể tích xe (m3), ξ: tỷ số nén ép
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 68
Khối lượng rác chứa trong xe ép 14m3
V × f × ρ = 14m3 × 0,771 tấn/m3 × 1 = 10,794 tấn
Trong đó:
Thể tích xe V = 14m3
Khối lượng riêng nén ép ρ = 0,771 tấn/m3
Hệ số hữu ích của xe f = 1
Số điểm hẹn mà xe ép rác phải đi qua trong một chuyến vận chuyển:
henđiem
mkgmthùng
kgN 11
/18066,08
794.10
33 =××=
Tổng số chuyến xe cần thiết để vận chuyển hết CTR trong 1 ngày (Nc)
26
1771,014
tan069,285
1tan/771,014 33
=××=××= mm
actongluongrN (chuyến/ngày)
Số thùng 660 lít mà xe có thể tiếp nhận trong một chuyến
91
/180/66,0
794.10
660 33
=×== mkgthungm
kg
lacthungkhoiluongr
ongracxeeptongkhoiluCt (thùng)
Thời gian cần thiết cho một chuyến thu gom
TSCS = T1 + T2 + T3
Trong đó:
T1: Thời gian lấy và đổ rác
T2: Thời gian từ vị trí lấy rác cuối cùng về TTC và trở lại vị trí lấy rác tuyến tiếp theo
T3: Thời gian đổ rác tại khu xử lý, T3 = 15 phút = 0,25 giờ/chuyến
• Thời gian lấy và đổ rác
T1 = (Ct × t’) + [(Np -1) × t’’]
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 69
Trong đó:
t’: thời gian cần thiết để đổ thùng 660 lít lên xe ép, t1 = 1 phút = 0,016 giờ
Ct: số thùng đổ được trong một chuyến, Ct = 91 thùng
Np: số điểm hẹn lấy được trong một chuyến thu gom, Np = 11 điểm hẹn
t’’: thời gian vận chuyển giữa hai điểm lấy rác
t’’ = S2 : V1 = 600 (m) : 20 (km/h)= 0,03 (giờ)
S2: Khoảng cách trung bình giữa các điểm hẹn: S2 = 600 m
V1: Vận tốc trung bình của xe ép chạy trên đường nội thành: V1 = 20 km/h.
T1 = (91 × 0,016) + [(11 – 1) × 0,03] = 1,76 giờ/chuyến
• Thời gian từ vị trí lấy rác cuối cùng về TTC và trở lại vị trí lấy rác tuyến tiếp theo
1 3
2
2 2
S S
T
V V
= +
Trong đó:
S1: Khoảng cách trung bình từ điển hẹn cuối đến TTC: S3 = 6 km
V2: Vận tốc trung bình của xe ép khi chạy ở nội thành: V2 = 20 km/h
S3: Khoảng cách trung bình từ nơi để xe đến điểm hẹn đầu: S1 = 1 km
2
6 1 0,35
20 20
T = + = (giờ)
• Thời gian cần thiết cho một chuyến thu gom
TSCS = T1 + T2 + T3 = 1,76( giờ) + 0,35 (giờ) + 0,25 giờ = 2,36 giờ/chuyến
• Số lần xe quay vòng trong ngày
2 1H (1- w) -(t - t )C =
Tscs
Trong đó:
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 70
H: thời gian làm việc theo quy định trong ngày, H = 8 giờ
W: hệ số tính đến thời gian không vận chuyển, W = 0,15
TSCS: thời gian cần thiết cho một chuyến thu gom
t1: thời gian từ trạm để xe đến vị trí lấy rác đầu tiên, t1 = S1/V2 = 1/40 = 0,625 giờ
t2: thời gian từ TTC đến trạm cất xe, t2 = 0
3
36,2
)0625,0()15,01(8 =−−−×=C (chuyến/ngày)
Số xe ép cần thiết =
ngaychuyen
ngaychuyen
/3
/26 = 9 (xe)
Mỗi xe thu gom gồm 1 tài xế và 1 phụ xe, thời gian làm việc của công nhân là 6
ngày/tuần.
Số công nhân đội xe vận chuyển cần là
ngay
ngayxenguoixe
6
7/29 ×× = 21 (người/ngày)
Bảng 6.7 Số xe ép rác 14 m3 cần đầu tư tính đến năm 2030 để thu gom chất thải rắn
(xe sử dụng được trong 10 năm)
Khối
lượng
Khối
lượng
STT
Năm
tính
toán (kg/ngày) (tấn/năm)
Số xe
cần
thiết
Số xe cần
đầu tư
Số công
nhân
của xe
ép rác
1 2010 285,069 104,050 9 9 21
2 2011 339,830 124,038 10 1 23
3 2013 371,350 135,543 11 1 25
4 2014 405,793 148,114 12 1 28
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 71
5 2015 443,431 161,852 13 1 30
6 2016 484,561 176,864 15 2 35
7 2017 573,631 209,375 17 2 39
8 2018 626,837 228,795 19 2 44
9 2019 684,979 250,017 21 2 49
10 2020 748,512 273,206 23 2 53
11 2021 817,938 298,547 25 11 58
12 2022 962,558 351,333 29 4 67
13 2023 1,051,839 383,921 32 3 74
14 2024 1,149,400 419,531 35 3 81
15 2025 1,242,570 453,538 38 3 88
16 2026 1,372,508 500,965 42 4 98
17 2027 1,606,941 586,533 49 6 114
18 2028 1,755,989 640,935 54 5 126
19 2029 1,918,862 700,384 59 5 137
20 2030 2,096,842 765,347 64 31 149
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 72
6.3.2.2 . Trạm trung chuyển
Trạm trung chuyển được xây dựng và thiết kế khi đoạn đường vận chuyển đến
trung tâm xử lý hoặc BCL gia tăng làm cho việc vận chuyển trực tiếp không kinh tế,
cũng như khi trung tâm xử lý hoặc BCL nằm ở vị trí rất xa không thể vận chuyển
trực tiếp CTR đến đó bằng đường quốc lộ. Trạm trung chuyển nhằm phục vụ cho
việc phân loại rác tại nguồn do vậy khuôn viên phải có diện tích lớn để tiếp nhận
CTR và phân loại. Khuôn viên được chia làm 2 khu vực, bao gồm các công trình cụ
thể sau:
- Nhà bảo vệ
- Khu vực văn phòng, các hoạt động của xí nghiệp được quản lý ở đây
- Khu vực cân xe vào
- Ngay giữa khuôn viên là sàn trung chuyển chính bên trong có 2 hệ thống ép CTR
thủy lực dùng để ép CTR hữu cơ
- Khu vực đậu xe đầu kéo, xe ép và nơi đặt container sau khi kết thúc công việc
- Sàn trung chuyển phụ là nơi tiếp nhận các loại chất thải vô cơ sau phân loại
Ngoài ra, khuôn viên còn có các công trình phụ trợ khác như: hệ thống thu,
dẫn nước thải, rò rỉ sinh ra trong suốt quá trình hoạt động của trạm, hệ thống xử lý
không khí tại các sang tiếp nhận chất thải, hệ thống phun chế phẩm khử mùi….
Trạm trung chuyển được thiết kế theo dạng trạm trung chuyển chất tải trực
tiếp công suất trung bình có thiết bị nén ép chất thải.
