KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ 500 chủng xạ khuẩn trong bộ sưu tập giống của
Bảo tàng Giống chuẩn Vi sinh vật, chúng tôi đã chọn
lọc được 18 chủng có khả năng kháng Xanthomonas
oryzae pv. oryzae, 4 chủng kháng Dickyea zeae và
7 chủng kháng Pseudomonas syringae. Trong đó có
2 chủng có khả năng kháng đồng thời 3 loại vi sinh
vật kiểm định là VTCC 40895 và VTCC 41724.
Chủng VTCC 40895 sinh chất kháng khuẩn tốt nhất
trong môi trường SKS sau 6 ngày nuôi cấy. Trong
khi đó môi trường dinh dưỡng và thời gian tốt nhất
cho khả năng sinh chất kháng khuẩn của chủng
VTCC 41724 là ISP4 sau 6 ngày nuôi.
4.2. Đề nghị
Các chủng xạ khuẩn triển vọng đã được tuyển
chọn cần được nghiên cứu sâu hơn để phát triển
thành các dạng chế phẩm sinh học phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 7 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu hoạt tính kháng một số vi khuẩn gây bệnh thực vật của các chủng xạ khuẩn phân lập ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
60
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
NGHIÊN CỨU HOẠT TÍNH KHÁNG MỘT SỐ VI KHUẨN GÂY BỆNH THỰC VẬT
CỦA CÁC CHỦNG XẠ KHUẨN PHÂN LẬP Ở VIỆT NAM
Phạm Thị Huệ1, Đinh Thị Ngọc Mai1, Nguyễn Thị Vân1,
Nguyễn Hồng Minh1, Nguyễn Kim Nữ Thảo1
TÓM TẮT
Nghiên cứu được tiến hành trên 500 chủng xạ khuẩn được phân lập ở Việt Nam, hiện đang được bảo quản tại Bảo
tàng Giống chuẩn Vi sinh vật (VTCC) với mục tiêu chọn lọc được các chủng xạ khuẩn có khả năng đối kháng với
một số vi khuẩn gây bệnh thực vật. Kết quả tuyển chọn được 18 chủng có khả năng kháng Xanthomonas oryzae pv.
oryzae gây bệnh bạc lá lúa, 4 chủng kháng Dickyea zeae gây bệnh thối gốc và 7 chủng kháng Pseudomonas syringae
gây bệnh đốm lá. Đặc biệt, hai chủng Streptomyces manipurensis VTCC 40895 và Streptomyces griseus VTCC 41724
có hoạt tính đối kháng với đồng thời 3 loài vi khuẩn gây bệnh đã được nghiên cứu sâu hơn. Kết quả khảo sát
ảnh hưởng của thời gian và môi trường nuôi cấy đến khả năng sinh tổng hợp chất kháng khuẩn cho thấy chủng
VTCC 40895 sinh chất kháng khuẩn cao nhất sau 6 ngày nuôi cấy trong môi trường SKS, trong khi đó, chủng VTCC
41724 sinh chất kháng khuẩn tốt nhất trong môi trường ISP4 sau 6 ngày nuôi. Ngoài ra, các đặc tính sinh lý, sinh hóa
của hai chủng VTCC 40895 và VTCC 41724 cũng được xác định.
Từ khóa: Dickyea zeae, Pseudomonas syringae, Xanthomonas oryzae pv. oryzae, xạ khuẩn, kháng vi khuẩn gây
bệnh thực vật
Study on treating of black soldier fly feces for bio-organic fertilizer
and its impact on improving pH, soil humidity
Lam Van Ha, Ha Tu Van, Huynh Hoang Giang,
Vo Van Ai Vy, Nguyen Ha Linh, Dang Ngo Nhat Anh
Abstract
The process of treating black soldier fly feces in combination with biochar to produce bio-organic fertilizer was
carried by mixing 70% of black soldier fly feces with 30% biochar from rice husk and Bacillus subtilis, Streptomyces
sp. All of the above ingredients were mixed and semi-aerobic incubation for 21 days with temperature controlling
at (65 - 750C), humidity (50%). The final products after incubating were assessed for quality based on QCVN 01-
189:2019/BNN&PTNT for fertilizer quality. Black soldier fly feces after composting had the following qualities: pH:
7.23; OM: 57.07 (%); Nts: 2.46 (%); Humic acid: 3.79 (%); fulvic acid: 3.55 (%); K2Ots: 6.94 (%); P2O5ts: 5.34 (%) and
C/N ratio: 11.74. The heavy metals (Cd, Pb, As and Hg) and harmful microorganisms (salmonella and E.coli) were
not detected. By assessing quality of black soldier fly feces for improving pH and moisture retention on gray soil, the
experimental results showed that the black soldier fly feces when applying 6,000 kg/ha in 14 days without watering
the soil enhanced moisture retention and improved soil pH better than treated chicken and worm feces with the
same amount.
Keywords: Black soldier fly feces, bio-organic fertilizer, soil pH, soil moisture
Ngày nhận bài: 15/4/2020
Ngày phản biện: 23/4/2020
Người phản biện: PGS. TS. Hồ Quang Đức
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
1 Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh do vi sinh vật gây ra trên cây trồng là
một mối đe dọa rất lớn đối với sản xuất nông nghiệp.
