Đặc điểm khối u sau nút mạch
100% các khối u cơ trơn tử cung không còn tăng
sinh mạch sau nút. Thể tích khối u giảm 19,6% sau
1 tháng, 53,3% sau 3 tháng, 80,1% sau 6 tháng (P <
0,001) (biểu đồ 3), trong đó có 01 trường hợp không
còn thấy khối u trên siêu âm và cộng hưởng từ.Theo
Stampfl U [7] khi nghiên cứu trên 121 trường hợp
dùng hạt vi cầu embozene tỷ lệ giảm sau 6 tháng là
79%. Theo Nguyễn Hoài Thu [4] nghiên cứu trên 189
trường hợp sử dụng hạt PVA thấy sau 6 tháng tỷ lệ
giảm trọng lượng u khoảng 78%. Theo Nguyễn Xuân
Hiền [5] nghiên cứu trên 143 trường hợp sử dụng hạt
PVA thấy tỷ lệ giảm khối u sau 3 tháng là 52,2% và sau
6 tháng là 73,2%. Như vậy so sánh tỷ lệ giảm khối u
trong nghiên cứu của chúng tôi thấy tương đồng với
nghiên cứu của Stampfl U [7] khi cùng sử dụng hạt
nhựa PVA, tuy nhiên tỷ lệ giảm cao hơn so với 02
nghiên cứu của 2 tác giả trong nước khi sử dụng hạt
nhựa PVA. Có thể giải thích cho sự khác biệt đó bởi
hạt embozene với tính chất đồng trục, nên hạt có thể
đi sâu vào trong khối u làm tắc các nhánh mạch nhỏ
trong nên sẽ gây hoại tử u được nhiều hơn, trong khi
đó hạt PVA với tính chất sắc cạnh, không đồng đều
có thể làm tắc cuống trước khi vào hạt sâu trong khối
u để tắc các nhánh mạch nhỏ trong khối u, nên mức
độ hoại tử thấp hơn do vậy tỷ lệ giảm thể tích sau 6
tháng của PVA sẽ thấp hơn hạt embozene. Tuy nhiên
cần phải có nghiên cứu sâu và dài hạn hơn để có thể
khẳng định vật liệu mới hạt vi cầu embozene hiệu quả
hơn vật liệu cũ hạt nhựa PVA.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu kết quả ban đầu sử dụng hạt vi cầu Embozene trong điều trị nút mạch u cơ trơn tử cung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201740
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SCIENTIFIC RESEARCH
SUMMARY
*Khoa CĐHA Bệnh viện
Bạch Mai
Purpose
Evaluating the initial effect of fibroid embolization procedure
with embozene microspheres at Bach Mai radiology department.
Methods and objectives
Follow - up study from January 2015 to February 2016, we
treated 41 patients who manifest symptom clinically (mean ± SD
age 37.3 ± 5.7 years, range 24-47 years). Assessing including:
clinical symptom, volume of fibroid after treatment 1 month, 3
months, 6 months by ultrasound and magenic resonance imaging
after 6 months.
Results
The mean tumor volume 65.6 ± 5. 8 ml (range 1.7-353). A
total of 51 tumors of 41 patients were carried out intervention, a
technical success rate of 100%. Post intervention 54% patients
were painless, the mean pain time 1.2 ± 0.7 day. There are no
main complication. After 6 months, 96.1% patients stopped
hypermenorrhea, 94.4% patients disappeared abdominal pain.
Quality of life index improved 3.8 point. The tumor volume
decrease 19.6% after 1 month, 53.3% after 3 months, 80.1% after
6 months (P < 0.001).
Conclusion
Embozene microspheres is a potentially chosen material
inuterine artery embolization because of its safe and effective
procedure.
Key words: fibroid, uterine artery embolization, embozene
microspheres.
NGHIÊN CỨU KẾT QUẢ BAN ĐẦU SỬ DỤNG
HẠT VI CẦU EMBOZENE TRONG ĐIỀU TRỊ
NÚT MẠCH U CƠ TRƠN TỬ CUNG
The initial effect of embolization
of uterine leiomyomas with embozene spheres
Lê Văn Khánh*, Nguyễn Xuân Hiền*, Phạm Minh Thông*
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 41
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
U cơ trơn tử cung (UCTTC ) là khối u lành tính,
thường gặp ở phụ nữ tuổi trên 30 có đến 30% bị bệnh
này, tỷ lệ mắc ngày càng tăng lên trong những năm gần
đây. Các triệu chứng chủ yếu của UCTTC gồm: đau
bụng, rong kinh.
