Nghiên cứu của Xiong, et al. (2002) [10] cho rằng, trong
điều kiện hạn lá cây cần giảm bớt việc thoát hơi nước khi
đóng mở khí khổng, vì vậy giảm số lượng khí khổng ở 2
mặt biểu bì lá góp phần hạn chế mất nước khi cây đang
trong điều kiện thiếu nước. Sự gia giảm mật độ khí khổng
để đối phó với hạn hán khác nhau giữa các loài thực vật và
phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu
nước [11]. Để đối phó với sự thay đổi môi trường, thực vật
có thể điều chỉnh sự phát triển của khí khổng ở những chiếc
lá mới [12]. Khi lá trưởng thành cảm nhận được điều kiện
môi trường thay đổi, mật độ khí khổng sẽ được điều chỉnh
ngay trong quá trình phát triển lá [13]. Đã có nhiều báo cáo
cho rằng, những đột biến làm giảm mật độ khí khổng đã
giúp tăng cường khả năng chịu hạn của thực vật [14, 15].
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lưu Hoài
Nam (2019) [16], sự giảm khí khổng ở biểu bì trên và dưới
lá giúp cho lá lúa hạn chế được sự mất nước qua khí khổng,
đồng thời tích trữ nước cung cấp cho hoạt động trao đổi
chất của lá.
Xét về kích thước khí khổng ở bảng 1 cho thấy, trung
bình chiều dài khí khổng biến thiên từ 14,1-16,4 µm và
chiều rộng từ 6,3-7,1 µm. Trong đó 2 giống Bông gừng
trắng và Nàng coi có chiều dài khí khổng dài nhất (tương
ứng 16,4 và 16,2 µm) và chiều rộng cũng lớn nhất (7,1 µm).
Chính vì vậy mà cả 2 giống có diện tích khí khổng (tương
ứng 115,6 và 114,8 µm2) lớn hơn so với các giống còn lại.
Riêng giống Sophinh, bên cạnh mật độ khí khổng thấp là
kích thước chiều dài, chiều rộng (tương ứng 14,3 và 6,3 µm)
và cả diện tích khí khổng đạt nhỏ nhất (88,6 µm2) so với các
giống lúa mùa được khảo sát.
Sự trao đổi khí qua lá bị ảnh hưởng rất lớn bởi số lượng
cũng như kích thước khí khổng [17]. Độ ẩm trong đất giảm,
làm giảm lượng nước trong lá, các tế bào bảo vệ bị mất nước
gây mất áp lực sức trương, từ đó làm cho kích thước khí
khổng giảm xuống hoặc gây đóng khí khổng [18]. Sự suy
giảm kích thước khí khổng là sự thích nghi của thực vật để
đáp ứng với sự thiếu hụt nước và nhiệt độ cao [19]. Theo
Gupta (1997) [20], thực vật trong điều kiện khô hạn thường
có khí khổng nhỏ hơn so với thực vật sống trong điều kiện
đủ nước. Như vậy, để tối đa hóa hoạt động quang hợp đồng
thời giảm thiểu sự mất nước trong điều kiện khô hạn, cây
trồng cần phải điều chỉnh cả về số lượng và kích thước của
khí khổng cũng như khả năng đóng mở [21]. Có thể thấy
Sophinh có đặc điểm khí khổng gần như phù hợp trong việc
hạn chế mất nước trong điều kiện hạn khi có mật độ và kích
thước khí khổng nhỏ nhất so với các giống khác.
4 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 1 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng chịu hạn liên quan đến hình thái rễ và cấu trúc khí khổng của 12 giống lúa mùa (Oryza sativa L) trong điều kiện hạn nhân tạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
Đặt vấn đề
Được dự báo là một trong số những quốc gia bị ảnh
hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu, Việt Nam nói chung
và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nói riêng đã phải
gánh chịu những tổn thất nặng nề do hạn hán và lũ lụt gây
ra. Kể từ năm 2000 đến nay, tình trạng hạn hán đã liên tục
xảy ra vào các năm 2002, 2004, 2005, 2006, 2009, 2015 và
2016 [1]. Đặc biệt, đợt hạn hán và xâm nhập mùa khô năm
2016 đã gây thiệt hại nặng nề nhất, toàn vùng ĐBSCL có
đến 208.000 ha lúa bị thiệt hại, trong đó 60% bị thiệt hại
nặng và nhiều vùng mất trắng.
