Lớp phủ hợp kim NiCr20 sau khi được thẩm
thấu với photphat nhôm và xử lí nhiệt tại 600 oC có
độ bền ăn mòn mài mòn trong môi trường axit cao
hơn so với lớp phủ không được thẩm thấu cũng như
lớp phủ được thẩm thấu với photphat nhôm và xử lí
tại 1000 oC.
Sau 168 giờ thử nghiệm, chiều dày lớp phủ NA6
đã giảm đi khoảng 47 μm thấp hơn khoảng 40 % so
với lớp phủ NC. Kết quả này cho thấy, lớp phủ hợp
kim NiCr20 sau khi thẩm thấu với photphat nhôm và
được xử lý nhiệt đến nhiệt độ 600 oC đã góp phần
cải thiện đáng kể khả năng chịu ăn mòn trong môi
trường axit có chứa các tác nhân gây mài mòn.
Lớp phủ hợp kim NiCr20 sau khi thẩm thấu với
photphat nhôm và được xử lý nhiệt tại 1000 oC,
trong lớp phủ có sự hình thành các pha tinh thể
không bền trong môi trường axit (AlPO4* và
Al36P36O144) làm suy giảm khả năng chống ăn mòn
của lớp phủ trong môi trường axit có các tác nhân
gây mài mòn.
Sự có mặt của các pic nhiễu xạ đặc trưng cho
các thành phần pha syn_AlPO4 và Al(PO3)3(N) trên
bề mặt lớp phủ sau khi mẫu được ngâm 168 giờ
trong môi trường H2SO4 pH = 2 có chứa tác nhân
mài mòn chứng tỏ rằng các pha này không bị hòa tan
trong môi trường thử nghiệm
5 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 527 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng chống ăn mòn mài mòn của lớp phủ hợp kim NiCr20 được thẩm thấu với photphat nhôm trong môi trường axit - Nguyễn Văn Tuấn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Hóa học, 55(1): 43-47, 2017
DOI: 10.15625/0866-7144.2017-00414
43
Nghiên cứu khả năng chống ăn mòn mài mòn của lớp phủ hợp kim
NiCr20 được thẩm thấu với photphat nhôm trong môi trường axit
Nguyễn Văn Tuấn1, Phạm Thị Hà1, Phạm Thị Lý1*, Võ An Quân1,
Đinh Thị Mai Thanh1, Lê Thu Quý2, Phạm Đức Roãn3
1Viện Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
2Phòng thí nghiệm trọng điểm Công nghệ Hàn và Xử lý bề mặt - Viện nghiên cứu cơ khí
3Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Đến Tòa soạn 18-12-2015; Chấp nhận đăng 6-02-2017
Abstract
The corrosive wear resistance of NiCr20 alloy coating (NC) impregnated by aluminum phosphate and heat-treated
at 600 oC (NA6) and 1000 oC (NA10) was investigated in acid H2SO4 pH = 2 containing SiO2 3 % by weight; the flow
velocity is 4 m/s. The analysis of X-ray diffraction (XRD) showed that, the stable crystalline phases in acidic media
such as AlPO4 and Al(PO3)3 which were formed on NA6 coating’s surface made corrosive wear resistance of NA6
coating increase in comparison with the resistance measured on NA10 and NC coating samples. The formation of
unstable crystalline phases such as Al36P36O144 and Ni3(PO4)2 in NA10 coating caused the corrosive wear resistance of
NA10 coating smaller than that one measured on NC coating. After 168 hours of corrosive wear test, the thickness of
NA6 coating reduced to about 47 μm, while it was about 67 μm for NC coating.
Keywords. Thermal spray, aluminum phosphate sealant, acidic corrosion, corrosion wear.
1. MỞ ĐẦU
Hợp kim NiCr20 kết hợp được các tính chất của
Cr và Ni có ưu điểm là có khả năng chịu nhiệt,
chống ăn mòn, chịu mài mòn và độ bền khá cao
trong nhiều môi trường hoá chất. Tuy nhiên, đây là
một trong những loại hợp kim đắt tiền nên việc sử
dụng chúng ở dạng lớp phủ là một hướng được ưu
tiên lựa chọn.