Điều trị nút mạch u cơ trơn tử cung được ưu tiên
lựa chọn để điều trị UCTTC. Nhiều vật liệu nút mạch
đã được sử dụng, nhiều nhất là hạt nhựa PVA, tuy
nhiên nhược điểm của vật liệu này là tính sắc cạnh,
kích thước không đồng đều nên sẽ không đi sâu được
vào nhánh mạch nuôi u, tắc các nhánh lành. Khắc phục
nhược điểm của vật liệu cũ hạt nhựa PVA, vật liệu mới
hạt vi cầu embozene với với tính trơn nhẵn, đồng cỡ và
tương thích sinh học cao sẽ đi sâu vào các nhánh mạch
nuôi u, giảm tác động lên nhánh lành, từ đó làm giảm
các tác dụng phụ sau nút mạch so với vật liệu cũ, giảm
thể tích u, giảm hoặc mất các triệu chứng lâm sàng.
Trên thế giới đã sử dụng vật liệu hạt vi cầu embozene
từ 2008, tuy nhiên ở Việt Nam tại bệnh viện Bạch Mai
bắt đầu sử dụng vật liệu từ tháng 1/2015. Do đó chúng
tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: đánh giá kết
quả ban đầu sử dụng hạt vi cầu embozene trong điều
trị nút mạch u cơ trơn tử cung.
II. ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
41 BN UXTC được tiến hành điều trị nút mạch u cơ
trơn tử cung bằng hạt embozene.
- Tiêu chuẩn lựa chọn: BN được chẩn đoán UCTTC
có triệu chúng lâm sàng như đau bụng, rong kinh, rong
huyết, được siêu âm doppler, chụp CHT có chỉ định &
được tiến hành điều trị bằng phương pháp nút mạch
tử cung.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các BN có UCTTC không có
triệu chứng lâm sàng, khối u dưới thanh mạc có cuống,
u dưới niêm mạc kích thước trên 5 cm và các chống chỉ
định như chụp mạch chung.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tiến cứu
- Lập bệnh án theo mẫu thiết kế chung, theo dõi
BN sau can thiệp 1, 3 & 6 tháng.
- Địa điểm & thời gian nghiên cứu: Bệnh viện Bạch
Mai, thời gian từ 1/2015 đến 2/2016.
- Phương tiện nghiên cứu:
+ Chẩn đoán UXTC: Máy siêu âm màu (Sonoacer
7), Máy CHT1.5Tesla.
+ Kỹ thuật nút mạch: Máy chụp mạch số hóa xóa
nền (DSA) Allura Xper FD 20 của Philips, dụng cụ
dùng cho can thiệp mạch: Kim chọc động mạch 20G,
Catherter Cobra 5F, dây dẫn (Guidewire) 0.35” Terumo,
Microcatheter 2.7F Progreat, hạt vi cầu embozene.
+ Tiến hành kỹ thuật: Theo phương pháp nút mạch
u cơ trơn tử cung.
Hình 1: Trước và sau nút mạch u cơ trơn tử cung
III. KẾT QUẢ
Từ tháng 01/2015 đến 02 /2016 khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai đã tiếp nhận và can thiệp nút
mạch UCTTC cho 41 bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi như sau:
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201742
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 1: Lý do vào viện
Nhận xét: Lý do vào viện do rong kinh đơn thuần chiếm tỷ lệ cao nhất 51,2%.
Bảng 1: Trọng lượng và kích thước u trước nút
Trọng lượng (gram) Số lượng Tỷ lệ
< 25 12 23,5
25-50 11 21,6
51-75 10 19,6
> 75 18 35,3
Tổng số 51 100
± SD 93,75 ± 93,92
Nhận xét: Trọng lượng khối u trung bình trước nút 93,75 ± 93,92 gam, trong đó khối u có trọng lượng nhỏ nhất
là 1,7 gam và lớn nhất là 353,2 gam.
3.2. Triệu chứng lâm sàng sau nút mạch
Biểu đồ 2: Lâm sàng ngay sau nút mạch
Nhận xét: Nhóm bệnh nhân không đau ngay sau nút mạch chiếm tỷ lệ cao nhất 54%, không có bệnh nhân rất đau.
Bảng 2: Đặc điểm đau bụng sau 1, 3, 6 tháng.