Từ thực tế cho thấy, chọn tạo và sử dụng giống lúa chịu
hạn trong canh tác là một trong những giải pháp hiệu quả và
bền vững đối với những vùng sinh thái thường xuyên bị hạn
hán như ĐBSCL. Tuy có tiềm năng đa dạng về số lượng và
chủng loại giống lúa mùa địa phương nhưng việc đánh giá
cải tiến giống lúa chịu hạn còn rất ít, chưa đáp ứng kịp yêu
cầu sản xuất hiện nay. Đối với cây lúa, thiếu nước có ảnh
hưởng lớn đến hình thái ở giai đoạn sinh trưởng và sinh sản.
Tuy nhiên, nhiều báo cáo đã cho rằng, để chống chịu hạn,
một số giống lúa đã phát triển kiểu hình có bộ rễ dài ăn sâu,
giúp tăng cường khả năng hút nước từ tầng đất sâu và giảm
mất nước qua lá bằng cách thay đổi cấu trúc khí khổng [2,
3]. Để nâng cao chất lượng và sản lượng nhằm giảm thiệt
hại do hạn hán gây ra, việc nghiên cứu chọn tạo giống lúa
chịu hạn mới dựa trên hình thái nhằm bổ sung vào nguồn
vật liệu di truyền lúa chịu hạn là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Nghiên cứu này nhằm đánh giá những đặc điểm hình thái rễ
và khí khổng trên nhiều giống lúa mùa khác nhau để chọn ra
giống mang tính trạng thích nghi với môi trường hạn, phục
vụ công tác lai tạo và chọn giống lúa chịu hạn tốt cho vùng
ĐBSCL.
Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Vật liệu, địa điểm, thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng 12 giống lúa mùa có nguồn gốc
tại Tây Ninh (Xương gà đỏ, Xương gà trắng, Ông từng đỏ,
Lăng nhây trắng, Bằng nâu, Tiêu mỡ đỏ) và An Giang (Một
bụi đỏ, Thái Lan, Sophinh, Macri 1, Bông gừng trắng, Nàng
coi) được trồng từ tháng 8/2019 tại nhà lưới có mái che
thuộc Bộ môn Di truyền và Chọn giống cây trồng, Trường
Đại học Cần Thơ.
Nghiên cứu khả năng chịu hạn liên quan đến hình thái rễ
và cấu trúc khí khổng của 12 giống lúa mùa
(Oryza sativa L.) trong điều kiện hạn nhân tạo
Trần Ngọc Sơn*, Võ Công Thành, Võ Lan Hương, Đặng Thị Yến Nhi,
Trần Thị Thùy Dương, Nguyễn Lam Đình, Từ Thị Diễm My
Khoa Nông nghiệp, Trường Đại học Cần Thơ
Ngày nhận bài 25/9/2020; ngày chuyển phản biện 29/9/2020; ngày nhận phản biện 13/11/2020; ngày chấp nhận đăng 20/11/2020
Tóm tắt:
Chọn giống lúa chịu hạn để canh tác là biện pháp hiệu quả nhất hiện nay nhằm tránh những ảnh hưởng do hạn
hán đang có những diễn biến phức tạp. Thí nghiệm được bố trí kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên một nhân tố, gồm
12 giống lúa mùa trong điều kiện gây hạn nhân tạo, 3 lần lặp lại. Các chỉ tiêu được đánh giá qua hình thái, cấu trúc
giải phẫu rễ và khí khổng cây lúa phù hợp với môi trường hạn. Kết quả cho thấy 3 giống (Sophinh, Xương gà đỏ
và Bằng nâu) có khả năng chịu hạn tốt nhất trong giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng (28 ngày sau khi ngắt nước).
Giống Sophinh có mật độ và diện tích khí khổng nhỏ nhất (tương ứng 529,3 kk/mm2 và 88,6 µm2), giúp giảm mất
nước qua quá trình thoát hơi nước khi cây thiếu nước. Giống Xương gà đỏ có tỷ lệ rễ sâu cao nhất (58,7%), có thể
tăng khả năng lấy nước từ tầng đất sâu. Giống Bằng nâu có đường kính rễ dày 876,3 µm và diện tích lõi lớn (đạt
54,4x103 µm2), chứa nhiều hậu mộc và tổng diện tích hậu mộc lớn nhất (tương ứng 5,6 và 12x103 µm2), giúp tăng lực
dẫn nước lên chồi. Mối quan hệ giữa số rễ, số mạch hậu mộc và mật độ khí khổng là tương quan nghịch; trong khi
tương quan giữa đường kính rễ, số hậu mộc và tổng diện tích hậu mộc là tương quan thuận. Kết quả này sẽ giúp
định hướng phát triển giống lúa theo cơ chế chịu hạn.