Lớp phủ hợp kim NiCr chế tạo bằng phương
pháp phun phủ hồ quang điện có độ xốp khá cao
(>10%) sẽ ảnh hưởng đến khả năng bảo vệ chống ăn
mòn của lớp phủ. Để nâng cao khả năng bảo vệ
chống ăn mòn của lớp phủ này thì công đoạn xử lý
làm giảm độ xốp của lớp phủ sau khi phun là cần
thiết. Photphat nhôm được sử dụng để thẩm thấu
trên các lớp phun phủ nhiệt đã được nghiên cứu
trong những năm gần đây [1-7]. Các nghiên cứu này
chỉ tập trung vào việc sử dụng photphat nhôm trên
lớp phủ chế tạo bằng các phương pháp phun phủ
plasma và HVOF, chưa có nghiên cứu nào liên quan
đến việc sử dụng photphat nhôm cho lớp phủ chế tạo
bằng công nghệ phun phủ hồ quang điện. Lí do có
thể là, so với HVOF và plasma, công nghệ phun phủ
hồ quang hiện vẫn là công nghệ đơn giản, có tính cơ
động cao, năng xuất cao, giá thành rẻ, đặc biệt là dễ
dàng triển khai trong các ngành công nghiệp nhất là
trong lĩnh vực tạo lớp phủ bảo vệ và chống ăn mòn.
Các chi tiết được chế tạo từ vật liệu kim loại làm
việc trong các môi trường có tính ăn mòn và chịu
mài mòn có thể sử dụng kỹ thuật này để tạo các lớp
phủ bảo vệ qua đó có thể nâng cao tuổi thọ làm việc
cho các chi tiết trong các môi trường trên.
Bài báo này sẽ trình bày các kết quả nghiên cứu
độ bền ăn mòn của lớp phủ hợp kim NiCr20 chế tạo
bằng phương pháp phun phủ hồ quang điện được
thẩm thấu với photphat nhôm trong môi trường axit
H2SO4 pH = 2 có chứa tác nhân mài mòn SiO2.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Hóa chất
Các hóa chất chính sử dụng trong nghiên cứu
gồm: axit photphoric H3PO4 85 %, hydroxit nhôm
Al(OH)3 dạng bột, axit sulfuric H2SO4 pH2; nước cất;
tấm thép C45 và dây NiCr20 Ф2mm có thành phần:
79,39 % Ni, 18,16 % Cr, 0,9 % Si, 0,26 % Ti, 0,73 %
Mn, 0,56 % Fe; hạt rắn SiO2 (đường kính 0,3÷0,5
mm). Các hóa chất có nguồn gốc xuất xứ từ Đức.
TCHH, 55(1) 2017 Phạm Thị Lý và cộng sự
44
2.2. Phương pháp chuẩn bị mẫu và môi trường
thử nghiệm
Lớp phủ NiCr20 được chế tạo bằng phương
pháp phun phủ nhiệt hồ quang điện. Dây NiCr20 với
đường kính 2 mm được phun tạo lớp phủ trên nền
thép C45 với chiều dày lớp phủ trong khoảng
800÷900 μm bằng thiết bị OSU Hessler 300A.
Photphat nhôm được điều chế bằng cách cho axit
phốtphoric 85 % kết hợp với hydroxit nhôm dạng
bột với tỷ lệ mol P/Al = 2,3 tại nhiệt độ 110÷120 oC.
Sau khi điều chế, hỗn hợp photphat nhôm dạng
dung dịch với độ nhớt đo bằng cốc đo BZ4 là
177,36 s; tỉ trọng 1,58 g/cm3 [8] được quét lên trên
bề mặt lớp phủ hợp kim NiCr20 và để ổn định sau
12h trước khi xử lý nhiệt. Lớp phủ hợp kim NiCr20
có photphat nhôm thẩm thấu được xử lý nhiệt tại
nhiệt độ 600 và 1000 oC có kí hiệu lần lượt là NA6
và NA10. Lớp phủ NiCr20 không được thẩm thấu
với photphat nhôm có kí hiệu là NC.