Trong công tác bảo vệ thực vật hiện nay, phòng trị
bệnh bằng biện pháp hóa học là phổ biến, nhưng các
chất hóa học lại thường có hại cho con người, vật
nuôi cũng như các vi sinh vật có lợi khác, dẫn đến
nguy cơ ô nhiễm môi trường, đe dọa sức khỏe con
người và gây thiệt hại kinh tế do phát sinh chi phí
liên quan đến xử lý môi trường. Để kiểm soát được
dịch bệnh do vi sinh vật gây ra trên cây trồng, tiềm
năng sử dụng vi khuẩn, xạ khuẩn và vi nấm tự nhiên
đối kháng để thay thế hoặc bổ sung kết hợp với các
thuốc trừ sâu hóa học được đề cập đến trong nhiều
nghiên cứu (Medeiros et al., 2012).
61
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Xạ khuẩn được biết là nguồn sinh các chất có hoạt
tính sinh học lớn nhất trong số tất cả các nhóm vi
sinh vật. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh xạ khuẩn
có khả năng ức chế hiệu quả sinh trưởng của các
tác nhân gây bệnh thực vật (Evangelista-Martinez,
2014). Trong đó phải kể đến Streptomyces rochei kết
hợp với Trichoderma harzianum được sử dụng để
kiểm soát bệnh thối rễ trên cây ớt do Phytophthora sp.
(Ezziyyani et al., 2007). Streptomyces lavendulae
và Streptomyces coelicolor kháng vi khuẩn Erwinia
carotovora subsp. carotovora gây bệnh thối củ hành
(Abdallah et al., 2013). Trong nghiên cứu của Hop
và cộng tác viên (2014), Streptomyces toxytricini
được chứng minh là có khả năng ức chế 10 nòi
Xanthomonas oryzae pv. oryzae gây bệnh bạc lá lúa.
Nghiên cứu của Aeny và cộng tác viên (2018) khi sàng
lọc các chủng xạ khuẩn có khả năng kháng Dickyea
zeae gây bệnh thối gốc trên cây dứa cũng chọn lọc
được hai chủng tiềm năng là Streptomyces parvulus
và Streptomyces hygroscopicus subsp. hygroscopicus.
Triển vọng tìm kiếm các chủng xạ khuẩn và các
chất có hoạt tính sinh học do chúng sinh ra làm
tác nhân khống chế sinh học là rất lớn thông qua
quá trình sàng lọc. Nhóm nghiên cứu đã tiến hành
điều tra hoạt tính kháng một số tác nhân gây bệnh
thực vật của 500 chủng xạ khuẩn được phân lập tại
Việt Nam. Kết quả khảo sát hoạt tính kháng nấm
gây bệnh thực vật đã được nhóm nghiên cứu công
bố (Nguyễn Thị Vân và ctv., 2019; Lưu Trần Đông
và ctv., 2019). Trong bài báo này, các kết quả sàng
lọc hoạt tính đối kháng với các chủng vi khuẩn gây
bệnh thực vật gồm Xanthomonas oryzae pv. oryzae,
Dickyea zeae và Pseudomonas syringae được trình
bày. Bệnh bạc lá lúa do X. oryzae pv. oryzae được
coi là một trong những dịch bệnh phổ biến ở các
vùng trồng lúa trên thế giới và các giống lúa kháng
bệnh vẫn là giải pháp chủ yếu. D. zeae gây bệnh thối
gốc trên nhiều loài thực vật như lúa, hành, khoai
tây nhưng vẫn còn ít được quan tâm nghiên cứu.
P. syringae gây bệnh đốm lá trên nhiều loại cây như
cà chua, đậu nành, cây quả hạch và gây thiệt hại đáng
kể cho ngành trồng trọt. Bên cạnh đó, các nghiên
cứu sâu hơn về đặc điểm sinh học và ảnh hưởng của
môi trường và thời gian nuôi cấy đến khả năng sinh
chất kháng khuẩn của hai chủng xạ khuẩn tiềm năng
cũng được mô tả.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
500 chủng xạ khuẩn được sử dụng để khảo
sát hoạt tính kháng khuẩn và 03 chủng vi khuẩn
gây bệnh thực vật Xanthomonas oryzae pv. oryzae
VTCC 12268, Dickyea zeae VTCC 12262 và
Pseudomonas syringae VTCC 12250 được cung cấp
từ Bảo tàng Giống chuẩn Vi sinh vật (VTCC) - Viện
Vi sinh vật và Công nghệ Sinh học, Đại học Quốc gia
Hà Nội. Thông tin về các chủng xạ khuẩn này có thể
được tìm thấy trên trang web vtcc.imbt.vnu.edu.vn.