Từ khóa: chịu hạn, khí khổng, lúa mùa, rễ.
Chỉ số phân loại: 4.1
* Tác giả liên hệ: Email: ngocsonbiotech5011@gmail.com
28
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
Phương pháp nghiên cứu
Bố trí thí nghiệm:
Thí nghiệm được bố trí theo kiểu khối hoàn toàn ngẫu nhiên
một nhân tố (giống lúa), 3 lần lặp lại. Tiến hành ngắt nước xử
lý hạn sau 40 ngày gieo bằng cách ngưng tưới nước đến khi
50% số lá bị khô thì tưới nước phục hồi. Thí nghiệm được
thực hiện theo phương pháp rổ nhựa (basket) (hình 1) [4, 5].
Hình 1. Sơ đồ mô tả phương pháp rổ nhựa (basket).
Đất được phơi khô, làm nhuyễn, rây loại bỏ tạp chất,
sau đó bổ sung thêm cát (tỷ lệ 6 đất/4 cát). Hỗn hợp đất
cát pha được cho vào chậu kích thước 28x22x30 cm, đặt
rổ nhựa cách mặt chậu 2 cm, các chậu sau đó được làm ẩm
bằng cách tưới 4 ngày một lần với lượng nước đồng nhất
đủ độ ẩm đồng ruộng (độ ẩm >80%) cho đến 40 ngày sau
gieo. Hạt lúa sau khi ủ nảy mầm được gieo vào chậu, 1 cây/
chậu. Các chậu được bổ sung lượng phân bón 20 g urea, 35
g super lân và 10 g KCl tại 2 thời điểm bón lót và 15 ngày
sau khi gieo.
Chỉ tiêu theo dõi:
Độ ẩm đất được đo 7 ngày 1 lần ở tất cả các chậu vào giờ
trưa mỗi ngày bằng máy Takemura.
Tổng số rễ (T
R
) được tính dựa trên tổng số rễ chính của
một bụi xuyên qua rổ nhựa. Tỷ lệ rễ sâu (RDR) được định
nghĩa là số rễ xuyên qua phần mắt lưới 2 mm của rổ nhựa
(tức là phần được xác định bởi một góc 50-90o theo phương
ngang mặt đất tính từ gốc lúa) chia cho tổng số rễ. Thời
điểm ghi nhận sau khi cây được tưới nước phục hồi 14 ngày.
Cấu trúc rễ và các mạch xylem rễ được quan sát (n=5
rễ) phân tích theo phương pháp Terashima, et al. (1987) [6].
Quan sát mặt cắt ở vị trí cách gốc 3 cm để đo đường kính rễ
(D
R
), số mạch hậu mộc (latemetaxylem - LMX), diện tích
lõi (S
stele
) và tổng diện tích hậu mộc (S
LMX
).
Mật độ và kích thước khí khổng trên biểu bì lá lúa được
khảo sát theo phương pháp Baloch, et al. (2013) [7] khi cây
có biểu hiện cuốn lá trên thị trường vật kính 40X. Quan
sát sự phân bố và đếm số lượng khí khổng thấy được trong
Drought tolerance related
to root morphology and stomatal
structure of the 12 seasonal
rice varieties (Oryza sativa L.)
under artificial drought conditions
Ngoc Son Tran*, Cong Thanh Vo, Lan Huong Vo,
Thi Yen Nhi Dang, Thi Thuy Duong Tran,
Lam Dinh Nguyen, Thi Diem My Tu
College of Agriculture and Applied Biology, Can Tho University
Received 25 September 2020; accepted 20 November 2020
Abstract:
Drought-tolerant rice varieties are one of the best choices
to avoid the effects of drought. A Randomized Complete
Block Design (RCBD) with three replications was used
for the experiment. 12 seasonal rice were tested under
artificial drought conditions. The criteria were assessed
through the morphology, root anatomical structure,
and stomatal leaves that were suitable for the drought
environment. The results showed that 3 seasonal rice were
well adapted to this condition.Sophinh had the smallest
density and area of stomata (529.3 stomata/mm2 and 88.6
µm2 respectively), they helped reduce water loss. Xuong
ga do had the highest ratio of deep roots 58.7% which
could increase the ability to take water from the deep soil
layer. Bang nau had a thick root diameter of 876.3 µm
and a stele root area of 54.4x103 µm2 containing a high
number and more areas of late metaxylems (5.6 and
12x103 µm2 respectively). These factors helped increase
water flux from root to shoot. Correlation among the
density of stomata, number of roots, and the number of
late metaxylem were negative while correlation among
diameter of roots, number of late metaxylem, and total
areas of late metaxylem were positive. These results were
useful for developing drought-tolerant rice varieties.