Đau bụng
Sau 1 tháng Sau 3 tháng Sau 6 tháng
Số BN Tỷ lệ% Số BN Tỷ lệ% Số BN Tỷ lệ%
Không 12 66,7 17 94,4 17 94,4
Giảm 5 27,8 0 0 1 5,6
Không giảm 1 5,5 1 5,6 0 0
Tổng số 18 100 18 100 18 100
Nhận xét: Sau 6 tháng triệu chứng đau bụng không còn gặp 17 bệnh nhân chiếm 94,4%, chỉ còn 1 bệnh nhân
còn đau bụng nhưng giảm hẳn so với trước nút.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 43
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
IV. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi trung bình 37,3 ± 3,7 tuổi, lớn tuổi nhất là
47 tuổi và trẻ tuổi nhất là 24 tuổi. Lý do bệnh nhân vào
viện vì rong kinh đơn thuần khá cao 51,2%. Vị trí của
khối u cơ trơn tử cung chủ yếu là dưới niêm mạc chiếm
tỷ lệ 51% và trong cơ chiếm tỷ lệ 45,1%, dưới thanh
mạc chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,9%. Do khối u nằm dưới
niêm mạc hay gây nên triệu chứng lâm sàng như rong
kinh và đau bụng, đó cũng là lý do chính của bệnh nhân
đến khám. Điều này phù hợp với lý do vào viện của
bệnh nhân vì đau bụng và rong kinh chiếm 95,1%. Theo
Joaos và cộng sự nghiên cứu 2009 [1] với 243 bệnh
nhân tỷ lệ u dưới niêm mạc 93,1%, tỷ lệ của nghiên cứu
này tương ứng với nghiên cứu chúng tôi. Kích thước u
xơ trung bình trước nút 5,1 ± 2,5cm, kích thước u lớn
nhất được nút 9,7cm và nhỏ nhất là 1,5cm, nhóm u có
kích thước từ 3-5cm chiếm tỷ lệ cao nhất 58,8%. Trọng
lượng u xơ trung bình trước nút 65,6 ± 58,8 (1,7-353
gam). Kích thước và trọng lượng khối u trước nút trong
nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với các nghiên
cứu trong nước Nguyễn Xuân Hiền [5], nhưng nhỏ hơn
so với các nghiên cứu của một số tác giả ngoài nước
khác như Laurent Brunnereau [3], James B. Spies [2]
do kích thước và trọng lượng tử cung của các nghiên
cứu trên lớn hơn so với nghiên cứu của chúng tôi. Qua
kích thước và trọng lượng của khối với các dấu hiệu
lâm sàng gây ra do u chúng ta thấy khối u dưới niêm
mạc kích thước và trọng lượng nhỏ đã gây triệu chứng
lâm sàng (rong kinh), nhưng khối u dưới thanh mạc
và trong cơ phải có kích thước lớn mới gây các triệu
chứng lâm sàng.
4.2. Kỹ thuật và đặc điểm vật liệu
Tỷ lệ thành công kỹ thuật 100%, tất cả bệnh nhân
đều được tiến hành can thiệp một lần. Không có biến
chứng trong quá trình can thiệp và sau can thiệp. Trong
nghiên cứu chỉ sử dụng 3 loại hạt 400 µm, 500 µm và
700 µm. Trong đó nhóm hạt có kích thước 500 µm được
sử dụng nhiều nhất 67%, tỷ lệ này cũng tương ứng với
Bảng 3: Đặc điểm rong kinh sau 1, 3, 6 tháng
Rong kinh
Sau 1 tháng Sau 3 tháng Sau 6 tháng
Số BN Tỷ lệ Số BN Tỷ lệ Số BN Tỷ lệ
Không 8 30,7 25 96,1 25 96,1
Giảm 16 61,5 1 3,9 1 3,9
Không giảm 2 7,8 0 0 0 0
Tổng số 26 100 26 100 26 100
Nhận xét: Sau 6 tháng triệu chứng rong kinh không còn gặp 25 bệnh nhân chiếm tỷ lệ cao 96,1%.
3.3. Trọng lượng u sau nút mạch
Biểu đồ 3: Tỷ lệ giảm thể tích u sau 1, 3, 6 tháng
Nhận xét: Trọng lượng khối u giảm 19,6% sau 1 tháng, 53,3% sau 3 tháng, 80,1% sau 6 tháng. Trong đó có 1
khối u không quan sát thấy trên siêu âm và cộng hưởng từ thời điểm sau 6 tháng.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/201744
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nghiên cứu của Stampfl U [7] với tỷ lệ hạt 500µm được
sử dụng là 63%. Các hạt chúng tôi từ 400-700 µm cũng
tương ứng với một số tác giả khác [8]. Trong nghiên
cứu chúng tôi có sử dụng coil cắt nhánh động mạch
buồng trứng cho 03 trường hợp có nhánh động mạch
buồng trứng tách ra cùng nhánh với nhánh nuôi u, để
tránh hạt vào buồng trứng gây suy buồng trứng sau nút
mạch (Hình 2).