Các chủng xạ khuẩn này được phân lập ở Việt Nam,
chủ yếu từ các Vườn Quốc gia như Cúc Phương, Ba
Bể, Phong Nha-Kẻ Bàng, Bạch Mã, Xuân Thuỷ và
Cát Tiên.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Khảo sát hoạt tính kháng khuẩn của các
chủng xạ khuẩn bằng phương pháp khuếch tán
kháng sinh trên đĩa thạch
Các chủng xạ khuẩn được nuôi trên môi trường
thạch YS (g/L: tinh bột- 10; cao men- 2; thạch- 16)
trong 7 ngày ở 30°C. 02 chủng vi khuẩn D. zeae
VTCC 12262 và P. syringae VTCC 12250 được nuôi
trên môi trường lỏng LB (g/l: cao nấm men - 5,
pepton - 10, NaCl - 10) và 01 chủng vi khuẩn X. oryzae
pv. oryzae VTCC 12268 được nuôi trên môi trường
lỏng PSA (g/l: khoai tây - 300, 2 Na2HPO4.12H2O - 2,
Ca(NO3)2 - 0,5, pepton - 5, sucrose - 15) ở 30°C trong
24 h. Dịch nuôi vi khuẩn kiểm định được thêm vào
môi trường đã khử trùng, để nguội đến 40 - 45°C và
đổ ra đĩa petri. Sau đó, các thỏi thạch với kích thước
5 mm có xạ khuẩn được đặt lên đĩa. Với các mẫu thử
hoạt tính là dịch nuôi cấy hoặc dịch tách chiết thì
tiến hành tạo các lỗ trên đĩa thạch kiểm định bằng
ống nhựa và nhỏ 50 µl mẫu vào các lỗ. Ủ đĩa ở 30oC
trong 24 giờ. Hoạt tính kháng sinh được xác định
bằng đường kính của vòng vô khuẩn trên đĩa thạch
(Egorov, 1985).
2.2.2. Đánh giá ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy
đến khả năng sinh chất kháng khuẩn của chủng
xạ khuẩn
Chủng xạ khuẩn có hoạt tính kháng khuẩn
được nuôi cấy trong các bình tam giác 250 mL chứa
75 mL môi trường YS lỏng ở 30°C, tốc độ lắc
160 v/p. 1 mL dịch nuôi cấy được lấy ra theo ngày và
tiến hành ly tâm 7000 v/p trong 10 phút để loại bỏ
sinh khối. Dịch nuôi cấy không chứa tế bào xạ khuẩn
được sử dụng để thử hoạt tính kháng khuẩn bằng
phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch.
2.2.3. Đánh giá ảnh hưởng của môi trường nuôi
cấy đến khả năng sinh chất kháng khuẩn của chủng
xạ khuẩn
Chủng xạ khuẩn được nuôi cấy trong 5 loại môi
trường lỏng khác nhau bao gồm: YS (g/L: tinh bột- 10,
62
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
cao men- 2), SKS (g/L: tinh bột- 10, glucose- 10,
soybean meal- 10, peptone- 5, CaCO3- 3), 301 (g/L:
tinh bột- 20, glucose- 1, peptone- 3, cao thịt- 3, cao
men- 5, CaCO3- 4), ISP2 (g/L: cao malt- 10, cao
men- 4, glucose- 4), ISP4 (g/L: tinh bột- 10, NaCl- 1,
K2HPO4- 1, (NH4)2SO4- 2, MgSO4. 7H2O- 1, cao
men- 2, CaCO3- 2, trace salts solution- 1ml). Sau
6 ngày nuôi lắc ở 30°C, 160 v/p, dịch nuôi cấy (đã
loại tế bào bằng ly tâm) ở các môi trường khác
nhau được thử nghiệm hoạt tính kháng khuẩn bằng
phương pháp khuếch tán trên đĩa thạch.
2.2.4. Nghiên cứu đặc điểm sinh học của các chủng
xạ khuẩn tiềm năng
Khả năng sử dụng các nguồn cacbon khác nhau
được xác định bằng cách bổ sung 1% các loại đường
vào môi trường bao gồm (g/L) Bacto yeast nitrogen
base w/o amino acid- 6.7; Bacto casamino acid- 0.01;
K2HPO4 - 10; thạch- 15). Môi trường chứa D-glucose
được xem là đối chứng dương và môi trường không
chứa loại đường nào là đối chứng âm. Ảnh hưởng
của nhiệt độ (20, 25, 30, 37 và 45ºC) và nồng độ
muối khác nhau (NaCl 0, 3 , 5 và 7%) lên sự sinh
trưởng của chủng xạ khuẩn được xác định trên môi
trường thạch YS sau 5 ngày nuôi. Ảnh hưởng của pH
khác nhau được kiểm tra bằng cách nuôi cấy chủng
xạ khuẩn ở 30ºC trên môi trường YG (g/L: cao men-
10; glucose- 10; thạch- 15) với các nồng độ pH thay
đổi từ 3 đến 9. Khả năng sinh enzyme amylase,
protease, cellulase của chủng xạ khuẩn được kiểm
tra bằng cách bổ sung 1% cơ chất tương ứng là tinh
bột, casein và CMC vào môi trường thạch nước. Sau
5 ngày ủ ở 30ºC, đĩa nuôi cấy được nhuộm với thuốc
thử Lugol 1% để kiểm tra hoạt tính amylase, congo đỏ
0,1% để xác định hoạt tính cellulase và amido black
0,1% đối với hoạt tính protease. Khả năng phân giải
urea được quan sát qua khả năng đổi màu từ vàng
sang hồng trên môi trường gồm (g/L): KH2PO4- 10,
Na2HPO4- 9,5, cao men- 1, phenol đỏ 0,04%- 20
ml, pH 7). Khả năng hóa lỏng gelatin được kiểm tra
bằng cách cấy vạch xạ khuẩn trên ống thạch nghiêng
chứa môi trường (g/L): pepton- 5, gelatin- 100, pH 7,
sau đó ống thạch được giữ ở 4°C trong 2 giờ. Chủng
có khả năng hóa lỏng gelatin khi môi trường trong
ống có dạng lỏng (Berd, 1973).