Hoạt động của TTC chất tải trực tiếp: tất cả các xe thu gom được cân và xác
định vị trí đổ chất thải. Sau khi đã hoàn tất việc đổ bỏ chất thải các xe này được cân
lại lần nữa và tính lệ phí. Xe vận chuyển có sức chứa lớn hơn. Khi xe vận chuyển đã
chứa đầy chất thải và đạt tải trọng cực đại cho phép, chúng được chuyển đi và vận
chuyển đến nơi thải bỏ. Thế tích và khối lượng chất thải rắn trên xe vận chuyển phải
được kiểm tra lại trước khi ra khỏi TTC. Sau khi cân, xe thu gom đi vào TTC và đổ
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 73
chất thải trực tiếp vào một trong các phễu nối liền với máy ép hoặc vào một hố chứa
chất thải hình chữ nhật. Mỗi hố được trang bị bộ phận đẩy chất thải vào phễu của
máy ép đặt ở vị trí cuối của hố. Nếu không có xe vận chuyển, chất thải sẽ được đổ
tạm thời trên bệ thải, sau đó được đẩy vào phễu của máy ép.
Xe vận chuyển của trạm sẽ đầu tư hoàn toàn mới và đồng bộ, loại xe dùng để
vận chuyển rác ra điểm thải bỏ là xe tải chuyên dụng được thiết kế tương thích với
các loại container. Sauk hi CTR được nén ép vào container, xe sẽ cẩu thùng lên xe
rồi vận chuyển ra khu liên hợp xử lý chất thải rắn của quận. Ngoài chức năng vận
chuyển container ra khu liên hợp xử lý CTR, loại xe này còn làm nhiệm vụ di dời tại
trạm, xe có nhiệm vụ di chuyển container vào vị trí tiếp nhận chất thải cũng như di
dời tới vị trí đặt tạm thời trước khi được vận chuyển tới khu liên hợp xử lý.
Quy trình vận hành trạm trung chuyển
− Cách Thức Tiếp Nhận Rác
Xe ép chứa đầy rác sau khi thu gom sẽ về trạm trung chuyển. Xe sẽ qua các
hạng mục công trình sau: khu đứng chờ, trạm cân, sàn trung chuyển, khu rửa xe.
− Trạm Cân
Trạm cân gồm có một cầu cân dùng chung cho 2 lượt ra và vào. Tất cả xe ép
đều phải qua trạm cân trước khi vào sàng trung chuyển. Khi xe rời trạm cân lần 1,
nhân viên trạm có nhiệm vụ ước tính lượng rác có trong xe rồi thông báo bằng bộ
đàm cho nhân viên điều hành 2 sàng trung chuyển phía trong, tạo điều kiện tốt cho
nhân viên tại sang ước tính được lượng chất thải cho vào thùng ép. Điều này có ý
nghĩa quan trọng vì không xác định được chính xác lượng rác cho vào thùng ép thì
không thể tiến hành ép vì khi thiết kế buồng tiếp nhận chất thải trước khi ép có sức
chứa đúng với sức chứa của một container nên chỉ cần một lần ép là đầy container.
Do đó, sau một lần ép mà lượng rác không đủ trong container thì không có lợi về mặt
kinh tế cũng như kỹ thuật khi vận chuyển. Ngược lại, nếu quá đầy chất thải, khi ép
có thể làm hỏng container.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 74
Mặt khác, trong quá trình ép không thể ngưng để đổ chất thải vào thêm trong
buồng chứa vì lúc này piston trong buồng chứa đang cố định vị trí nén ép chất thải
vào container (chỉ khi nào kết thúc quá trình ép thì piston mới trở về vị trí cố định trả
khoảng trống cho buồng tiếp nhận) nên khi cho thêm chất thải vào có thể chất thải
tràn qua khoang hoạt động của hệ thống ép sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến hệ
thống. Chính vì thế, nhân viên làm việc ở khâu này buộc phải có kinh nghiệm và sự
hỗ trợ của nhân viên trạm cân.
Để ước tính khối lượng rác có trong xe nhân viên trạm cân phải nhớ trọng
lượng của các loại xe ép vào đổ rác tại trạm. Khi xe vào cân lần 1, trên màn hình máy
vi tính sẽ hiện trọng lượng của cả xe và chất thải. Từ đó, nhân viên sẽ trừ đi khối
lượng của xe để còn lại khối lượng của rác có trong xe và báo cho người phía trong.
Xe ép sau khi cân lần 1, đến sàng trung chuyển để xuống rác. Sau khi đổ chất
thải xong, xe chạy ra cân lần 2 để biết được lượng rác thật mà xe đã chuyển đến
trạm. Cân xong tài xế nhận biên lai trước khi rời khỏi trạm. Công việc tại trạm cân
hoàn toàn tự động.
− Sàn trung chuyển chất Thải
Sàn thiết kế có diện tích 50m × 50m, xung quanh có tường bao bọc, trên lợp
mái có máng thoát nước mưa, bên trong có 2 hệ thống ép thủy lực. Ngoài ra, sàn còn
thiết kế hệ thống thu khí và xử lý mùi hôi do chất thải sinh ra cùng các hệ thống thoát
và thu nước rò rỉ.
Các xe ép sau khi qua trạm cân sẽ chạy thẳng vào sàn, sàn có 2 cửa vào, cửa
vào có gắn màng nhựa phía trên và hệ thống hút gió nhằm không cho không khí chứa
thành phần ô nhiễm bên trong lọt ra ngoài. Nguyên tắc, màng nhựa phía trên là tấm
chắn có nhiệm vụ cản không khí bên trong, tạo thành mặt phẳng với hệ thống hút
gió. Khi máy hút không khí hoạt động tấm màng nhựa được xem như mặt ngăn cách
giữa 2 môi trường không khí bên trong và bên ngoài sàng trung chuyển tạo điều kiện
tốt nhất cho máy hút không khí chỉ hút hết lượng khí bên trong sàn khi muốn khuếch
tán ra ngoài. Khi không khí di chuyển tới cửa ra vào trước tiên sẽ bị màng nhựa ngăn
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 75
lại sau đó sẽ được máy hút khí hút và thổi qua bộ phận xử lý trước khi xả vào môi
trường.
Không khí bên trong khuôn viên sàn được thu bằng hệ thống thu khí lắp trên
hệ thống thủy lực. Hệ thống thu sẽ chuyển không khí và mùi hôi đến bộ phận xử lý
trước khi thải vào môi trường. Sàn có 2 hệ thống tương ứng với 2 hệ thống ép rác.
Một hệ thống thu khí gồm có 2 chụp vuông được gắn ngay phía trên giàn ép
thủy lực gần nóc mái nhà, chụp hút nối với đường ống dẫn khí ra hệ thống xử lý nằm
bên ngoài vách sàn, ống dẫn có đường kính 0,5m. Hệ thống xử lý là khối có dạng
hình chữ nhật kích thước ngang 2,5m × cao 1m, bên trong có chứa thang hoạt tính.
Một hệ thống xử lý chứa 800 – 1000 kg than hoạt tính sử dụng cho 4 – 5 tháng. Chụp
sẽ thu khí sinh ra từ quá trình ép rác và cả khí bên trong khuôn viên sàng. Khí sau khi
qua than hoạt tính sẽ được khử mùi rồi được bơm hút qua đường ống thải xả ra
ngoài. Đường kính ống thải 0,4m, cao lên 10m tính từ mặt đất.
− Nguyên Tắc Hoạt Động Trong Sàn
Xe ép vào sàng từ 2 cửa chính đối diện nhau. Xe chạy thẳng vào theo sự điều
khiển của nhân viên bên trong. Các xe dừng ngay trong miệng hứng CTR của hệ
thống ép. CTR được đổ thẳng xuống miệng tiếp nhận. Đổ xong, xe ép di chuyển ra
khỏi sàn. Bên trong nhân viên cho hệ thống hoạt động. Miệng hứng được nâng lên
nhờ 2 piston thủy lực. Toàn bộ lượng rác có trong miệng hứng trút hết xuống buồng
chứa chất thải. Đồng bộ với quá trình lấy rác là quá trình chuẩn bị container vào vị
trí. Bên vách sàn, bộ phận điều khiển dùng xe dời di chuyển container vào đúng vị trí
cần ép rác vào thùng. Ngay sau khi cố định container xong, quá trình ép diễn ra. Hệ
thống ép hoàn toàn tự động.