Keywords: drought avoidance, root, seasonal rice,
stomata.
Classification number: 4.1
29
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
diện tích tại 3 vị trí đầu, giữa và chóp lá của 2 mặt lá. Mật
độ khí khổng (D
kk
) được tính theo số lượng khí khổng/mm2.
Đo kích thước chiều dài (L
kk
) và chiều rộng (W
kk
) tế bào
khí khổng (n=30 khí khổng). Diện tích khí khổng tính bằng
cách nhân chiều dài và rộng trung bình của khí khổng.
Phân tích thống kê:
Số liệu giải phẫu khí khổng và rễ được đo bằng phần
mềm OptikalSview. Dữ liệu được phân tích thống kê bằng
SPSS 23.0 dùng kiểm định Duncan ở mức ý nghĩa 5% để
so sánh các giá trị trung bình và phân tích hệ số tương quan
Pearson.
Kết quả và thảo luận
Diễn biến độ ẩm đất
Diễn biến độ ẩm của đất được trình bày ở hình 2.
Hình 2. Diễn biến giá trị trung bình độ ẩm đất.
Ghi chú: q: Thời điểm cuốn lá; s: Thời điểm cháy lá.
Kết quả ở hình 2 cho thấy, diễn biến giá trị trung bình độ
ẩm đất giữa các chậu thay đổi giảm dần tại thời điểm ngắt
nước kể từ 40 NSG. Theo đó, độ ẩm bắt đầu giảm nhanh
xuống còn 72,5% vào 47 NSG, sau đó độ ẩm tiếp tục giảm
đến mức thấp nhất ghi nhận được là 7,5% tại thời điểm 68
NSG. Trong đó với mức độ ẩm đạt 14% cây bắt đầu cho
thấy có biểu hiện cuốn lá. Đến mức độ ẩm còn 7,5% sự
tổn thương do hạn gây ra các vết cháy lá trên cây lúa biểu
hiện thấy rõ. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Trần
Nguyên Tháp (2001) [8] khi thực hiện thí nghiệm hạn trên
lúa, rằng cây biểu hiện stress hạn bằng biểu hiện cuốn lá khi
độ ẩm dưới 14%. So sánh kết quả nghiên cứu lúa chịu hạn,
Zu, et al. (2017) [9] cũng thấy rằng khi độ ẩm đất đạt 15%
những giống lúa rẫy bắt đầu cuốn lá, đạt 10% lá héo khô và
lá tổn thương nặng khi độ ẩm đất đạt 5%. Độ ẩm đất có vai
trò quan trọng trong việc kiểm soát hạn hán, khi độ ẩm đất
thấp hơn một giới hạn nào đó, thực vật không hút đủ nước
thì sẽ bị hạn [1]. Giới hạn này phụ thuộc vào khả năng giữ
nước của đất và khả năng lấy nước của cây.
Cấu trúc khí khổng lá lúa trong điều kiện hạn
Cấu trúc khí khổng lá lúa trong điều kiện hạn được thể
hiện ở bảng 1.
Bảng 1. Mật độ phân bố và kích thước khí khổng của 12 giống lúa
mùa trong điều kiện hạn.