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 6 năm 2017
đến tháng 4 năm 2020 tại Viện Vi sinh vật và Công
nghệ sinh học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Sàng lọc hoạt tính kháng vi khuẩn gây bệnh
thực vật của 500 chủng xạ khuẩn
Bằng phương pháp đặt thỏi thạch, 500 chủng xạ
khuẩn được phân lập ở Việt Nam đã được sàng lọc về
khả năng đối kháng với 3 chủng vi khuẩn gây bệnh
trên cây trồng bao gồm Xanthomonas oryzae pv.
oryzae, Dickyea zeae và Pseudomonas syringae. Kết
quả chỉ ra trên hình 1, 2 và 3 cho thấy tỷ lệ xạ khuẩn
kháng với các chủng vi khuẩn gây bệnh là rất thấp so
với tỷ lệ kháng vi nấm của các chủng xạ khuẩn này
đã được nhóm nghiên cứu công bố (Nguyễn Thị Vân
và ctv., 2019; Lưu Trần Đông và ctv., 2019). Đối với
X. oryzae pv. oryzae, chỉ có 18/500 chủng, tương ứng
3,6% xạ khuẩn có khả năng kháng. Tương tự, tỷ lệ xạ
khuẩn đối kháng với D. zeae và P. syringae tương ứng
là 0,8% (4/500 chủng) và 1,4% (7/500 chủng). Việc
sàng lọc một lượng lớn mẫu xạ khuẩn làm tăng cơ
hội tìm kiếm được các chủng kháng tiềm năng. Đây
cũng là lợi thế của nhóm nghiên cứu khi có sẵn một
bộ sưu tập giống với quy mô đáng kể.
Hình 1. Hoạt tính kháng X. oryzae pv. oryzae của một số chủng xạ khuẩn đã được sàng lọc
63
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Hình 3. Hoạt tính kháng P. syringae
của một số chủng xạ khuẩn đã được sàng lọc
Hình 2. Hoạt tính kháng D. zeae
của một số chủng xạ khuẩn đã được sàng lọc
Trong số các chủng có hoạt tính kháng với vi khuẩn
gây bệnh thực vật, đáng chú ý là chủng Streptomyces
manipurensis VTCC 40895 và Streptomyces griseus
VTCC 41724 có khả năng đối kháng với đồng thời
3 chủng vi khuẩn kiểm định. Tiếp theo là chủng
Streptomyces polymachus VTCC 40875 có hoạt tính
kháng P. syringae cao nhất với đường kính vòng
kháng khuẩn đạt 20,5 mm và chủng Streptomyces
lutosisoli VTCC 41167 có hoạt tính kháng tốt với
D. zeae với đường kính vòng kháng khuẩn đạt
11,5 mm. Đặc tính kháng nhiều vi khuẩn gây bệnh là
hiếm gặp ở xạ khuẩn, do vậy hai chủng VTCC 40895
và VTCC 41724 được chúng tôi lựa chọn để tiến
hành các nghiên cứu chi tiết về các đặc điểm sinh lý
và một số yếu tố ảnh hưởng đến sinh tổng hợp hoạt
chất kháng khuẩn.
3.2. Ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy đến khả
năng sinh chất kháng khuẩn của chủng xạ khuẩn
Ở Streptomyces, các hợp chất kháng khuẩn
thường được sản sinh ở giai đoạn sau của quá
trình sinh trưởng khi có sự thay đổi về cấu trúc tế
bào và hình thức sinh trưởng từ dạng khuẩn ty sơ
cấp sang khuẩn ty thứ cấp và hình thành bào tử
(Trương Minh Phụng và ctv., 2017). Để xác định
thời điểm sinh chất kháng khuẩn cao nhất, hai
chủng VTCC 40895 và VTCC 41724 được nuôi cấy
trong môi trường YS lỏng trong thời gian 10 ngày,
tiến hành thu mẫu hàng ngày và kiểm tra hoạt tính
đại diện với chủng kiểm định X. oryzae pv. oryzae.
Kết quả hoạt tính kháng khuẩn theo thời gian nuôi
cấy được thể hiện trong hình 4.
Hình 4. Khả năng sinh chất kháng X. oryzae pv. oryzae
của chủng VTCC 40895 và VTCC 41724 theo thời gian nuôi cấy
Cả hai chủng VTCC 40895 và VTCC 41724 đều
bắt đầu xuất hiện hoạt tính từ ngày nuôi thứ 4 và đạt
cực đại sau 6 ngày nuôi cấy. Từ ngày nuôi thứ 6, hoạt
tính kháng khuẩn giảm dần. Tuy nhiên, đến ngày
nuôi thứ 10, hoạt tính của chủng VTCC 40895 biến
mất hoàn toàn, trong khi đó chủng VTCC 41724 vẫn
giữ được 39% hoạt tính so với thời điểm đạt cực đại.