Sau khi hệ thống hoạt động, trước tiên, nắp container kéo lên cố định. Sau đó,
piston sẽ di chuyển và ép rác vào container, cứ như thế cho tới khi đầy, nắp được đậy
lại, bên ngoài nhân viên cho xe móc nâng container lên xe có nhiệm vụ di dời rồi vận
chuyển tới khu vực chứa chờ tới giờ đưa đi khu liên hợp xử lý xử lý. Cứ như thế cho
đến khi hết rác.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 76
− Công Tác Vệ Sinh Tại Sàng
Loại chất thải mà sàn tiếp nhận là chất thải hữu cơ. Do tính chất của loại chất
thải này thường rất hôi và sinh nhiều nước rò rỉ, nên công tác vệ sinh gặp nhiều khó
khăn. Ngoài hệ thống thu và xử lý để ngăn mùi hôi, trạm cử một nhân viên chuyên
làm vệ sinh sàn trong quá trình hoạt động. Mỗi khi xe ép vào, ra đều được phun chế
phẩm. Mọi thiết bị ép, mặt sàn được phun chế phẩm liên tục theo chu kỳ một giờ
phun một lần. Điều này giúp làm giảm được rất nhiều các vấn đề liên quan tới môi
trường xung quanh.
Nước rò rỉ cùng với nước từ quá trình vệ sinh trạm theo rãnh thoát nước chảy
trực tiếp xuống hầm chứa được xây ngay dưới sàn. Hầm có dung tích 20m3. Nước
được lưu trữ trong hầm và được chuyển đi đổ tại khu liên hợp xử lý chứ không thải
trực tiếp ra cống. Theo thiết kế, tại trạm có 3 container chuyên phục vụ cho mục đích
này. Dung tích 1 container chứa nước rò rỉ 14m3.
Vấn Đề Môi Trường Tại Sàn Trung Chuyển
Trạm trung chuyển CTR quận 7 được xây dựng và thiết kế trên cơ sở xem vấn
đề vệ sinh môi trường là hàng đầu. Ngoài các hệ thống xử lý mùi và thu nước rò rỉ tại
các sàn trung chuyển, hàng ngày trạm có một xe bồn dung tích 1000 lít chuyên phục
vụ cho việc phun chế phẩm khử mùi khu vực không tiếp nhận rác như khu vực trạm
cân, các khu vực đậu xe, bên ngoài sàng trung chuyển….
Đối với hệ thống thoát nước mưa, các khu nhà hoạt động đều có mái che và có
máng thu trên mái dẫn xuống hệ thống cống ngầm chảy vào hố ga rồi xả thẳng ra
cống thoát chính của Thành phố.
Ngoài ra, xung quanh trạm thiết kế thêm một hàng cây xanh bảo vệ, tạo
khoảng xanh cho trạm, mặt khác ngăn chặn tối đa lượng khí thoát ra ngoài.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 77
6.4. Vạch tuyến thu gom
Số lượng, vị trí các điểm hẹn và quãng đường di chuyển của các xe ép thu
gom được thể hiện trên bản đồ Vạch Tuyến Thu Gom.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 78
CHƯƠNG 7: TRẠM XỬ LÝ, TÁI CHẾ TẬP TRUNG
7.1. Các hạng mục công trình trong khu xử lý chất thải rắn
Với chức năng và tính chất của một khu xử lý chất thải rắn, nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho việc vận hành và quản lý, toàn bộ hệ thống xử lý chất thải rắn được chia
thành các phân khu chức năng xử lý chính như sau:
- Khu A: Khu tiếp nhận và phân loại
- Khu B: Khu văn phòng hành chánh quản lý
- Khu C: Khu chế biến compost từ chất thải rắn hữu cơ
- Khu D: Khu sản xuất sản phẩm từ thành phần rác vô cơ có khả năng tái sử
dụng
- Khu E: Khu chôn lấp CTR hợp vệ sinh
- Khu F: Khu thu hồi và xử lý khí bãi chôn lấp
- Khu G: Khu xử lý nước thải.
Ngoài ra còn các hạng mục phụ trợ khác như:
- Khu vực trạm cân
- Khu xử lý nước cấp
- Trạm biến áp và máy phát điện dự phòng
- Khu vực kho chứa nguyên vật liệu và sản phẩm
- Hành lang cây xanh cách ly và tạo cảnh quan
- Khu vực dự phòng mở rộng, phát triển trong tương lai….
7.2. Các công trình phụ trợ của khu xử lý chất thải rắn
7.2.1. Trạm Cân Và Nhà Bảo Vệ
Nhiệm vụ của trạm cân là nhằm xác định khối lượng chất thải đưa vào khu xử
lý. Số cầu cân được chọn để cân xe đi vào và ra khu xử lý CTR là 2 cân (tức cần 2
bàn cân).
Trạm cân được thiết kế gồm 2 cầu cân, 1 cân xe vào và 1 cân xe ra, diện tích
100 m2. Tải trọng một cân là 20 tấn/cân.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 79
Nhà điều hành trạm cân được đặt giữa hai cầu cân và nằm ngay sau phòng bảo
vệ. Nhà điều hành kết hợp với phòng bảo vệ được xây bằng gạch, có diện tích: dài
8m × rộng 5m, mái được lợp bằng tôn có trần cách nhiệt.
7.2.2. Trạm rửa xe
Các xe vận chuyển trước khi ra khỏi khu xử lý đều phải hạn chế đất và rác
dính bám trên bánh xe. Do đó, khu xử lý hình thành trạm rửa xe với kích thước dài ×
rộng × sâu = 5m × 3m × 0,5m và sử dụng vòi xịt nước áp lực cao để kết hợp rửa xe.
Nước sử dụng rửa xe được bơm từ nước sau xử lý của trạm xử lý nước thải và được
chứa trong bồn áp lực. Nước thải của trạm rửa xe được thu vào mương hình chữ nhật
có kích thước: rộng × cao = 0,2m × 0,5m có kết hợp song chắn rác. Mương thu có
độ dốc nghiêng về phía song chắn rác và được dẫn đến khu xử lý nước thải. Lượng
rác mắc lại trong chắn rác được vứt bỏ thủ công do công nhân trong trạm rửa xe đảm
nhận và thải bỏ vào thùng chứa sau đó đem đi chôn lấp.
7.2.3. Sàng phân loại
CTR sinh hoạt từ nhiều nguồn khác nhau, và chưa được phân loại nên cần có
khu vực phân loại CTR ngay tại khu xử lý để đảm bảo tính ổn định và hiệu quả của
công nghệ xử lý CTR.
Khi vào khu xử lý, xe qua trạm cân điện tử để ghi lại khối lượng CTR hàng
ngày, sau đó đổ CTR trên sàn của khu vực phân loại, tại đây công nhân tiến hành
phân loại một phần các chất thải vô cơ có kích thước lớn. Sau đó, CTR từ sàng được
đưa lên băng chuyền, công nhân đứng hai bên dùng tay phân loại thành nhiều thành
phần và chứa chúng vào các thùng chứa riêng biệt nằm phía dưới.
Thành phần cần phân loại gồm: giấy các loại, carton, nilon, nhựa, thủy tinh,
lon đồ hộp, sắt thép, kim loại khác, cao su. Mỗi loại thành phần sẽ do 2 công nhân
chịu trách nhiệm phân loại. Sau khi phân loại thành các thành phần riêng biệt, thùng
chứa nằm dưới sàn phân loại đầy sẽ được thay thế bằng thùng rỗng khác, còn lượng
chất thải trong thùng được di chuyển đến máy nén ép và đóng kiện để giảm thể tích
trước khi vận chuyển đến khu vực tái chế.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 80
Lựa Chọn Thiết Bị Sử Dụng Tại Sàn Phân Loại Tập Trung
Chất thải đưa vào sàng phân loại được chứa trong các hầm sau đó được gầu
xúc lên hệ thống băng tải để phân loại. Hầm có chiều sâu 2m so với mặt đất, thời
gian lưu rác không quá 24 giờ kể từ lúc chất thải được đổ vào hầm. Với khối lượng
rác thải có thể tiếp nhận trong giờ cao điểm là 2000 kg và khối lượng riêng của chất
thải vô cơ là 150 kg/m3, ta có diện tích cần thiết của một hầm chứa rác là 8 m2, chọn
kích thước chiều dài × chiều rộng = 4m × 4m.