Mẫu nghiên cứu được thử nghiệm trong môi
trường dung dịch H2SO4 pH = 2 có chứa hạt mài
mòn SiO2 với tốc độ dòng chảy của là 4 m/s. Đầu
vòi phun (đường kính 10 mm) được đặt cố định cách
bề mặt mẫu thử 5 mm, góc tác động là 90o. Mẫu thử
được gắn lên bộ phận gá mẫu và có thể tháo lắp dễ
dàng để thuận tiện cho quá trình đo điện hóa. Bộ
phận khuấy được bố trí giúp phân tán hạt rắn SiO2
đồng đều trong toàn bộ bể thử nghiệm. Hệ thử
nghiệm được đặt trong điều kiện nhiệt độ phòng. Mô
hình thử nghiệm ăn mòn mài mòn được thể hiện
trong hình 1.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
Các mẫu lớp phủ được thử nghiệm 168 giờ, đo
chiều dày và đo điện hóa theo thời gian.
Chiều dày lớp phủ theo thời gian được thực hiện
với đầu đo Mitutoyo DIGI-DERM 745 (Nhật Bản).
Mỗi mẫu được đo chiều dày tại 5 điểm/1 lần đo, sau
đó lấy giá trị trung bình.
Hình 1: Mô hình thử nghiệm ăn mòn mài mòn
Phép đo điện hóa thực hiện trên thiết bị
AUTOLAB PGSTAT302N, sử dụng hệ 3 điện cực:
điện cực so sánh calomen bão hòa, điện cực đối
platin và điện cực làm việc là mẫu lớp phủ có diện
tích bề mặt 1 cm2. Quét đường cong phân cực với
điện thế thay đổi trong khoảng 30 mV quanh điện
thế mạch hở, tốc độ quét 0,166 mV/s, bước nhảy thế
0,15 mV nhằm xác định điện trở phân cực Rp bằng
phương pháp tuyến tính theo tiêu chuẩn ASTM G3.
Điện thế ăn mòn và mật độ dòng ăn mòn được xác
định theo tiêu chuẩn ASTM G102. Phổ tổng trở
được quét trong khoảng tần số 104 10-2 Hz với 10
điểm/decade và biên độ dao động thế là 5 mV.
Cấu trúc mặt cắt ngang của các mẫu trước và sau
khi ngâm trong dung dịch axit sulfuric được phân
tích bằng kính hiển vi điện tử quét (SEM) trên thiết
bị JEOL JMS-6490.
Thành phần pha tinh thể được xác định bằng
phương pháp nhiễu xạ tia X (XRD) trên thiết bị phân
tích Rơnghen D5005 với bức xạ CuKα, góc 2 quét
trong khoảng 5 70o, bước quét 0,02o/s.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Phân tích XRD xác định sản phẩm ăn mòn
Thành phần pha trên bề mặt các lớp phủ trước và
sau khi thử nghiệm ăn mòn trong khoảng thời gian
168h được xác định bằng phương pháp XRD.
Kết quả thu được thể hiện trên hình 2 cho thấy,
sau 168h thử nghiệm, một số hợp chất photphat
nhôm như syn_AlPO4 (hexagonal), Al(PO3)3(N:
không định dạng) vẫn tồn tại trên bề mặt lớp phủ.