64
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
3.3. Ảnh hưởng của môi trường dinh dưỡng
đến khả năng sinh chất kháng khuẩn của chủng
xạ khuẩn
Khả năng sinh chất kháng khuẩn của hai chủng
VTCC 40895 và VTCC 41724 được khảo sát trên
5 loại môi trường dinh dưỡng được sử dụng phổ
biến cho nuôi cấy Streptomyces là YS, SKS, 301, ISP2
và ISP4. Kết quả được chỉ ra trên hình 5.
Hình 5. Khả năng sinh chất kháng X. oryzae pv. oryzae của chủng VTCC 40895
và VTCC 41724 khi nuôi cấy trong các môi trường khác nhau
Chủng VTCC 40895 có khả năng sinh chất
kháng X. oryzae pv. oryzae khi được nuôi cấy trong
môi trường YS, SKS, ISP2 và đạt cao nhất trong
môi trường SKS. Tuy nhiên, khi nuôi cấy trong môi
trường 301 và ISP4, chủng này hoàn toàn không
có khả năng sản sinh các hợp chất kháng X. oryzae
pv. oryzae. Chủng VTCC 41724 thể hiện hoạt
tính kháng X. oryzae pv. oryzae ở tất cả 5 loại môi
trường khảo sát. Trong đó, môi trường ISP4 cho kết
quả đối kháng mạnh nhất. Tiếp theo là môi trường
301, YS và thấp nhất là môi trường SKS và ISP2
(Hình 5). Kết quả trên cho thấy thành phần môi
trường ảnh hưởng đến con đường sinh tổng hợp
hoạt chất kháng khuẩn ở xạ khuẩn. Đặc biệt, môi
trường với nhiều thành phần như 301 và ISP4 khiến
quá sinh tổng hợp hoạt chất kháng X. oryzae pv.
oryzae bị dừng lại ở chủng VTCC 40895. Trong khi
đó, môi trường ISP4 với thành phần có nhiều hợp
chất vô cơ lại kích hoạt quá trình sinh tổng hợp hoạt
chất kháng X. oryzae pv. oryzae tốt nhất. Tuy nhiên,
cơ chế của sự kích thích hoặc kìm hãm này còn cần
được nghiên cứu sâu hơn.
3.4. Đặc tính sinh lý, sinh hóa của chủng xạ khuẩn
Chủng Streptomyces manipurensis VTCC 40895
được phân lập từ mẫu lá ở Vườn Quốc gia Ba Bể,
trong khi đó, chủng Streptomyces griseus VTCC
41724 được phân lập từ mẫu lá ở Vườn Quốc gia
Phong Nha - Kẻ Bàng. Hai chủng này đang được lưu
giữ tại VTCC. Các nghiên cứu về đặc tính sinh lý,
sinh hóa được thực hiện nhằm mục tiêu bổ sung cơ
sở dữ liệu cho hai chủng xạ khuẩn này, phục vụ phát
triển chế phẩm sinh học phòng trừ bệnh thực vật
sau này. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong
bảng 1.
Về khả năng đồng hóa nguồn cacbon, chủng
VTCC 40895 sinh trưởng tốt nhất trong môi trường
chứa L- arabinose, cellulose và không có khả năng
đồng hóa D- lactose, D- sorbitol, D- xylose. Chủng
VTCC 41724 có khả năng đồng hóa tất cả các nguồn
cacbon khảo sát, trong đó tốt nhất là D- xylose,
D- fructose, D- galactose, D- glucose, D- mannitol
và D- ribose. Hai chủng VTCC 40895 và VTCC 41724
đều sinh trưởng tốt ở điều kiện pH từ 7 đến 9
và không sinh trưởng trong môi trường axit. Về khả
năng chịu nhiệt, hai chủng VTCC 40895 và VTCC
41724 đều sinh trưởng tốt khi nhiệt độ nuôi cấy là
25-30°C và không sinh trưởng khi nhiệt độ nuôi cấy
tăng lên 37-45°C. Về khả năng chịu muối, chủng
VTCC 40895 sinh trưởng tối ưu ở nồng độ muối 0%
và không sinh trưởng khi nồng độ muối vượt quá
3%. Trong khi đó, chủng VTCC 41724 có khả năng
chịu muối ở nồng độ 5% và không sinh trưởng khi
nồng độ muối tăng lên đến 7%. Chủng chuẩn của loài
S. manipurensis MBRL 201T đồng hoá được các nguồn
đường bao gồm L- arabinose, D- cellobiose, fructose,
D- galactose, D- mannose, raffinose, sodium malate
và succinic acid, không đồng hoá được trehalose.
Chủng chuẩn chịu được pH 6-10, pH thích hợp nhất
65
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
là 8 (Nimaichand et al., 2012). Trong khi đó, chủng
chuẩn của loài S. griseus ISP 5236 có khả năng đồng
hoá D-glucose, D- xylose, D- mannitol, D- fructose
nhưng không có khả năng đồng hoá L- arabinose,
sucrose, i- inositol, rhamnose và raffinose (Shirling
et al., 1968). Như vậy, khả năng đồng hoá đường là
đặc tính riêng của từng chủng, không phải đặc trưng
cho hai loài S. manipurensis và S. griseus.