Hình 2: Trước và sau nút cắt cuống động mạch
buồng trứng phải
4.3. Triệu chứng lâm sàng sau nút
Ngay sau can thiệp có tới 22 bệnh nhân không có
cảm giác đau chiếm 53,7%, không có bệnh nhân đau
vừa và đau nặng (biểu đồ 2). So với các nghiên cứu
khác của Nguyễn Xuân Hiền 2011 [5], Nguyễn Hoài Thu
và Phan Thanh Hải 2003 [4], tỷ lệ bệnh nhân đau sau
nút mạch chiếm tỷ lệ 89,8% và 80%, 2 nghiên cứu trên
đều sử dụng vật liệu nút mạch cũ là hạt PVA, ban đầu
có thể nhận thấy hạt vi cầu embozene gây đau sau nút
mạch ít hơn so với hạt PVA. Điều này có thể giải thích
vì hạt embozene do tính đồng đều về kích cỡ sẽ đi sâu
vào trong các nhánh nuôi u, ít gây tắc các nhánh lành
nên sẽ làm giảm mức độ tổn thương cơ tử cung lành
do vậy sẽ ít gây đau hơn hạt PVA.Thời gian nằm viện
trung bình của bệnh nhân 1, 2 ngày. Các triệu chứng
lâm sàng đều được cải thiện sau nút mạch, cụ thể sau
6 tháng có 96,1% bệnh nhân hết rong kinh, 94,4% bệnh
nhân hết đau bụng, chất lượng cuộc sống cải thiện 3,8
điểm. Mức độ cải thiện các triệu chứng lâm sàng tương
đồng với nghiên cứu của Stampfl U [7] và Smeets AJ
[6], cả 2 nghiên cứu này đều sử dụng hạt Embozene,
tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của Laurent khi sử
dụng hạt PVA với tỷ lệ bệnh nhân hết rong kinh và đau
bụng sau 6 tháng lần lượt là 88% và 90%.
4.4. Đặc điểm khối u sau nút mạch
100% các khối u cơ trơn tử cung không còn tăng
sinh mạch sau nút. Thể tích khối u giảm 19,6% sau
1 tháng, 53,3% sau 3 tháng, 80,1% sau 6 tháng (P <
0,001) (biểu đồ 3), trong đó có 01 trường hợp không
còn thấy khối u trên siêu âm và cộng hưởng từ.Theo
Stampfl U [7] khi nghiên cứu trên 121 trường hợp
dùng hạt vi cầu embozene tỷ lệ giảm sau 6 tháng là
79%. Theo Nguyễn Hoài Thu [4] nghiên cứu trên 189
trường hợp sử dụng hạt PVA thấy sau 6 tháng tỷ lệ
giảm trọng lượng u khoảng 78%. Theo Nguyễn Xuân
Hiền [5] nghiên cứu trên 143 trường hợp sử dụng hạt
PVA thấy tỷ lệ giảm khối u sau 3 tháng là 52,2% và sau
6 tháng là 73,2%. Như vậy so sánh tỷ lệ giảm khối u
trong nghiên cứu của chúng tôi thấy tương đồng với
nghiên cứu của Stampfl U [7] khi cùng sử dụng hạt
nhựa PVA, tuy nhiên tỷ lệ giảm cao hơn so với 02
nghiên cứu của 2 tác giả trong nước khi sử dụng hạt
nhựa PVA. Có thể giải thích cho sự khác biệt đó bởi
hạt embozene với tính chất đồng trục, nên hạt có thể
đi sâu vào trong khối u làm tắc các nhánh mạch nhỏ
trong nên sẽ gây hoại tử u được nhiều hơn, trong khi
đó hạt PVA với tính chất sắc cạnh, không đồng đều
có thể làm tắc cuống trước khi vào hạt sâu trong khối
u để tắc các nhánh mạch nhỏ trong khối u, nên mức
độ hoại tử thấp hơn do vậy tỷ lệ giảm thể tích sau 6
tháng của PVA sẽ thấp hơn hạt embozene. Tuy nhiên
cần phải có nghiên cứu sâu và dài hạn hơn để có thể
khẳng định vật liệu mới hạt vi cầu embozene hiệu quả
hơn vật liệu cũ hạt nhựa PVA.