Điều này chứng tỏ, các hợp chất này không bị hòa
tan và bám dính tốt trên bề mặt lớp phủ. Các hợp
chất Al2P6O18 (monoclinic), Al36P36O144
(orthohombic) và Ni3(PO4)2 (monoclinic) đã bị hòa
tan trong môi trường axit H2SO4 pH2. Sự xuất hiện
của pha tinh thể Al(PO3)3* (cubic) trên bề mặt mẫu
NA10 sau khi thử nghiệm được giải thích là do ban
đầu hàm lượng pha tinh thể này quá nhỏ so với các
pha khác nên không xuất hiện pic nhiễu xạ trên giản
đồ XRD. Sau quá trình thử nghiệm ăn mòn mài
mòn, hai hợp chất Al36P36O144 và Ni3(PO4)2 bị hòa
tan đã tạo điều kiện làm xuất hiện pic nhiễu xạ của
Al(PO3)3*. Pha tinh thể AlPO4* (Orthohombic)
không bền nhưng sau 168 giờ thử nghiệm vẫn tồn tại
trên bề mặt mẫu NA10 có thể là do hợp chất này bị
hòa tan chậm.
3.2. Kết quả đo chiều dày mẫu theo thời gian
Chiều dày các mẫu lớp phủ đều giảm trong quá
trình thử nghiệm (hình 3). Sau 168 giờ thử nghiệm,
các mẫu NC, NA6, NA10 có chiều dày giảm lần lượt
TCHH, 55(1) 2017 Nghiên cứu khả năng chống ăn mòn
45
là 67,2; 47,4 và 78,0 µm. Trong các mẫu lớp phủ
được nghiên cứu, chiều dày của mẫu NA10 giảm
nhiều nhất và của NA6 giảm ít nhất. Điều này chứng
tỏ, sự có mặt pha tinh thể photphat nhôm syn_AlPO4
và Al(PO3)3(N) đã góp phần làm tăng khả năng chịu
mài mòn trong môi trường axit H2SO4 pH= 2 có
chứa các tác nhân gây mài mòn cho mẫu NA6. Sự
xuất hiện của các pha tinh thể Ni3(PO4)2 và
Al36P36O144 không bền trong môi trường axit đã hạn
chế đáng kể khả năng chịu mài mòn cho mẫu NA10.
Hình 2: Thành phần pha photphat nhôm trên bề mặt lớp phủ của các mẫu trước (a)
và sau thử nghiệm (b) trong môi trường ăn mòn mài mòn
Đối với mẫu NC, chiều dày giảm nhanh sau 24
giờ ngâm mẫu và giảm tương đối đều đặn ở các mốc
đo tiếp theo. Đối với mẫu NA6, trong khoảng thời
gian từ 31 đến 168 giờ ngâm mẫu, sự thay đổi chiều
dày là rất nhỏ. Đối với mẫu NA10, chiều dày giảm
nhanh sau 31 giờ và giảm nhanh hơn trong khoảng
từ 31 đến 168 giờ thử nghiệm so với khoảng thời
gian đầu. Nguyên nhân là do trong khoảng thời gian
đầu, bề mặt mẫu NC có độ nhám lớn và không được
che chắn bởi lớp photphat nhôm nên đã bị chịu tác
động mạnh của dòng hạt gây mài mòn làm chiều dày
lớp phủ giảm nhanh. Mẫu NA10, sau khi photphat
nhôm bị hòa tan, sự giảm chiều dày lớp phủ diễn ra
gần tương tự như mẫu NC. Điều này được giải thịch
là do mặc dù mẫu NA10 có được sự che chắn của
phốt phát nhôm, nhưng do các hợp chất phốt phát
nhôm không bền trong axit bị hóa tan làm cho lớp
phủ chịu tác động trực tiếp bời các hạt gây mài mòn
có trong dung dịch tương tự như mẫu NC. Đối với
NA6, do được che chắn bởi các tinh thể photphat
nhôm bền trong môi trường axit nên sự tác động của
tác nhân ăn mòn mài mòn vào lớp phủ NiCr20 kém
hơn, chiều dày lớp phủ giảm chậm.