Bảng 1. Đặc tính sinh lý, sinh hóa của hai chủng
xạ khuẩn VTCC 40895 và VTCC 41724
Đặc
tính Điều kiện
Khả năng sinh trưởng
S. manipurensis
VTCC 40895
S. griseus
VTCC 41724
Nguồn
hydrat
cacbon
Cellulose ++++ +++
D- lactose - +
D- raffinose + ++
D- sorbitol - +
D- xylose - ++++
D- fructose + ++++
D- galactose + ++++
D- glucose ++ ++++
D- mannitol + ++++
D- ribose ++ +++
L- arabinose ++++ +
L- rhamnose + +
Melibose + +
Salicin + +
pH
5 - -
7 ++++ ++++
9 +++ ++++
Nhiệt độ
(ºC)
25 ++++ ++++
30 ++++ ++++
37 - -
45 - -
Nồng
độ muối
NaCl (%)
0 ++++ ++++
3 + ++
5 - +
7 - -
Khả năng
sinh
enzyme
Amylase + +
Cellulase + +
Protease - -
Hóa lỏng
gelatin Gelatin - -
Ghi chú: - không sinh trưởng và sinh trưởng rất yếu
so với đối chứng; + sinh trưởng yếu; ++ sinh trưởng
mức trung bình; +++ sinh trưởng tốt; ++++ sinh trưởng
rất tốt.
Kết quả kiểm tra khả năng tiết enzyme ngoại bào
của các chủng xạ khuẩn nghiên cứu cho thấy, chủng
VTCC 40895 và VTCC 41724 đều có khả năng sinh
hai enzyme ngoại bào là amylase, cellulase và không
tiết protease. Chủng VTCC 41724 có khả năng phân
giải urea, trong khi chủng VTCC 40895 không phân
giải. Ngoài ra, hai chủng này đều không có khả năng
hóa lỏng gelatin.
Khả năng kháng 3 loài vi khuẩn gây bệnh thực
vật Xanthomonas oryzae pv. oryzae, Dickyea zeae và
Pseudomonas syringae của các chủng xạ khuẩn đã
được đề cập đến trong một số nghiên cứu. Trong công
bố của Hwang và cộng tác viên (2001), Streptomyces
humidus sinh ra hợp chất phenylacetic acid và sodium
phenylacetate có hoạt tính kháng Saccharomyces
cerevisiae và Pseudomonas syringae pv. syringae.
Muangham và cộng tác viên (2014) đã chứng minh
rằng Streptomyces bungoensis TY68-3 có khả năng
ức chế sinh trưởng của Xanthomonas oryzae pv.
oryzae và Xanthomonas oryzae pv. oryzicola. Nghiên
cứu của Aeny và cộng tác viên (2018) cũng xác định
được khả năng kháng Dickyea zeae gây bệnh thối gốc
trên cây dứa của hai chủng Streptomyces parvulus
và Streptomyces hygroscopicus subsp. hygroscopicus.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, Streptomyces
manipurensis và Streptomyces griseus có khả năng
kháng đồng thời cả 3 loài vi khuẩn gây bệnh thực
vật. Theo công bố mới nhất của Tamreihao và cộng
tác viên (2019), Streptomyces manipurensis MBRL
201 có khả năng kháng 6 loài nấm gây bệnh trên
lúa và sản sinh các enzyme phân hủy thành tế bào
nấm như chitinase, β-1-4-glucanase, lipase, protease
và chất bay hơi như ammonia. Streptomyces griseus
cũng được Nguyen và cộng tác viên (2012) chứng
minh khả năng kháng hiệu quả Phytophthora capsici
gây thối rễ trên cây tiêu. Khả năng kháng đồng thời
3 loài vi khuẩn gây bệnh thực vật của Streptomyces
manipurensis và Streptomyces griseus trong nghiên
cứu của chúng tôi là những kết quả mới thu nhận
từ hai loài xạ khuẩn này. Các nghiên cứu sâu hơn
về hợp chất kháng khuẩn và hiệu quả giảm bệnh ở
quy mô đồng ruộng cần thiết được tiến hành để phát
triển chế phẩm vi sinh phòng trừ bệnh thực vật từ
hai loài xạ khuẩn tiềm năng này.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
4.1. Kết luận
Từ 500 chủng xạ khuẩn trong bộ sưu tập giống của
Bảo tàng Giống chuẩn Vi sinh vật, chúng tôi đã chọn
lọc được 18 chủng có khả năng kháng Xanthomonas
oryzae pv. oryzae, 4 chủng kháng Dickyea zeae và
7 chủng kháng Pseudomonas syringae. Trong đó có
2 chủng có khả năng kháng đồng thời 3 loại vi sinh
66
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
vật kiểm định là VTCC 40895 và VTCC 41724.
Chủng VTCC 40895 sinh chất kháng khuẩn tốt nhất
trong môi trường SKS sau 6 ngày nuôi cấy. Trong
khi đó môi trường dinh dưỡng và thời gian tốt nhất
cho khả năng sinh chất kháng khuẩn của chủng
VTCC 41724 là ISP4 sau 6 ngày nuôi.
4.2. Đề nghị
Các chủng xạ khuẩn triển vọng đã được tuyển
chọn cần được nghiên cứu sâu hơn để phát triển
thành các dạng chế phẩm sinh học phục vụ cho sản
xuất nông nghiệp.
LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Nhiệm vụ điều
tra cơ bản năm 2019 “Điều tra tiềm năng hoạt tính
sinh học của nguồn gen xạ khuẩn của Việt Nam
nhằm khai thác phục vụ nền nông nghiệp hữu cơ:
điều tra trên 200 chủng xạ khuẩn, hoàn thiện cơ
sở dữ liệu online và xây dựng hồ sơ của 5 chủng xạ
khuẩn có tiềm năng”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lưu Trần Đông, Vũ Sơn Tùng, Nguyễn Thị Vân, Đinh
Thị Ngọc Mai, Nguyễn Hồng Minh, Nguyễn Kim
Nữ Thảo, 2019. Sàng lọc các chủng kháng nấm gây
bệnh thực vật và mô tả chi tiết chủng Streptomyces
hydrogenans VTCC 4117 có hoạt tính cao. Tạp chí
Khoa học và công nghệ nhiệt đới, 18: 70-81.
Trương Minh Phụng, Lê Thị Thúy Hằng, Phạm Thị
Hảo, Nguyễn Thị Huỳnh My, Nguyễn Hoàng
Chương, 2017. Nghiên cứu hoạt tính kháng khuẩn
của các chủng xạ khuẩn nội sinh trong cây Trinh nữ
hoàng cung (Crinum latifolium). Tạp chí Phát triển
KH&CN, 20: 69-77.
Nguyễn Thị Vân, Đinh Thị Ngọc Mai, Lê Thị Hoàng
Yến, Nguyễn Hồng Minh, Nguyễn Kim Nữ Thảo,
2019. Khảo sát khả năng đối kháng với bốn loại nấm
gây bệnh trên thực vật của xạ khuẩn được phân lập
từ Vườn quốc gia Cúc Phương và Ba Bể. Tạp chí
Công nghệ sinh học, 17 (1): 1-9.
Abdallah M.E., Haroun S.A., Gomah A.A., El-Naggar
N.E. and Badr H.H., 2013. Application of actinomycetes
as biocontrol agents in the management of onion
bacterial rot disease. Archives of Phytophathology
and Plant Protection, 46 (15): 1797-1808.
Aeny T.N., Prasetyo J., Suharjo R., Dirmawati S.R.,
Efri, Niswati A., 2018. Isolation and identification of
actinomycetes potential as the antagonist of Dickeya
zeae pineapple soft rot in Lampung, Indonesia.
Biodiversitas, 19: 2052-2058.
Berd D., 1973. Laboratory identification of clinically
important aerobic actinomycetes. Appl. Microbiol.,
25(4): 665-68.
Egorov N.S., 1985. In: Antibiotic, a Scientific Approach
(N. s. EGOROV. Editor), English Edition. MIR
Publisher, Moscow.
Evangelista-Martinez Z., 2014. Isolation and
characterization of soil Streptomyces species as
potential biological control agents against fungal
plant pathogens. World J. Microbiol. Biotechnol., 30:
1639-1647.
Ezziyyani M., Requena M.E., Egea-Gilabert C.
and Candela M.E., 2007. Biological control of
Phytophthora root rot of pepper using Trichoderma
harzianum and Streptomyces rochei in combination.
J. Phytopathol., 155: 342-349.
Hop D.V., Hoa P.T.P., Quang N.D., Ton P.H., Ha T.H.,
Hung N.V., Van N.T., Hai T.V., Quy N.T.K., Dao
N.T.A. and Thom V.T., 2014. Biological Control
of Xanthomonas oryzae pv. oryzae Causing Rice
Bacterial Blight Disease by Streptomyces toxytricini
VN08-A-12, Isolated from Soil and Leaf-litter Samples
in Vietnam. Biocontrol Science, 19 (3): 103-111.
Hwang B.K., Lim S.W., Kim B.S., Lee J.Y., Moon
S.S., 2001. Isolation and in vivo and in vitro
antifungal activity of phenylacetic acid and sodium
phenylacetate from Streptomyces humidus. Appl.
Environ. Microbiol., 67: 3739-3745.
Medeiros F.H.V., Martins S.J., Zucchi T.D., Melo I.S.,
Batista L.R., Machado J.C., 2012. Biological control
of mycotoxin-producing molds. Ciênc. Agrotec., 36:
483-497.
Muangham S., Pathom-aree W., Duangmal K., 2014.
Melanogenic actinomycetes from rhizosphere soil
-antagonistic activity against Xanthomonas oryzae
and plant-growth-promoting traits. Can J Microbiol,
61: 164-170.
Nimaichand S., Zhu W.Y., Yang L.L., Ming H.,
Nie G. X., Tang S. K., Ningthoujam D. S. and
Li W.J., 2012. Streptomyces manipurensis sp. nov.,
a novel actinomycete isolated from a limestone
deposit site in Manipur, India. Antonie van
Leeuwenhoek, 102: 133-39.
Nguyen X.H., Naing K.W., Lee Y.S., Tindwa H.,
Lee G.H., Jeong B.K., Ro H.M., Kim S.J., Jung
W.J. and Kim K.Y., 2012. Biocontrol Potential of
Streptomyces griseus H7602 Against Root Rot Disease
(Phytophthora capsici) in Pepper. Plant Pathol. J., 28
(3): 282-289.
Shirling E. B. and Gottlieb D., 1968. Cooperative
Description of Type Cultures of STREPTOMYCES
III. Additional Species Descriptions from First and
Second Studies. International Journal of Systematic
and Evolutionary Microbiology, 18: 279-392.