TT Giống
D
kk
(kk/mm2)
L
kk
(µm)
W
kk
(µm)
S
kk
(µm2)
1 Xương gà đỏ 577,3def 14,6bcd 6,3e 91,6de
2 Xương gà trắng 547,0ef 14,3cd 6,4de 91,3de
3 Ông từng đỏ 662,3abc 14,1d 6,5cde 91,5de
4 Lăng nhây trắng 616,7a-d 16,2a 6,9ab 109,6ab
5 Bằng nâu 620,3a-d 15,5ab 6,7bcd 103,4bc
6 Tiêu mỡ đỏ 604,3cde 16,4a 6,8bc 110,8ab
7 Sophinh 529,3f 14,3cd 6,3e 88,6e
8 Một bụi đỏ 675,7ab 15,0bcd 6,7bcd 98,8cd
9 Thái Lan 608,7b-e 15,2bc 6,6cde 99,1cd
10 Nàng coi 644,0a-d 16,2a 7,1a 114,8a
11 Macri 1 683,0a 14,5bcd 6,9ab 100,1c
12 Bông gừng trắng 652,0abc 16,4a 7,1a 115,6a
F * * * *
CV(%) 5,9 3,5 2,7 4,2
Chú thích: *: khác biệt mức ý nghĩa 5%. Trong cùng một cột, các số theo sau có
cùng ký tự chữ cái thì khác biệt không ý nghĩa qua phép thử Duncan. D
kk
: mật
độ khí khổng, L
kk
: dài khí khổng, W
kk
: rộng khí khổng, S
kk
: diện tích khí khổng.
Kết quả ở bảng 1 cho thấy, mật độ và kích thước khí
khổng khác biệt có ý nghĩa thống kê ở mức 5% giữa các
giống lúa. Mật độ khí khổng trung bình phân bố trên bề mặt
lá dao động từ 529,3-683 kk/mm2. Giống có mật độ phân
bố khí khổng cao nhất là Macri 1 (683 kk/mm2) và ít nhất
là Sophinh (529,3 kk/mm2), khác biệt có ý nghĩa so với các
giống còn lại (hình 3).
Hình 3. Cấu trúc khí khổng mặt trên (A1-B1) và mặt dưới (A2-B2) lá
của Sophinh và Bằng nâu.
30
Khoa học Nông nghiệp
63(2) 2.2021
Nghiên cứu của Xiong, et al. (2002) [10] cho rằng, trong
điều kiện hạn lá cây cần giảm bớt việc thoát hơi nước khi
đóng mở khí khổng, vì vậy giảm số lượng khí khổng ở 2
mặt biểu bì lá góp phần hạn chế mất nước khi cây đang
trong điều kiện thiếu nước. Sự gia giảm mật độ khí khổng
để đối phó với hạn hán khác nhau giữa các loài thực vật và
phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu
nước [11]. Để đối phó với sự thay đổi môi trường, thực vật
có thể điều chỉnh sự phát triển của khí khổng ở những chiếc
lá mới [12]. Khi lá trưởng thành cảm nhận được điều kiện
môi trường thay đổi, mật độ khí khổng sẽ được điều chỉnh
ngay trong quá trình phát triển lá [13]. Đã có nhiều báo cáo
cho rằng, những đột biến làm giảm mật độ khí khổng đã
giúp tăng cường khả năng chịu hạn của thực vật [14, 15].
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lưu Hoài
Nam (2019) [16], sự giảm khí khổng ở biểu bì trên và dưới
lá giúp cho lá lúa hạn chế được sự mất nước qua khí khổng,
đồng thời tích trữ nước cung cấp cho hoạt động trao đổi
chất của lá.
Xét về kích thước khí khổng ở bảng 1 cho thấy, trung
bình chiều dài khí khổng biến thiên từ 14,1-16,4 µm và
chiều rộng từ 6,3-7,1 µm. Trong đó 2 giống Bông gừng
trắng và Nàng coi có chiều dài khí khổng dài nhất (tương
ứng 16,4 và 16,2 µm) và chiều rộng cũng lớn nhất (7,1 µm).
Chính vì vậy mà cả 2 giống có diện tích khí khổng (tương
ứng 115,6 và 114,8 µm2) lớn hơn so với các giống còn lại.
Riêng giống Sophinh, bên cạnh mật độ khí khổng thấp là
kích thước chiều dài, chiều rộng (tương ứng 14,3 và 6,3 µm)
và cả diện tích khí khổng đạt nhỏ nhất (88,6 µm2) so với các
giống lúa mùa được khảo sát.