3.3. Phổ tổng trở điện hóa
Phổ tổng trở điện hóa (giản đồ Nyquist) của các
mẫu sau khi thử nghiệm trong dung dịch axit H2SO4
pH = 2 có chứa các hạt rắn SiO2 được thể hiện trên
hình 4. Khái quát cho thấy, phổ tổng trở của các mẫu
tại hai thời điểm khác nhau đều có dạng hai bán
cung nối tiếp. Bán cung thứ nhất gần gốc của đồ thị
đặc trưng cho điện trở của dung dịch. Bán cung thứ
hai đặc trưng cho tổng trở của hệ lớp phủ. Khi tần số
đạt giá trị thấp nhất, ứng với điểm cuối cùng của bán
cung thứ hai thì tổng trở đo được xấp xỉ bằng điện
trở lớp phủ. Giá trị này càng lớn thì khả năng bảo vệ
chống ăn mòn của mẫu lớp phủ càng cao [9].
Hình 3: Sự thay đổi chiều dày lớp phủ so với trước
khi thử nghiệm trong môi trường ăn mòn mài mòn
So sánh tổng trở của các mẫu sau 8 giờ thử
nghiệm ăn mòn mài mòn trên hình 4 cho thấy, mẫu
NA6 có tổng trở lớn nhất và mẫu NA10 có tổng trở
nhỏ nhất. Kết quả trên cho thấy, khả năng chống ăn
mòn của mẫu NA6 tốt hơn so với mẫu NC và NA10.
Quy luật này cũng xảy ra tương tự đối với các mẫu
sau 168 giờ thử nghiệm. Sau 168 giờ thử nghiệm,
tổng trở của mẫu NC và NA6 tăng đáng kể. Các kết
quả nghiên cứu trong [10], chỉ ra rằng, trong dung
(b)
(a) (b)
TCHH, 55(1) 2017 Phạm Thị Lý và cộng sự
46
dịch H2SO4 pH = 2 ở trạng thái tĩnh, mẫu NC bắt
đầu bị ăn mòn tới nền thép sau 2 giờ và NA6 sau
720h ngâm mẫu. Như vậy có thể thấy khả năng bảo
vệ chống ăn mòn trong môi trường axit của lớp phủ
hợp kim NiCr chế tạo bằng công nghệ phun phủ hồ
quang điện sau khi được xử lý thẩm thấu với
photphat nhôm tốt hơn so với lớp phủ không được
xử lý trong cả hai điều kiện thử nghiệm.
Hình 4: Phổ Nyquist của các mẫu lớp phủ sau khi thử nghiệm 8 giờ (a) và
168 giờ (b) trong môi trường ăn mòn mài mòn
3.2. Xác định mật độ dòng ăn mòn theo thời gian
Hình 5 thể hiện sự biến đổi mật độ dòng ăn mòn
Jcorr theo thời gian của các mẫu trong môi trường axit
H2SO4 pH = 2 động có chứa hạt rắn SiO2. Kết quả
thu được cho thấy, mật độ dòng ăn mòn của mẫu
NA6 thấp hơn so với các mẫu NC, NA10 ở tất cả
các thời điểm đo mẫu trong khoảng thời gian 168
giờ. Nguyên nhân là do mẫu NA6 sau khi được xử lý
nhiệt đến 600 oC, photphat nhôm trong các lỗ xốp
của lớp phủ tạo thành các pha tinh thể không tan
trong môi trường axit đã góp phần cản trở quá trình
thẩm thấu của dung dịch qua lớp phủ đến nền thép
qua đó đã hạn chế đáng kể tốc độ ăn mòn của lớp
phủ trong dung dịch H2SO4 pH = 2.
Mật độ dòng ăn mòn của mẫu NA10 đo tại thời
điểm sau 8 giờ thử nghiệm tăng khá mạnh so với
thời điểm sau 2 giờ thử nghiệm. Điều này được giải
thích là do dưới tác động của dòng H2SO4 và các hạt
mài mòn, các hợp chất photphat nhôm có trong lớp
phủ hợp kim NiCr20 không bền đã bị hòa tan và rời
khỏi lớp phủ, dẫn tới độ xốp của lớp phủ tăng, làm
cho dung dịch dễ dàng thẩm thấu vào bên trong lớp
phủ và gây ăn mạnh đối với lớp phủ trong giai đoạn
này. Quá trình ăn mòn diễn ra trong lớp phủ đã tạo
ra các sản phẩm ăn mòn che chắn các lỗ xốp, làm
mật độ dòng ăn mòn giảm xuống và ồn định ở các
giai đoạn đo mẫu tiếp theo.