Các thiết bị cần đầu tư cho sàn phân loại bao gồm: (1) Hệ thống băng tải phân
loại, (2) Thiết bị ép và đóng kiện, (3) Thiết bị xúc rác, (4) Xe vận chuyển nội bộ.
Băng chuyển vận chuyển chất thải và thiết bị nén ép sử dụng công nghệ do tập
đoàn Marathon cung cấp. Các thông số kỹ thuật cơ bản của băng tải được lựa chọn
như sau:
- Chiều dài bằng 30 m
- Chiều rộng 1,5m
- Vận tốc băng chuyền có thể điều chỉnh phù hợp với tốc độ phân loại của công
nhân
- Hàng lang công tác đi lại trên sàn là 1m cho mỗi bên
- Chiều cao sàng so với mặt đất là 2m
- Tải trọng mà băng chuyền có thể chấp nhận là 10 tấn/giờ.
Sau khi phân loại thành từng thành phần riêng biệt, mỗi loại sẽ được nén ép
bằng máy và dùng xe tải vận chuyển đến nơi xử lý. Riêng thành phần lim loại, sắt,
cao su, lon đồ hộp sẽ được bán cho các vựa ve chai lớn gần nhất vì các thành phần
nay sau khi phân loại có khối lượng rất ít không đủ làm nguồn nguyên liệu cho nhà
máy tái chế hoạt động.
Những thành phần rác thải còn lại sau khi ra khỏi băng chuyền phân loại là
những thành phần không thể tái chế được đổ vào khu vực chứa riêng, cùng với các
thành phần thải bỏ từ các khu khác sẽ đem đi chôn lấp.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 81
Toàn bộ khu vực tập kết, phân loại được bố trí trong nhà có mái che để tránh
nước mua xâm nhập. Mùi hôi là vấn đề không thể tránh khỏi tại khu vực này. Điều
này có thể giảm nhẹ bằng cách giải quyết nhanh CTR đưa vào khu xử lý, tránh để tồn
đọng lâu phân hủy gây mùi. Một vùng đệm với dãy cây xanh cách ly sẽ được bao bọc
quanh khu vực này.
7.3. Khu tái chế chất thải
Khu tái chế chất thải dự định đầu tư xây dựng các nhà máy tái chế giấy, nhựa,
thủy tinh do sau khi phân loại thì số lượng của 3 thành phần này luôn chiếm tỉ lệ lớn
nhất. Trong giai đoạn đầu từ 2008 – 2016, do nguồn nguyên liệu sản xuất được cung
cấp từ trạm phân loại thấp và không ổn định nên ban quản lý sẽ mua nguyên liệu từ
các vựa bán phế liệu lớn.
7.3.1. Tái Chế Giấy
Hình 7.1 Sơ đồ công nghệ tái chế giấy.
Giấy và carton là thành phần chiếm tỷ lệ cao trong thành phần chất thải sinh
hoạt, do đó việc tái chế giấy mang lại nhiều lợi ích về kinh tế nhờ giảm được lượng
Giấy nguyên
liệu
Hồ thủy
lực
Bể lọc
bằng lưới
Bể lắng Bể chứa
trung gian
Bể chứa
chính
Bộ phận
lọc cát
Bể phân
phối
Hệ thống
xeo giấy Lu hấp Lu sấy
Hệ thống
cung cấp hơi
Máy cuốn
giấy
Sản phẩm
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 82
chất thải đổ vào bãi chôn lấp, tái sử dụng nguồn lợi sẵn có, giảm tác động đến rừng
do hạn chế việc khai thác gỗ làm giấy và giảm năng lượng tiêu thụ để sản xuất giấy.
Sản phẩm sau khi tái chế là loại giấy bồi với chỉ tiêu chuẩn định lượng giấy là
400 g/cm2. Giấy thành phẩm được dùng làm thùng carton mới, một phần cung cấp
làm thùng chứa sản phẩm của nhà máy tái chế thủy tinh và phần còn lại cung cấp cho
các cơ sở in ấn.
Diện tích đất cần đầu tư cho các khu chính trong nhà máy gồm:
- Kho chứa giấy: 200 m2
- Khu sản xuất chính: 1000 m2
- Khu vực cấp nhiệt cho lu sấy 200 m2
- Khu vực chứa sản phẩm: 500 m2
- Khu vực xử lý nước thải sơ bộ: 300 m2
- Kho chứa phụ tùng thiết bị: 100 m2
Giấy sau khi phân loại, đóng thành kiện được vận chuyển đến kho chứa, loại
giấy chủ yếu được dùng là giấy thùng carton và giấy báo. Giấy được công nhân đưa
vào hồ đánh thủy lực. Hồ thủy lực được làm bằng bê tông cốt thép, dạng hình khối
trụ tròn. Phía trên có mô tơ điện gắn với cánh quạt dưới đáy hồ. Với 2 dây chuyền
sản xuất hiện cơ sở có 2 hồ tạo bột giấy.
Giấy nguyên liệu cho vào hồ cùng với nước, mô tơ tạo chuyển động tròn cho
cánh quạt phía dưới và bắt đầu quá trình đánh tạo bột bên trong hồ. Sau quá trình
đánh tạo bột, trong hồ sẽ phân làm 2 tầng, tầng trên bao gồm rác của các loại băng
keo, dây nilon, bao nilon, các thành phần nhẹ không lắng được… phần này được vớt
ra đem đổ vào cuối ngày. Tầng dưới là bột giấy, phần cần thiết cho các quá trình tiếp
theo, phần này sẽ được bơm qua bể lọc.
Bể lọc được đặt cao phía trên khoảng 5m, dạng khối hình chữ nhật dài 4m,
cao 1,2m, rộng 1,5m, bên trong bể được phân rãnh như hình chữ S, trên mép thành
phía trước có gắn máng lọc lưới dài 3m.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 83
Bột từ hồ thủy lực được bơm bể lọc, tại đây bột theo rãnh hướng dòng chảy
qua máng lọc. Máng lọc có kích thước ngang 1m, dài 3m được đặt nghiêng 1 góc 45
độ theo hướng chảy từ trên xuống. Trong quá trình chảy vào bể lắng, rác còn sót lại,
phần hạt bột lớn sẽ được giữ lại nhờ màng lưới của máng lọc. Màng lưới được thiết
kế sao cho khoảng cách các lỗ lưới giữ lại được rác, các thành phần bột không đạt
tiêu chuẩn và chỉ cho cho qua các hạt bột đạt yêu cầu. Rác được thu lại bằng máng
thu đặt cuối máng lọc. Bột giấy sau khi qua được lưới lọc tiếp tục chảy vào mương
thu dẫn qua bể lắng đặt phía dưới.
Tại bể lắng, được thiết kế tổng thể dạng khối hình chữ nhật nhưng thành bể
được bo tròn theo từng ngăn phù hợp khi đánh bột. Bể lắng có 3 ngăn, các cửa thông
của 3 ngăn được sắp xếp theo hình zic zắc làm tăng khả năng lắng cho bột, bên trong
mỗi ngăn đều gắn cánh khuấy. Nguyên tắc hoạt động của bể khá đặc biệt, được gọi là
bể lắng nhưng giống bể tuyển nổi hơn. Bột theo mương dẫn qua bể, một lần nữa bột
được cánh khuấy đánh tan, phần không đạt chất lượng hay rác còn dính lại sẽ nổi lên
trên, phần này được vớt ra bỏ, phần còn lại gọi là bột chín chìm xuống dưới. Ở dưới
đáy bể lắng có hệ thống bơm lấy bột cho qua bể trung gian.