Sự trao đổi khí qua lá bị ảnh hưởng rất lớn bởi số lượng
cũng như kích thước khí khổng [17]. Độ ẩm trong đất giảm,
làm giảm lượng nước trong lá, các tế bào bảo vệ bị mất nước
gây mất áp lực sức trương, từ đó làm cho kích thước khí
khổng giảm xuống hoặc gây đóng khí khổng [18]. Sự suy
giảm kích thước khí khổng là sự thích nghi của thực vật để
đáp ứng với sự thiếu hụt nước và nhiệt độ cao [19]. Theo
Gupta (1997) [20], thực vật trong điều kiện khô hạn thường
có khí khổng nhỏ hơn so với thực vật sống trong điều kiện
đủ nước. Như vậy, để tối đa hóa hoạt động quang hợp đồng
thời giảm thiểu sự mất nước trong điều kiện khô hạn, cây
trồng cần phải điều chỉnh cả về số lượng và kích thước của
khí khổng cũng như khả năng đóng mở [21]. Có thể thấy
Sophinh có đặc điểm khí khổng gần như phù hợp trong việc
hạn chế mất nước trong điều kiện hạn khi có mật độ và kích
thước khí khổng nhỏ nhất so với các giống khác.
Hình thái rễ lúa trong điều kiện hạn
Hình thái cũng như số lượng và sự phân bố rễ của các
giống lúa mùa trong điều kiện hạn được trình bày ở bảng 2.
Bảng 2. Số lượng, sự phân bố và hình thái giải phẫu rễ của 12 giống
lúa mùa trong điều kiện hạn.
TT Giống T
R
RDR
(%)
D
R
(µm)
S
stele
(x 103 µm2)
LMX
S
LMX
(x 103 µm2)
1 Xương gà đỏ 19,3bc 58,7a 867,7a 41,2bcd 4,5bc 7,9def
2 Xương gà trắng 19,7bc 45,8bc 389,9c 29,5e 5,6a 3,9h
3 Ông từng đỏ 11,0e 33,5d 888,2a 42,7bcd 4,5bc 7,6ef
4 Lăng nhây trắng 21,0b 50,7b 827,5a 41,7bcd 5,1ab 8,8cd
5 Bằng nâu 25,3a 23,8e 876,3a 54,4a 5,6a 12,0a
6 Tiêu mỡ đỏ 14,0d 35,8d 703,4b 38,1cde 4,4c 8,4de
7 Sophinh 18,3c 25,5e 844,5a 47,4ab 5,1ab 11,4a
8 Một bụi đỏ 8,0f 37,9cd 906,1a 49,7abc 4,4c 9,8bc
9 Thái Lan 14,7d 45,6bc 851,3a 45,6abc 4,6bc 9,9b
10 Nàng coi 19,3bc 44,9bc 866,3a 41,7bcd 4,3c 7,1fg
11 Macri 1 14,7d 25,0e 709,4b 33,6de 3,3d 6,1g
12 Bông gừng trắng 16,0d 21,0e 911,5a 45,3abc 4,3c 7,9def
F * * * * * *
CV(%) 6,7 11,6 7,7 13,1 8,1 7,4
Chú thích: *: khác biệt mức ý nghĩa 5%. Trong cùng một cột, các số theo sau
có cùng ký tự chữ cái thì khác biệt không ý nghĩa qua phép thử Duncan. T
R
:
tổng số rễ, RDR: tỷ lệ rễ sâu, D
R
: đường kính rễ, LMX: số mạch hậu mộc, S
stele
:
diện tích lõi, S
LMX
: tổng diện tích mạch hậu mộc.
Kết quả bảng 2 cho thấy, các đặc điểm hình thái rễ có
sự khác biệt ý nghĩa thống kê ớ mức 5%. Tổng số rễ ghi
nhận trong môi trường hạn biến thiên từ 8,0-25,3, giống lúa
Bằng nâu có nhiều rễ nhất với số rễ đạt 25,3 và Một bụi đỏ
có số rễ ít nhất là 8,0. Tuy nhiên, sự phân bố rễ sâu lại có sự
khác biệt nhau, cụ thể Xương gà đỏ có sự phân bố rễ ăn sâu
nhiều nhất với tỷ lệ 58,7%, riêng nhóm Bằng nâu (23,8%),
Sophinh (25,5%), Macri 1 (25%) và Bông gừng trắng (21%)
có mức độ phát triển rễ sâu thấp (hình 4).
Hình 4. Hình thái rễ giống lúa Xương gà đỏ (A), Bông gừng trắng
(B) và cấu trúc giải phẫu rễ giống lúa Bằng nâu (C), Một bụi đỏ (D).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_kha_nang_chiu_han_lien_quan_den_hinh_thai_re_va_c.pdf