Đối với mẫu lớp phủ NC trong các giai đoạn đầu
đo mẫu, mật độ dòng ăn mòn có sự biến đổi tăng
giảm khác nhau thể hiện các quá trình hòa tan và
hình thành sản phẩm ăn mòn trong giai đoạn này.
Thời gian thử nghiệm đủ dài đã làm cho dung dịch
H2SO4 thẩm thấu tới bề mặt thép nền và làm cho mật
độ dòng ăn mòn có sự gia tăng ở các thời điểm đo
mẫu tiếp theo. Khi sản phẩm ăn mòn trong lớp phủ
đủ lớn do thời gian ngâm mẫu dài đã cản trở quá
trình ăn mòn diễn ra trong lớp phủ, làm mật độ dòng
ăn mòn đo được ở thời điểm sau 168 giờ thử nghiệm
nhỏ hơn so với thời điểm thử nghiệm sau 72 giờ.
Các kết quả thu được từ phép đo quét đường
cong phân cực phù hợp với các kết quả đo chiều
dày, đo SEM và đo phổ tổng trở thu được ở trên.
Hình 5: Biến thiên mật độ dòng ăn mòn Jcorr
3.4. Kết quả đo SEM
Ảnh cấu trúc mặt cắt ngang của lớp phủ được thể
hiện trong hình 6. So sánh tương đối chiều dày lớp
phủ hợp kim NiCr20 của các mẫu dựa vào ảnh chụp
cấu trúc mặt cắt ngang cho thấy, sau 168 giờ thử
nghiệm, lớp phủ NiCr20 của mẫu NA6 dày hơn của
mẫu NC và NA10. Nguyên nhân là do ban đầu mẫu
NA6 đã có chiều dày lớp phủ lớn hơn, đồng thời
trong quá trình thử nghiệm, mẫu này bị mài mòn ít
hơn.
Hình ảnh SEM thể hiện cấu trúc mặt cắt ngang
của các mẫu lớp phủ cho thấy, các mẫu NC và NA10
có nhiều lỗ xốp hơn so với mẫu NA6. Kết quả này
một lần nữa khẳng định khả năng bảo vệ chống ăn
mòn của mẫu NA6 tốt hơn so với các mẫu NC và
NA10.
(a) (b)
TCHH, 55(1) 2017 Nghiên cứu khả năng chống ăn mòn
47
Hình 6: Ảnh chụp SEM của các mẫu lớp phủ
sau khi thử nghiệm 168 giờ trong môi trường
ăn mòn mài mòn
4. KẾT LUẬN
Lớp phủ hợp kim NiCr20 sau khi được thẩm
thấu với photphat nhôm và xử lí nhiệt tại 600 oC có
độ bền ăn mòn mài mòn trong môi trường axit cao
hơn so với lớp phủ không được thẩm thấu cũng như
lớp phủ được thẩm thấu với photphat nhôm và xử lí
tại 1000 oC.
Sau 168 giờ thử nghiệm, chiều dày lớp phủ NA6
đã giảm đi khoảng 47 μm thấp hơn khoảng 40 % so
với lớp phủ NC. Kết quả này cho thấy, lớp phủ hợp
kim NiCr20 sau khi thẩm thấu với photphat nhôm và
được xử lý nhiệt đến nhiệt độ 600 oC đã góp phần
cải thiện đáng kể khả năng chịu ăn mòn trong môi
trường axit có chứa các tác nhân gây mài mòn.
Lớp phủ hợp kim NiCr20 sau khi thẩm thấu với
photphat nhôm và được xử lý nhiệt tại 1000 oC,
trong lớp phủ có sự hình thành các pha tinh thể
không bền trong môi trường axit (AlPO4* và
Al36P36O144) làm suy giảm khả năng chống ăn mòn
của lớp phủ trong môi trường axit có các tác nhân
gây mài mòn.