Bể trung gian được dùng cho các công đoạn sản xuất giấy mà cần phải sử
dụng đến hóa chất hay phụ liệu thêm vào, việc pha trộn hóa chất sẽ được thực hiện ở
bể này.
Bể chứa có nhiệm vụ lưu trữ, điều hòa lượng bột để cung cấp cho quá trình
sản xuất, mỗi máy xeo có một bể chứa riêng, tổng cộng có 6 bể chứa. Bể chứa có
dạng hình khối trụ tròn, đường kính khoảng 2m, cao gần 4m, bên trong mỗi bể chứa
đều có gắn bộ phận khuấy trộn và hệ thống ống dẫn cùng với máy bơm, bể được làm
bằng bê tong cốt thép.
Bột phải được trộn đều trước khi bơm qua bể phân phối phải tránh tình trạng
bột bị đóng cục hay đóng thành đống dưới đáy bể gây tắt nghẽn đường ống dẫn.
Ngoài việc khuấy trộn trước khi bơm bể chứa còn có hệ thống hỗ trợ bơm khi bị
nghẹt. Hệ thống có đường ống gắn liền với đường ống dẫn, dùng bơm khí để tạo áp
lực đẩy bột khi bị nghẹt.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 84
Hệ thống ống dẫn được nối lại với nhau theo 3 bể sử dụng 1 bơm hút, ống
được đặt thẳng từ trên xuống cắp sát thành bể cách đáy 0,5m. Tại mỗi bể đều có gắn
van, các bể không hoạt động đồng thời. Ngoài các bộ phận trên, theo cụm bể chứa
còn có hệ thống lọc cát. Cát sẽ làm bột giấy mất khả năng kết dính khi qua máy xeo
làm sản phẩm tạo ra kém chất lượng, giảm năng suất và thất thoát nguyên liệu.
Sau khi qua lọc cát, bột được dẫn qua bể phân phối, bể được đặt cao phía trên
để tạo áp lực tự chảy đưa bột đến các lu sấy. Bể có kích thước dài 2m, cao 1m, rộng
1m.
Đây là giai đoạn quyết định của quá trình sản xuất. Sử dụng hệ thống xeo giấy
gồm 6 lu xeo tương ứng với 6 bể tiếp xúc, các trục xoay lớn nhỏ và một màng xeo.
Nguyên tắc hoạt động của hệ thống máy xeo khá phức tạp, giấy sản phẩm ra tốt còn
phụ thuộc vào người đứng máy. Bột từ bể phân phối theo ống dẫn vào 6 bể tiếp xúc,
khi hoạt động các lu xeo sẽ quay, lúc quay bột giấy từ bể phân phối sẽ bám vào lu,
khi lu quay tới màng xeo bột giấy bám vào màng xeo, theo màng xeo bột chuyển tới
bộ phận trục ép trước khi qua hệ thống hấp. Khi hoạt động cả 6 lu xeo hoạt động
cùng lúc, độ dày của giấy phụ thuộc vào các lu xeo này, khi ta giảm 1 lu thì độ dày
giấy làm ra sẽ giảm.
Hệ thống hấp có nhiệm vụ làm bột giấy mất nước tạo độ dai và mịn cho giấy
trước khi qua sấy. Hệ thống có một lu hấp lớn và các trục ép. Lu lớn có đường kính
khoảng 2m bên trong rỗng để chứa hơi nóng lấy từ ống dẫn của lò hơi. Hệ thống dình
liền với máy xeo, bột sau khi bám vào màng xeo sẽ được chuyển tới vị trí tách màng.
Tại đây bột sẽ được chuyển từ màng xeo sang màng hấp, bột giấy được hấp tách
nước trước khi tiếp xúc với lu hấp. Sau khi qua lu hấp bột giấy đã chuyển thành giấy
nhưng chưa đủ độ dai và cứng. Nhiệt độ lại lu sấy lớn hơn 1000C.
Hệ thống sấy gồm 3 lu sấy có kích thước giống như lu hấp. Giấy hình thành từ
quá trình hấp được chuyển qua các lu sấy nhằm tăng độ dai và mịn. Gọi là bộ phận
sấy nhưng thật ra đây chỉ là công đoạn của quá trình hấp, nếu ta thiết kế một lần có 4
lu hấp của hệ thống hấp thì giấy ra cũng giống như hệ thống này. Nhưng vì diện tích
sản xuất không đủ khi thiết kế được tách ra làm 2 hệ thống. Mặt khác, tách làm 2 hệ
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 85
thống sẽ dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh nhiệt độ của các lu sấy khi mà hệ thống
hấp không đạt yêu cầu. Nhiệt độ của các lu sấy đều được cung cấp từ lò hơi.
Sau khi sấy xong giấy đã đạt tiêu chuẩn và được chuyển qua máy cuốn thành
cuộn. Máy cuốn giấy được thiết kế liền với hệ thống sấy.
Lò hơi có nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình sản xuất giấy. Sử dụng lò
đốt bằng dầu FO. Lò được thiết kế khá hoàn chỉnh bao gồm:
- Lò chính dạng hình khối tròn đường kính 1,5m, dài 4m
- Bộ phận xử lý không khí và thu hồi bụi
- Bộ phận xử lý nước trước khi sử dụng
- Hệ thống ống dẫn
Lò được đặt trong một khu vực riêng cách xa bộ phận sản xuất, hơi sau khi
hình thành được dẫn qua hệ thống ống dẫn cặp sát tường cách mái nhà máy 2m đến
vị trí các lu hấp và sấy.
7.3.2. Tái chế nhựa
Với khả năng thay thế các sản phẩm từ giấy và kim loại cao các sản phẩm như
ngày nay được sử dụng rất nhiều trong cuộc sống. Sản phẩm nhựa đa dạng về hình
dáng, nhẹ dễ vận chuyển có thể chứa dụng nhiều dạng vật chất. Ngoài ra, thành phần
nilon cũng chiếm tỉ lệ lớn trong thành phần chất thải rắn. Như vậy, thu hồi và tái chế
nhựa, nilon sẽ giảm đáng kể thể tích ô chôn lấp CTR.
Sản phẩm sau tái chế là các bao tải nilon cung cấp cho nhà máy làm phân
compost để chứa sản phẩm cung cấp cho thị trường, ngoài ra còn tạo ra các sản phẩm
khác như bao bì nilon, tấm trải bằng nhựa, thùng, thau, rổ, hộp….
Diện tích sơ bộ cần đầu tư cho nhà máy tái chế nhựa:
- Khu chứa nguyên liệu: 300m2
- Khu vực rửa phơi bao nilon: 300 m2
- Khu tạo sợi nhựa: 300 m2
- Khu tạo bao nilon: 200 m2
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 86
- Khu tạo các mặt hàng sản phẩm khác: 500 m2
- Khu chứa thành phẩm: 200 m2
- Kho chứa vật tư thiết bị: 50 m2
Sau khi phân loại, phế liệu được đem rửa hay giặt tùy theo độ nhiễm bẩn của
nguyên liệu. Nước được dùng là nước giếng, nước sau sử dụng thải bỏ vào đường
nước sinh hoạt không tuần hoàn tái sinh lại. Sau đó, đem phơi khô và xay bằng máy
nghiền. Sau khi xay được đem sấy khô để tránh hiện tượng còn nước cản trở quá
trình kết dính trong quá trình nấu tạo sợi sau cùng.