Hình 3: Ảnh CHT của bệnh nhân trước và sau nút
mạch 6 tháng: Ảnh T2W trước nút, T2W sau nút, T1W
tiêm thuốc trước nút và T1W tiêm thuốc sau nút
IV. KẾT LUẬN
Vật liệu embozene có tính an toàn và hiệu quả cao
thể hiện qua việc cải thiện các triệu chứng lâm sàng và
giảm thể tích khối u sau điều trị so với hạt nhựa PVA.
Sẽ có thêm vật liệu cho các nhà điện quang can thiệp
lựa chọn trong điều trị nút mạch u cơ trơn tử cung.
ÑIEÄN QUANG VIEÄT NAM Số 26 - 1/2017 45
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Joao M. Pisco, et al. (2009), “Managenement of
Uterine Artery Embolizationfor Fibroid as Out Patient
Procedure”, J Vasc Interv Radiol 2009, 20: p 730-735
2. James B. Spies, et al (2002), “Uterine
artery embolization for leiomyomata”, Obstrics and
Gynecology, 98 (number 1): P 625-632.
3. Laurent Brunnereau, et al (2000), “Uterine
artery embolization in primary treatment of uterine
leiomyomas”, AJR, 175, p. 1267-1272
4. Nguyễn Hoài Thu và Phan Thanh Hải (2003),
“Nhân 189 trường hợp thuyên tắc động mạch tử cung
trong điều trị nhân xơ tử cung, ung thư tế bào nuôi, chảy
máu sản khoa”, Báo cáo hội nghị Điện Quang Pháp -
Việt.
5. Nguyễn Xuân Hiền, “Nghiên cứu ứng dụng
phương pháp nút động mạch tử cung trong điều trị u cơ
trơn tử cung”, Luận án tiến sĩ y học, Trường Đại Học Y
Hà Nội 2011.
6. Smeets AJ, Nijenhuis RJ, et al,“Embolization of
uterine leiomyomas with polyzene F - coated hydrogel
microspheres: initial experience”, J Vasc Interv
Radiol2010, 21(12): 1830-4.
7. Stampfl U, RadeleffB, et al,“Midterm results of
uterine artery embolization using narrow-size calibrated
embozene microspheres”, Cardiovasc Intervent Radiol
2011, 34(2): 295-305.
8. Ravina, J. H, et al. (2003), “Embolisation des
fibromes utérins: Résultats sur 454 cas”, Gynécologie
Obstétrique & Fertilité, 31: 9. 597-605.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá kết quả ban đầu sử dụng hạt vi cầu embozene trong điều trị nút mạch u cơ trơn tử cung tại
khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: Tiến cứu từ tháng 1/2015 đến tháng 2/2016, chúng tôi điều trị cho 41
bệnh nhân u cơ trơn tử cung có triệu chứng lâm sàng, tuổi trung bình 37,3 ± 5,7 (24-43 tuổi). Đánh giá triệu chứng
lâm sàng, thể tích của khối u trước và sau điều trị tại các thời điểm 1 tháng, 3 tháng và 6 tháng trên siêu âm, cộng
hưởng từ sau 6 tháng.
Kết quả: Thể tích trung bình khối u 65,6 ± 58,8 (1,7-353 gam). Tổng số 41 bệnh nhân với 51 khối u được tiến
thành can thiệp, với tỷ lệ thành công kỹ thuật 100%. Ngay sau can thiệp có 54% bệnh nhân không đau, thời gian
đau trung bình 1,2 ± 0,7 ngày. Không có biến chứng chính xảy ra. Lâm sàng sau 6 tháng có 96,1% bệnh nhân hết
rong kinh, 94,4% bệnh nhân hết đau bụng, chất lượng cuộc sống cải thiện 3,8 điểm. Thể tích khối u giảm 19,6% sau
1 tháng, 53,3% sau 3 tháng, 80,1% sau 6 tháng (P < 0,001).
Kết luận: Hạt vi cầu embozene là vật liệu có thể lựa chọn trong điều trị nút mạch u cơ trơn tử cung bởi vì tính
an toàn và hiệu quả của nó.
Từ khóa: u cơ trơn tử cung, nút mạch u cơ trơn tử cung, hạt vi cầu embozene.
Research on the initial effect of fibroid embolization procedure with embozene microspheres
Người lên hệ: Lê Văn Khánh. Email: drhuykhanh@gmail.com
Ngày nhận bài: 20.9.2016 Ngày chấp nhận đăng: 15.10.2016
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ket_qua_ban_dau_su_dung_hat_vi_cau_embozene_trong.pdf