Sự có mặt của các pic nhiễu xạ đặc trưng cho
các thành phần pha syn_AlPO4 và Al(PO3)3(N) trên
bề mặt lớp phủ sau khi mẫu được ngâm 168 giờ
trong môi trường H2SO4 pH = 2 có chứa tác nhân
mài mòn chứng tỏ rằng các pha này không bị hòa tan
trong môi trường thử nghiệm.
Lời cảm ơn. Các tác giả cảm ơn sự tài trợ của đề
tài dành cho cán bộ trẻ năm 2015 cấp Viện Kỹ thuật
nhiệt đới, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ
Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. E. M. Leivo, M. S. Vippola, P. P. A. Sorsa, P. M.
Vuoristo and T. A. Mantyla. Wear and corrosion
properties of plasma sprayed Al2O3 and Cr2O3
coatings sealed by aluminum phosphates, Journal of
Thermal Spray Technology, 6(2), 205 (1997).
2. M. Vippola, S. Ahmaniemi, J. Keranen, P. Vuoristo,
T. Lepisto, T. Mantyla, Eva Olsson. Aluminum
phosphate sealed alumina coating: characterization
of microstructure, Materials Science and Engineering
A, 323, 1-8 (2002).
3. S. Ahmaniemi, M. Vippola. Residual stresses in
aluminium phosphate sealed plasma sprayed oxide
coatings and their effect on abrasive wear, Wear,
252, 614-623 (2002).
4. M. Vippola, J. Vuorinen, P. Vuoristo, T. Lepisto, T.
Mantyla. Thermal analysis of plasma sprayed oxide
coatings sealed with aluminium phosphate. Journal of
the European Ceramic Society, 22, 1937-1946
(2002).
5. S. Ahmaniemi, P. Vuoristo, and T. Mantyla.
Improved Sealing Treatments for Thick Thermal
Barrier Coatings, Surface & Coatings Technology,
151-152, 412-417 (2002).
6. S. A. Abd El Gwad, M. S. Morsi, K. F. Ahmed.
Characterization of Air Plasma Sprayed AlPO4 and
Laser-Sealed ZrO2-MgO Coatings on Ni-Base Supper
Alloys of Aero-Engine, Int. J. Electrochem. Sci.,
13020-13043 (2012).
7. Y. Wang, S. L. Jiang, Y. G. Zheng, W. Ke, W. H.
Sun, J. Q. Wang. Effect of porosity sealing treatments
on the corrosion resistance of high-velocity oxy-fuel
(HVOF)-sprayed Fe-based amorphous metallic
coatings, Surface & Coatings Technology, 206,
1307-1318 (2011).
8. Nguyễn Văn Tuấn, Lê Thu Quý, Nguyễn Thu Hoài.
Nghiên cứu chế tạo chất bịt phốt phát nhôm, Tạp chí
Hóa học, 49(2ABC), 796-800 (2011).
9. F. L. Vadim. Impedance Spectroscopy: Applications
to Electrochemical and Dielectric Phenomena, Wiley
(2012).
10. Nguyễn Văn Tuấn, Lê Thu Quý, Phạm Thị Hà, Phạm
Thị Lý, Đỗ Thị Thục, Đào Bích Thủy, Lý Quốc
Cường. Ảnh hưởng của chất bịt phốt phát nhôm tới
khả năng bảo vệ chống ăn mòn của lớp phun phủ hợp
kim NiCr trong môi trường axit sulfuric, Tạp chí Hóa
học, 52(6A), 132-136 (2014).
Liên hệ: Phạm Thị Lý
Viện Kỹ thuật nhiệt đới
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Số 18, đường Hoàng Quốc Việt, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
E-mail: lypham09.nd@gmail.com; Điện thoại: 0973483425.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 9750_36337_1_sm_1506_2085664.pdf