Sợi nhựa tạo ra từ công đoạn 1 được cắt nhỏ bằng máy nghiền với kích thước
bằng hạt lựu. Sau đó, hạt nhựa được đem pha hóa chất. Quá trình pha hóa chất như
sau: 1 thùng hạt nhựa + 1 ca bột màu + 1 ca bột tẩy + 1 nắm bột chống cháy + 1 ca
chất hóa dẻo. Khi hạt nhựa được sấy khô đến nhiệt độ khoảng 60 – 700C thì được
đem vào máng chứa của thiết bị tạo ống. Dưới sức nóng, tốc độ quay và ép của máy
thì hạt nhựa được nấu chảy ra ở dạng sệt. Sau đó được đẩy ra ngoài qua một ống có
thổi khí gọi là ống thổi tạo ống. Tùy theo yêu cầu sản xuất của khách hàng mà người
quản lý sẽ điều chỉnh lại miệng ống thổi khí, như thế có thể tao ra được nhiều sản
phẩm khác nhau từ một máy.
Để giảm nhiệt độ và định hình sản phẩm người ta cho sản phẩm mới tạo qua
một máng chứa nước lạnh. Nguồn nước được lấy từ nước giếng và máng có đường
tuần hoàn nước xuống hầm chứa nước đặt dưới sàn nhà. Sản phẩm được chạy qua
máy in tạo chữ tạo hoa văn cho sản phẩm hay máy keo dán nhãn hiệu sản phẩm.
Hình 7.2 Dây chuyền công nghệ tạo nhựa cứng.
Sau khi
phân loại
Rửa hay
giặt lại
Phơi khô Xay Sấy
Nấu lại và
tạo sợi
Xay tạo
hạt hựa
Pha màu,
hóa chất
Sấy khô
đến 60-700 Tạo ống
Máy ép
kéo
Máy in
chữ
Sản phẩm
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 87
Hình 7.3 Dây chuyền công nghệ chế tạo bao nilon cung cấp cho nhà máy làm phân
compost.
Xào hạt keo là một trong những công đoạn được xem là quan trọng nhất trong
dây chuyền sản xuất. Thùng xào có diện tích rộng 0,6m, dài 1m, cao 1m, được làm
bằng inox, có 4 chân. Phía dưới đáy thùng có đặt 2 bếp lò để tạo độ nóng khi xào,
bên trong thùng là giàn trục hình xoắn có nhiệm vụ đảo đều hạt keo trong lúc xào.
Bên hông được gắn hệ thống quay gồm 1 moto điện, bánh xe và dây chuyền động.
Thùng không nằm gắn liền hệ thống máy sản xuất dây sau khi đủ độ dẻo sẽ ngưng
máy và múc keo qua dây chuyền sản xuất.
Thùng xào hạt keo được vận hành từng mẻ khoảng 100kg cho một lần xào.
Khởi động máy thì moto sẽ quay chuyền chuyển động quay đến giàn trục làm giàn
trục quay theo. Trong quá trình quay, hạt keo sẽ được đảo đều cùng với hơi nóng của
2 bếp lò bên dưới sẽ làm cho bột màu, dầu cùng với hạt keo dính thấm vào nhau làm
cho hạt keo dẻo hơn trước khi qua công đoạn tạo sợi.
Bình ó dạng hình phễu là nơi đựng hạt keo sau khi xào. Bình có nhiệm vụ
phân phối hạt keo đều vào trong thanh nung. Một bình ó chứa tối đa 12kg hạt keo.
Hạt nhựa
trắng
Pha màu,
dầu carol
Thùng xào
60-700
Bình ó
kéo
Đầu máy
đốt keo
Đầu ép
keo
Thùng nước
làm nguội Giàn tách sợi Giàn tạo sợi
Hệ thống
kéo sợi
Hệ thống
cuộn sợi
Đan lưới, cắt, in,
may
Sản phẩm
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 88
Bình được gắn liền với đầu máy kéo dây. Do thùng xào và bình ó nằm rời nhau lúc
hạt keo chín công nhân phải dùng dụng cụ để đưa hạt keo qua bình ó, gây bất tiện khi
lấy hạt keo tron lúc thùng xào đang hoạt động.
Đầu máy đổ keo dạng khối hình chữ nhật dài 1,5m kích thước 20cm × 20cm,
có nhiệm vụ nung chảy hạt keo và trộn đều đưa nhựa keo đến đầu ép dây. Nhiệt độ
bên trong được điều chỉnh bằng hệ thống tạo nhiệt tự động. Độ mịn của dây tùy
thuộc rất nhiều vào hệ thống này, hệ thống gồm 4 máy tạo nhiệt. Hạt keo được nấu
chín thành nhựa nóng chảy nhờ lực quay của trục xoắn trong đầu máy đốt keo làm
nhựa keo trôi theo rãnh xoắn ốc tới đầu ép nhựa. Tại đây, cũng chính áp lực đẩy của
thanh sẽ dồn nén nhựa lại thành khối trong đầu ép tạo thành lực ép đẩy nhựa xuống
lưới tạo màng, sau khi ra khỏi lưới nhựa sẽ tạo thành màng nhựa có bề rộng là 0,3m.
Sau khi ra khỏi đầu ép màng nhựa tiếp xúc ngay với nước làm mát để tạo nhiệt độ ổn
định cho màng trước khi kéo. Nước được chứa trong một hồ có chiều cao 0,6m, rộng
0,5m, dài 0,7m. Nước vào hồ được cung cấp từ bồn chứa phía trên, nước sẽ chảy liên
tục xuống hồ làm trong hồ luôn có nước sạch. Màng nhựa sau khi được làm nguội
bắt đầu vào công đoạn kéo thành sợi, trước khi qua giàn tạo sợi màng nhựa đi qua bộ
phận rọc màng lớn thành 3 màng nhỏ đều nhau rồi trượt qua các ống hình trụ và một
tấm phẳng dài nhằm tạo độ căng và độ dày cho sợi sau khi thành phẩm.
Giàn tạo sợi là hệ thống gồm 5 ống tròn có nhiệm vụ trước tiên là kéo, gấp 3
màng nhỏ thành 5 sợi có kích thước cố định trước khi qua bộ phận cuốn dây. Đây là,
công đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất, hệ thống gồm 6 ống cuộn xếp song song
có nhiệm vụ kéo các màng nhựa đã được cố định vá quấn lại thành cuộn. Hệ thống
có 6 ống cuộn ,trong đó có 5 ống lấy dây trực tiếp từ giàn tạo sợi, ống còn lại có
nhiệm vụ cuốn dây. Sản phẩm nhựa dạng sợi được tiếp tục cho qu máy đan tự động
tạo thành những tấm nilon lớn, kể đến sẽ chuyển qua máy cắt và may lại tạo bao
nilon hoàn chỉnh. Cuối cùng, được đưa qua máy in tạo nhãn bao sản phẩm.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 89
7.3.3. Tái Chế Thủy Tinh
Hình 7.4 Dây chuyền tái chế thủy tinh.
Đối với thủy tinh dạng chai sau khi cân nhập kho được đem rửa sơ đối với
những chai rất dơ. Những chai dơ ít không cần rửa vì ở nhiệt độ cao những chất này
bị đốt cháy thành khói nên không gây ảnh hưởng. Sau đó, chai thủy tinh được công
nhân đập nhỏ với kích thước khoảng 5cm2 hay thấp hơn bằng một ống sắt nhỏ. Thủy
tinh được bỏ vào lò nấu bằng máng xúc và nấu chảy bằng dầu DO ở dạng phun
sương (lượng dầu dùng trên 2000 l/ngày) bởi một béc dầu với nhiệt độ lò lên tới
12000C. Thủy tinh sau khi nóng chảy được chứa tại bụng lò. Tại đây thủy tinh đạt
chất lượng, sạch sẽ lắng xuống dưới còn những thành phần dơ hay thủy tinh kém
chất lượng sẽ nổi lên bề mặt ở dạng bọt hay xỉ thủy tinh. Với nhiệt độ cao và được
đốt nóng liên tục nên thành phần bọt và xỉ ở phía trên theo thời gian sẽ chuyển thành
khí bay hơi hoặc sẽ được lấy ra vào thời gian bảo trì máy móc nhà xưởng.