Tamreihao K., Nimaichand S., Chanu S.B., Devi K.A.,
Lynda R., Jeeniita N., Ningthoujam D.S. and Roy
S.S., 2019. Streptomyces manipurensis MBRL 201T
as potential candidate for biocontrol and plant
growth promoting agent for rice. Indian Journal of
Experimental Biology, 57: 741-749.
67
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Study on the antagonistic activity against several bacterial plant pathogens
of actinomycete strains isolated in Vietnam
Pham Thi Hue, Dinh Thi Ngoc Mai, Nguyen Thi Van,
Nguyen Hong Minh, Nguyen Kim Nu Thao
Abstract
A total of 500 actinomycete strains isolated in Vietnam and preserved at the Vietnam Type Culture Collection
was tested for antagonistic activity against three plant pathogenic bacteria. The result showed that 18 strains could
inhibit Xanthomonas oryzae pv. oryzae, 4 strains could inhibit Dickyea zeae and 7 strains could inhibit Pseudomonas
syringae. Among them, Streptomyces manipurensis VTCC 40895 and Streptomyces griseus VTCC 41167 were potent
against all three plant pathogenic bacteria and then utilized for further study. The antibacterial activity was highest
when VTCC 40895 strain was cultivated in SKS medium for 6 days while the maximum antibacterial activity of
VTCC 41724 strain was obtained in ISP4 medium after 6 days. Physiological, biochemical properties, cultivation
conditions of two Streptomyces strains were also identified in this study.
Keywords: Dickyea zeae, Pseudomonas syringae, Xanthomonas oryzae pv. oryzae, actinomycetes, antibacterial activity
Ngày nhận bài: 22/4/2020
Ngày phản biện: 7/5/2020
Người phản biện: TS. Đinh Thúy Hằng
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trường Đại học Cần Thơ
ĐỊNH DANH VÀ HIỆU QUẢ CỦA MỘT SỐ THUỐC HÓA HỌC
ĐỐI VỚI TÁC NHÂN GÂY THỐI CUỐNG TRÁI CAM SÀNH
Lê Thanh Toàn1, Trần Thành Đạt1
TÓM TẮT
Trong vài năm gần đây, bệnh thối cuống trên cây có múi nói chung, cam sành nói riêng xuất hiện và gây thiệt hại
nặng nề cho các hộ sản xuất. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 10 mẫu nấm phân lập, làm thuần từ vết bệnh thối
cuống trái cam sành thu tại 2 huyện Tam Bình và Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, mẫu nấm TB2 có độc tính cao nhất và
được định danh là Colletotrichum gloeosporioides, với tỉ lệ trùng hợp 100% dựa theo NCBI. Kết quả đánh giá hiệu
quả in vitro của các loại thuốc hóa học với nấm C. gloeosporioides ghi nhận nghiệm thức xử lí Azoxystrobin + Fosetyl
Aluminium + Dimethomorph cho hiệu quả ức chế nấm C. gloeosporioides cao hơn có ý nghĩa với nghiệm thức đối
chứng. Hiệu quả in vivo của Azoxystrobin + Fosetyl Aluminium + Dimethomorph đối với bệnh thối cuống trái cam
cho thấy nghiệm thức có xử lí thuốc tại thời điểm 1 và 5 ngày trước khi lây bệnh đã ức chế sự phát triển của vết bệnh.
Từ khóa: Cam sành, thán thư, thuốc hóa học
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cam là một trong những loại trái cây phổ biến
trên thế giới, được trồng ở nhiều nơi và được tiêu thụ
như trái cây ăn tươi hoặc dùng làm nước ép. Trái cam
không chỉ ngon, dễ ăn mà còn mà còn chứa nhiều
chất xơ, vitamin C, thiamin, folate và chất chống oxi
hóa (Chung Thị Thanh Hồng, 2015). Ở ĐBSCL, cam
sành được trồng ở nhiều nơi nhưng nổi tiếng nhất là
trái cam sành Tam Bình (Vĩnh Long), hàng năm ước
tính cung cấp cho thị trường hàng chục ngàn tấn và
đem lại nguồn thu nhập lớn cho bà con nông dân
(Bùi Triệu Thương và ctv., 2018). Cam sành là một
trong những cây trồng chủ lực của tỉnh Vĩnh Long,
được trồng tập trung chủ yếu ở 2 huyện Tam Bình và
Trà Ôn. Trong quá trình canh tác, người nông dân
phải đối mặt nhiều loại sâu bệnh hại khác nhau, gây
thiệt hại không nhỏ về năng suất và chất lượng trái
khi thu hoạch. Hiện nay, một bệnh mới xuất hiện
khiến cho nông dân lo lắng. Đó là bệnh thối cuống
gây rụng trái cam sành. Khi trái cam gần thu hoạch
thì cuống bị thối sau đó trái bị rụng, người trồng
cam vô cùng lo lắng. Vì vậy, nghiên cứu đã được
thực hiện nhằm xác định tác nhân gây hại và tìm ra
loại thuốc hóa học có hiệu quả ức chế sự phát triển
nấm bệnh in vitro, sự phát triển vết bệnh in vivo.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Nguồn nấm Coletotrichum sp. được thu thập ở
hai huyện Tam Bình và Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_hoat_tinh_khang_mot_so_vi_khuan_gay_benh_thuc_vat.pdf