Thủy tinh nóng chảy được vích ra từ miệng nồi nhờ vào cây vích có đầu cầm
làm bằng đất. Khối tích của quả cầu được làm tương đương với khối tích của sản
phẩm tạo thành. Sau đó, được người thợ định khối lượng dùng kéo cắt theo một vạch
Kho tiếp
nhận
Rửa, đập
nhỏ
Lò nấu Định khối
lượng
Dầu FO
Định hình
Gỡ khuôn
Hấp giải
nhiệt
Giảm nhiệt
tự nhiên Lưu kho
Máy cấp
khí
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 90
mức định sẵn trong khuôn và bơm hơi từ dưới lên để tạo một bọc khí giữa long thủy
tinh. Theo vòng xoay của đĩa băng chuyền, sản phẩm được chuyển qua công đoạn
tạo hình. Tại đây người công nhân tiếp tục bơm khí từ trên xuống với một áp lực cao
để tạo độ rỗng trong long sản phẩm.
Sau khi định hình, sản phẩm được gỡ khuôn bằng cách tách đôi khuôn. Sau
khi sản phẩm được lấy ra khỏi khuôn, người công nhân thoa một lớp dầu dừa vào
đáy khuôn nơi có mặt lồi để in chữ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lấy sản
phẩm ra khỏi khuôn của sản phẩm tiếp theo. Sản phẩm tiếp tục được vận chuyển
sang lò hấp giảm nhiệt để tránh sự giảm nhiệt đột ngột gây hiện tượng nứt hay bể sản
phẩm.
Lò hấp dùng nhiệt sinh ra từ quá trình đốt dầu DO ở dạng phun sương, nhiệt
độ của dầu là 8000C. Tùy theo mặt hàng sản xuất lớn hay nhỏ mà thời gian làm đầy
một khay trong lò hấp nhiệt là nhanh hay chậm. Trung bình thời gian lưu trong lò
hấp nhiệt là 30phút, sau đó sản phẩm được kéo ra khỏi lò bằng ròng rọc ở cuối lò hấp
lúc này nhiệt độ sản phẩm còn 50 – 600C. Sau khi ra khỏi lò hấp, sản phẩm được
chuyển sang giỏ cần xé bằng sắt để hạ nhiệt độ tự nhiên, sau đó được vận chuyển qua
lưu kho.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 91
7.4. Thiết kế nhà máy làm phân Compost
Quá trình làm compost sẽ được áp dụng cho loại rác hữu cơ sau khi đã được
phân loại. Nhà máy sản xuất phân compost sẽ được xây dựng trong Khu Liên Hợp
Xử Lý CTR.
Công nghệ ủ hiếu khí (làm phân compost) dựa vào sự hoạt động của các vi
khuẩn hiếu khí trong điều kiện được cung cấp đầy đủ oxy. Các vi sinh vật tham gia
vào quá trình này thường có sẵn trong thành phần rác thô, chúng thực hiện quá trình
oxy hóa các chất hữu cơ trong rác thành CO2, H2O, nhiệt và compost, sản phẩm cuối
cùng có thể sử dụng làm phân bón cho nông nghiệp và cải tạo đất, sạch đối với môi
trường.
Ưu điểm: Đơn giản, dễ làm, vốn đầu tư vừa phải, ít ảnh hưởng đến môi trường
so với phương pháp kỵ khí.
Nhược điểm: Cần nhiều thời gian để tạo ra sản phẩm
Công nghệ ủ kỵ khí: phân hủy kỵ khí là quá trình phân hủy chất hữu cơ diễn
ra trong điều kiện không có oxy.Các sản phẩm cuối cùng chủ yếu là CO2, CH4, NH3,
H2S, và phần chất hữu cơ không phân hủy. Trong đó, CO2 và CH4 chiếm 99% tổng
lượng khí sinh ra. So với ủ hiếu khí thì công nghệ này có một số mặt hạn chế như:
thời gian ủ lâu kéo dài 4÷12 tháng, các vi khuẩn gây bệnh luôn tồn tại cùng quá trình
phân hủy do nhiệt độ phân hủy thấp, các khí sinh ra có mùi hôi khó chịu.
Ưu điểm: Tận dụng được khí mêtan làm nhiên liệu
Nhược điểm: Quy trình phức tạp đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, khó vận
hành, nếu muốn tận dụng được khí metan làm nhiên liệu phải đầu tư thêm hệ thống
thu khí và máy phát điện.
Cả hai phương pháp chế biến compost và phân hủy kỵ khí tạo biogas đều có
ưu và nhược điểm riêng, sản phẩm sinh ra hoàn toàn phục vụ cho các mục đích khác
nhau nên theo mục đích tái sử dụng tối đa chất thải rắn nhưng ít gây ảnh hưởng tới
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 92
môi trường nên trong phần này phương pháp được lựa chọn là phương pháp ủ hiếu
khí.
Các hạng mục công trình của nhà máy phân làm phân compost:
- Khu tiếp nhận rác
- Phân loại băng chuyền bằng tay
- Khu vực lưu trữ vật liệu phối trộn
- Khu vực phối trộn vật liệu
- Hệ thống hầm ủ
- Khu vực ủ chín và ổn định mùn compost
- Hệ thống tách kim loại
Hình 7.5 Sơ đồ quy trình sản xuất compost.
CTRSH
Thu gom
Vận chuyển
Phân loại
Ủ hiếu khí
Đảo trộn
Ủ chín
S. Phân loại
Mùn hữu cơ
Phân hữu cơ
Thu hồi tái chế
Đốt và chôn lấp
Thêm nguyên liệu
Độ ẩm, đảo trộn
Độ ẩm, t0, chế phẩm
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 93
Toàn bộ hệ thống sản xuất Compost chia làm 4 giai đoạn:
- Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu
- Giai đoạn lên men CTR hữu cơ
- Giai đoạn ủ chín và ổn định mùn compost
- Giai đoạn tinh chế và đóng bao thành phẩm phân compost.
7.4.1. Giai đoạn chuẩn bị nguyên liệu
CTR hữu cơ sau khi phân loại tập trung sẽ được chuyển đến máy cắt đến kích
cỡ 3÷50 mm (Diệu, 2008). Giai đoạn này được thực hiện trong khu vực trạm phân
loại tập trung trước khi được xe xúc chuyển rác qua khu ủ phân compost.
Do CTR hữu cơ (thường là các loại chất thải có thành phần từ nguồn gốc thực
phẩm) có độ ẩm cũng như tỷ lệ chất dinh dưỡng (C/N) chưa đạt đến mức độ như
mong muốn nên thường phải tiến hành phối trộn thêm với các loại vật liệu khác
nhằm đạt tỷ lệ C/N như mong muốn trước khi chuyển qua giai đoạn ủ hiếu khí.
Toàn bộ khu vực tập kết, phân loại và chuẩn bị chất thải đều được bố trí trong
nhà có mái che nhằm tránh sự xâm nhập của nước nước mưa làm ảnh hưởng đến độ
ẩm của chất thải.
Nguyên liệu sau khi đã hoàn tất khâu chuẩn bị được các xe xúc vận chuyển
qua khu ủ compost. Tại đây, một giai đoạn mới sẽ bắt đầu và đây được xem là một
trong những giai đoạn quan trọng nhất quyết định thành công của sản phẩm compost
sau này. Đó là giai đoạn ủ lên men hiếu khí.
7.4.2. Giai đoạn lên men
Đây là một giai đoạn quan trọng nhất của toàn bộ dây chuyền sản xuất
compost. Qua tài liệu tham khảo và thực tế một số nhà máy compost đã và đang hoạt
động tại Việt Nam. Có 2 công nghệ được đề xuất: (1) ủ hiếu khí bằng thùng quay, (2)
ủ hiếu khí bằng hệ thống ủ luống tự nhiên hay hầm nhân tạo. Việc so sánh và lựa
chọn phương án được thực hiện dựa vào một số chỉ tiêu cơ bản về kinh tế và kỹ thuật
được trình bày trong Bảng 7.1.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 94
Bảng 7.1 So sánh một số chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật giữa 2 phương án (PA) ủ lên men
Các chỉ tiêu kinh tế -
kỹ thuật
PA 1. ủ hiếu khí bằng
thùng quay
PA 2. ủ hiếu khí không sử
dụng thùng quay
Lựa
chọn ưu
tiên
Công suất so sánh 60 tấn /ngày (mất
thời gian lấy rác ra)
60 tấn/ngày PA 2
Tiêu thụ năng lượng Cao Thấp PA 2
Thiết bị Phức tạp, có hệ thống
điều khiển tự động
Đơn giản, có hệ thống
giám sát
PA 2
Công nghệ Nhập khẩu Có thể tự xây dựng trong
nước
PA 2
Diện tích Nhỏ Lớn PA 1
Giá thành Cao Thấp PA 2
Từ bảng so sánh trên rõ ràng phương án 2 sẽ là phương án được chọn làm hệ
thống ủ phân rác cho nhà máy.
Lựa chọn hình thức cấp khí cho quá trình ủ phân compost là thổi khí cưỡng
bức.
7.4.3. Giai đoạn ủ chín và ổn định mùn Compost
Mùn compost được tạo thành từ hệ thống bể ủ được đưa đi ủ chín trong nhà
có mái che (không cần tường bao quanh). Trong giai đoạn này biện pháp được thực
hiện là đánh luống và xới đảo trộn liên tục nhờ máy đảo trộn được áp dụng làm tăng
chất lượng cho sản phẩm cuối cùng. Trong quá trình ủ chín không cho thêm chế
phẩm, không thổi khí chỉ cần đảo trộn theo chu kỳ đã quy định.
Với trục quay nằm ngang dài 5,3 m và làm việc ở độ cao 2 m, máy đảo trộn có
thể di chuyển trên các khối nguyên liệu một cách dễ dàng. Trục quay tiếp xúc với
đống rác, xới tung lên và làm cho khối rác thoáng khí nhờ các lá guồng được thiết kế
đặc biệt. Kết quả của quá trình này là rác được tự thành luống mới phía sau máy đảo
trộn. Máy được thiết kế hoạt động độc lập nhờ động cơ diesel. Máy đảo trộn được
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 95
thiết kế và chế tạo bởi công ty Menart (Bỉ) nhập về Việt Nam và được sử dụng tại
nhà máy. Các thông số kỹ thuật được trình bày trong Bảng 6.2.
Bảng 7.2 Thông số kỹ thuật của máy đảo trộn hiệu SPM 5300
Thông số máy đảo trộn SPM 5300 Đơn vị tính
Động cơ IVECO
Công suất 270 HP
Số lượng xi lanh 6
Dài 2,98 m
Rộng 7,30 m
Cao 3,60 m
Thông số máy đảo trộn SPM 5300 Đơn vị tính
Trọng lượng 9.200 kg
Đường kính guồng trộn 1,10 m
Chiều dài guồng trộn 5,30 m
Hoạt động đến độ cao 2,00 m
Số lá guồng 50
Nguồn: Menart, 2003.
Sau thời gian ủ chín khoảng 20÷22 ngày, mùn compost được chín và ổn định
hoàn toàn, sẵn sàng cho việc tinh chế và đóng bao thành phân compost.
7.4.4. Giai đoạn tinh chế và đóng bao thành phẩm phân Compost
Giai đoạn cuối của quá trình ủ phân compost là tinh chế bằng các thiết bị
chuyên dụng khác nhau. Giai đoạn này chủ yếu là sàng phân loại các thành phần có
kích thước không phù hợp tách ra khỏi hỗn hợp mùn trước khi thành compost. Ngoài
ra, việc sàng phân loại sau ủ chín và ổn định để loại bỏ các tạp chất và sơ sợi chưa
phân hủy trong quá trình ủ. Các thành phần này hầu như được đem đi chôn lấp tại
các ô chôn lấp rác hợp vệ sinh. Phần mùn còn lại được đưa đến thiết bị phân loại
bằng trọng lực để tách riêng các phần nặng (đá, sỏi, cát, thủy tinh,…) ra khỏi phần
nhẹ (mùn compost). Phần nặng tập trung lại một nơi, phần nào có thể tái sử dụng
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 96
trong mục đích san lấp mặt bằng. Phần nhẹ tiếp tục đuợc đưa qua hệ thống tách kim
loại cyclon và sau cùng đưa tới máy đóng bao thành phân compost.
Hệ thống phân loại sau ủ chín và ổn định mùn gồm có các hệ thống sau: (1) hệ
thống phân loại thô, (2) hê thống phân loại tinh, (3) hệ thống phân loại bằng từ.
Compost sau khi thành phẩm, sẽ được qua khâu kiểm tra chất lượng trước khi
cho vào lưu kho chuẩn bị bán ra thị trường.
Nghiên cứu hiện trạng và đề xuất các giải pháp quản lý CTRSH trên địa bàn quận 7
GVHD: ThS. Vũ Hải Yến
SVTH: Nguyễn Thị Kim Trâm 97
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
Hiện nay tình hình quản lý thu gom chất thải rắn trên địa bàn quận 7 từ từ đi
vào ổn định nhưng chưa chặt chẽ. Vẫn còn một số hộ dân vứt rác xuống kênh rạch
gây ô nhiễm môi trường. Điều đó cho thấy vấn đề về vệ sinh môi trường vẫn chưa
được xử lý triệt để.
Vị trí các điểm tập kết chất thải rắn chưa phù hợp, lực lượng rác dân lập thu
gom từ nguồn thải ra tới điểm hẹn quá xa. Địa hình quận 7 có nhiều hẻm nhỏ, đường
gập ghềnh khó vận chuyển, mất nhiều thời gian trong quá trình thu gom.
Các phương tiện chuyên dùng như xe ép rác đầu tư chưa đầy đủ nên thường
xuyên xảy ra tình trạng xe ép vận chuyển khối lượng chất thải rắn nhiều hơn tải trọng
của xe. Việc này làm rơi vãi chất thải rắn trên đường vận chuyển đến bãi chôn lấp,
ảnh hưởng tới môi trường và người đi đường.
KIẾN NGHỊ
Mặc dù thiết kế hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải rắn là không phân loại rác
tại nguồn nhưng việc phân loại đem lại nhiều lợi ích to lớn. Đối với nước ta hình
thức này vẫn còn mới lạ, có áp dụng thí điểm một vài nơi nhưng còn rất nhiều khó
khăn chưa giải quyết được. Chính vì vậy người dân sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi
thực hiện nếu không được sự hỗ trợ từ các nhà quản lý.
Trang bị thêm các thiết bị thu gom đúng quy cách và tuyển dụng nguồn nhân lực
đầy đủ để đáp ứng được nhu cầu sử dụng cũng như thải bỏ chất thải của người dân.
Cần có sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng nhằm tuyên truyền, giáo dục
tạo điều kiện cho mọi người hiểu rõ hơn về cách thực hiện và ý nghĩa của việc làm này.
Nhà nước nên có những chế độ hỗ trợ giúp các thành phần kinh tế khi muốn
tham gia vào việc xây dựng hệ thống.
Nhà nước cần có chính sách mới khuyến khích việc tái sử dụng chất thải
nhằm giảm thiểu chất thải tại nguồn và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường.