Qua kết quả thực nghiệm có thể thấy khả
năng loại bỏ COD và các thành phần chất
hữu cơ trong nước thải bởi VSV khi có sự
kích thích của muối Guanibiphos ở nồng
độ 10-6 g/l đều cao hơn so với mẫu trắng
(không bổ sung muối), điều đó khẳng
định rằng việc sử dụng muối Guanibiphos
trong xử lý sinh học hiếu khí là rất cần
thiết, và sẽ đạt hiệu quả kinh tế.
Việc bổ sung muối Guanibiphos ở nồng
độ 10-6 g/l giúp tăng sinh khối và tăng
hoạt tính của enzym dehydrogenes lần
lượt gấp 2,7 lần vầ 1,5 lần so với việc
không bổ sung muối.
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khả năng kích thích vi sinh vật của muối guanibiphos trong xử lý hiếu khí nước thải phòng thí nghiệm - Minh Thị Thảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
100
Tạp chí phân tích Hóa, Lý và Sinh học - Tập 22/ sô 1 (đặc biệt)/ 2017
NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG KÍCH THÍCH VI SINH VẬT CỦA MUỐI
GUANIBIPHOS TRONG XỬ LÝ HIẾU KHÍ NƯỚC THẢI PHÒNG THÍ NGHIỆM
Đến tòa soạn 05/12/2016
Minh Thị Thảo, Bùi Đình Nhi, Đàm Thị Thanh Hương
Khoa Công nghệ Môi trường, Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì
Vũ Đình Ngọ, Trần Thị Hằng
Khoa Công nghệ Hóa học, Trường Đại học Công nghiệp Việt Trì
SUMMARY
THE POSSIBILITY TO STIMULUS MICROORGANISMS BY GUANIBIPHOS
SALT IN AEROBIC TREATMENT OF LABORATORY WASTEWATER
The article concerns the results of the influence of low concetration of bioregulator -
Guanibiphos on the process of biological treatment of laboratory wastewater. When
microorganisms were stimulated by Guanibiphos salt at the concentration of 10-6 g/l, they
had higher the ability to remove COD and composition of dissolved organic matter in
wastewater than wastewater without salts. Addition of Guanibiphos could improve the
activity of dehydrogenase enzyme and biomass of activated sludge.
Keywords: laboratory, wastewater, biological, treatment, Guanibiphos, COD
1. MỞ ĐẦU
Nước thải phòng thí nghiệm phát sinh chủ
yếu từ quá trình rửa dụng cụ thí nghiệm,
lưu lượng nước thải tuy không lớn nhưng
lại chứa nhiều thành phần ô nhiễm khác
nhau. Các chất vô cơ và hữu cơ tìm thấy
trong nước thải phòng thí nghiệm gồm:
các hợp chất photpho, Cl-, NO3-, SO42-,
methanol, butanol, chloroform, benzene,
toluene, aceton, cyclohexan, dicloetan
đây là những hợp chất độc, gây ô nhiễm
môi trường, do vậy nước thải này cần
được xử lý triệt để trước khi thải ra môi
trường. Hiện này có nhiều phương pháp
xử lý chúng, nhưng phương pháp được
đánh giá cao là phương pháp sinh học.
Thứ nhất - phương pháp này không gây ô
nhiễm thứ cấp, thứ hai - chi phí năng
lượng trên đơn vị khối lượng loại bỏ chất
tương đối ít [1].
Xử lý sinh học hiếu khí là kết quả hoạt
động của hệ thống "bùn hoạt tính - nước
thải”. Thời gian xử lý sinh học trong bể
sục khí thường kéo dài khoảng 8-16 giờ.
Thời gian xử lý càng lâu thì càng tiêu tốn
điện năng kéo theo hàm lượng khí thải ra
môi trường xung quanh tăng như: oxit
101
nitơ, oxit lưu huỳnh, oxit cacbongây
mưa axit, hiệu ứng nhà kính.
Một trong những biện pháp để tăng cường
hoạt động của xử lý sinh học là kích thích
sự phát triển của các VSV bằng cách sử
dụng các hợp chất hóa học có hoạt tính
sinh học. Trong các hợp chất hữu cơ giúp
kích thích hoạt động của VSV được biết
đến thì axit succinic và các dẫn xuất của
nó được sử dụng nhiều hơn cả [2,3]. Tuy
nhiên, trước sự thiếu hụt của các sản
phẩm và những yêu cầu về hoạt động
chọn lọc đối với từng đối tượng VSV nhất
định, đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải tìm
ra các hợp chất mới có vai trò như chất
kích thích các hoạt động của VSV. Do
vậy, việc tìm ra các hợp chất hóa học
nhằm nâng cao hiệu quả xử lý sinh học
được coi một nhiệm vụ cấp bách hiện nay.
Xuất phát từ trên chúng tôi tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của muối
guanibiphos đến hoạt động của bùn hoạt
tính và hiệu suất xử lý nước thải phòng thí
nghiệm.
2. THỰC NGHIỆM
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nước thải được lấy từ cống thải Trung
tâm thí nghiệm thực hành, trường Đại học
Công nghiệp Việt Trì có các chỉ tiêu đặc
trưng thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1: Nồng độ các chất ô nhiễm trong
nước thải phòng thí nghiệm
Chỉ tiêu Đơn vị Đặc điểm
pH 6,5
COD mg/l 450,7
BOD mg/l 270,2
TSS mg/l 187
Bùn hoạt tính phần lớn là Pseudomonas,
Achomobacter, Alcaligenes, Bacillus,
Micrococcus, Flavobacterium[5].
2.2. Hóa chất, thiết bị
Muối Guanibiphos, 2,3,5-
triphenyltetrazolium chloride (TTC) là
các hóa chất chuẩn có độ tinh khiết trên
99% (Sigma Aldrich, Mỹ). Các dung môi
và hóa chất phân tích: K2Cr2O7, Ag2SO4,
chỉ thị feroin, H2SO4, H3PO4, NaOH,
MgSO4.7H2O, CaCl2, FeCl3 đều là hàng
chuẩn phân tích được mua từ Merck, Đức.
COD và BOD trong nước thải được đo
trên thiết bị Hanna HI 83099-02. Bùn hoạt
tính được ly tâm trên máy mini Hercuvan
TT-3k-30k. Hoạt tính của enzym
dehydrogenase được xác định trên máy đo
quang phổ UV-VIS Spectro-UV16. Hệ
thống GC HP 6890 - 5973N Mass
Selective Detector (Agilent Technologies-
Mỹ).
2.3. Quy trình nghiên cứu
Nước thải được cho vào bể xử lý sinh học
hiếu khí trên mô hình Aerotank, có chứa
bùn hoạt tính và sau đó bổ sung muối
Guanibiphos 10-6 g/l. Đồng thời tiến hành
thí nghiệm với mẫu trắng (chỉ chứa nước
thải và bùn hoạt tính, không bổ sung muối
Guanibiphos). Các bình mẫu thực và mẫu
trắng sau đó được lắc trên tủ ấm lắc với
mục đích cung cấp thêm oxy cho VSV.
Sau các khoảng thời gian nhất định, tiến
hành xác định COD. COD được xác định
dựa trên phương pháp hồi lưu dòng [5].
Sinh khối bùn hoạt tính được tính theo
phương pháp trọng lực: bằng cách ly tâm
30 ml nước thải trong 15 phút ở 13.500
102
rpm (SIGMA 2-16 Centrifuge), sau khi ly
tâm phần còn lại được sấy khô trong tủ
sấy khô ở 105 °C đến khối lượng không
đổi.
Hình 1. Mô hình bể xử lý hiếu khí
Aerotank
Hoạt tính của enzym dehydrogenase được
xác định theo Miksch (1985) sử dụng
2,3,5-triphenyltetrazolium clorua (TTC)
[6].
Thành phần các chất hữu cơ chứa trong
nước thải được xác định trên thiết bị sắc
ký khí khối phổ (GC-MS) GC HP 6890 -
5973N Mass Selective Detector (Agilent
Technologies - Mỹ).
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của muối Guanibiphos
đến hiệu quả xử lý COD theo thời gian
Nghiên cứu về ảnh hưởng của muối
Guanibiphos đến hiệu quả xử lý nước thải
phòng thí nghiệm được tiến hành trên mô
hình xử lý hiếu khí aerotank trong phòng
thí nghiệm. Kết quả thu được được thể
hiện trên Hình 2.
Hình 2. Ảnh hưởng của muối
Guanibiphos đến hiệu quả xử lý COD
theo thời gian
So sánh hiệu quả loại bỏ COD giữa hai
trường hợp cho thấy: trong trường bổ
sung muối Guanibiphos hiệu quả loại bỏ
COD cao hơn hẳn so với trường hợp
không bổ sung muối. Sau 4 h sục khí đối
với trường hợp bổ sung muối, COD đã đạt
110 mg/l (nhỏ hơn QCVN
40:2011/BTNMT cột B có giá trị là 150
mg/l), do đó có thể xả vào nguồn tiếp
nhận không dùng cho mục đích cấp nước
sinh hoạt.
Còn đối với trường hợp không bổ sung
muối Guanibiphos, thậm chí sau 6 h sục
khí COD còn lại trong nước thải vẫn còn
187,2 mg/l, do đó nước muốn xả thải vào
nguồn tiếp nhận chắc chắn phải mất thêm
thời gian xử lý. Hiệu suất xử lý COD sau
6 h của bể Aerotank có muối Guanibiphos
cao hơn gấp 3,4 lần so với hiệu suất xử lý
COD của bể Aerotank không sử dụng
muối. Tất cả nhưng giải thích trên chứng
103
tỏ rằng việc áp dụng sử dụng muối
Guanibiphos vào các công trình xử lý sinh
học hiếu khí, cụ thể là trong bể Aerotank
có công suất lớn ở các nhà máy hay khu
công nghiệp là rất cần thiết vì sẽ giảm chi
phí xử lý, giúp rút ngắn thời gian xử lý từ
đó dẫn đến tiết kiệm khá lớn tiền đầu tư
vào việc xử lý. Việc giảm COD liên quan
trực tiếp đến quá trình tăng sinh khối của
quần thể VSV trong bùn hoạt tính thể
hiện ở Hình 3.
Hình 3. Biểu đồ tăng sinh khối của quần
thể VSV
Từ kết quả thực nghiệm trên Hình 3 cho
thấy sinh khối VSV trong trường hợp
được kích thích bằng muối Guanibiphos
và khi không được kích thích đều trải qua
các pha sinh trưởng: pha lag (pha tiềm
phát), pha logarite, pha cân bằng và pha
suy tàn [4]. Ở pha lag là giai đoạn thích
nghi sinh lý của VSV trong điều kiện nuôi
mới nên tốc độ sinh trưởng của chúng
thường kém, do đó trong giai đoạn đầu (0
- 1 h) không có sự chênh lệch lớn về khối
lượng sinh khối khô. Do do COD (Hình
2) ở giai đoạn này thay đổi không nhiều.
Đến pha logarite, tế bào được phân chia,
sinh khối tăng sinh theo cấp số mũ nên số
lượng tế bào tăng một cách mạnh mẽ,
điều này được thể hiện ở việc sinh khối
khô thu được tăng một cách đột biến.
Cùng với quá trình tăng sinh khối thì hàm
lượng COD giảm mạnh. Sau khi thích
nghi (2 - 5 h) VSV sẽ phát triển một cách
ổn định, chính vì vậy không có sự thay
đổi quá lớn trong sinh khối khô. Sau 5 h
VSV đã chuẩn bị bước vào giai đoạn suy
tàn, sinh khối bắt đầu giảm. Như vậy có
thể dễ dàng thấy rằng trong trường hợp bổ
sung muối Guanibiphos sinh khối của
VSV đều cao hơn so với ở trường hợp
không bổ sung muối: ví dụ như sau 4 h xử
lý sinh khối khô tăng lên 3,55 g khi bổ
sung muối và tăng lên chỉ 1,31 g khi
không có bổ sung muối, nghĩa là sinh
khối khô tăng lên gấp 2,7 lần..
Để giải thích thêm về cơ sở lý thuyết của
việc giảm nồng độ COD nhanh khi bổ
sung muối Guanibiphos với vai trò như
chất kích thích sự phát triển bùn hoạt tính
chúng tôi tiến hành kiểm tra hoạt tính
enzym dehydrogenase. Như đã biết
enzym dehydrogenase không chỉ đóng vai
trò rất quan trọng trong quá trình chuyển
hóa carbohydrate, chất béo, acid amin và
nucleotide; mà còn rất cần thiết trong chu
trình chuyển hóa năng lượng và chu trình
vật chất. Dehydrogenase là enzym cần
thiết cho VSV trong phân huỷ hữu cơ chất
gây ô nhiễm và thu năng lượng. Nói một
cách khác, thông qua hoạt tính của enzym
dehydrogenase có thể đánh giá khả năng
trao đổi chất của VSV [7,8].
104
Như kết quả trên Hình 4, hoạt tính của
enzym dehydrogenase được cải thiện
đáng kể khi bổ sung muối Guanibiphos.
Hoạt tính của enzym dehydrogenase khi
bổ sung muối Guanibiphos với nồng độ
10-6 g/l đều cao hơn so mới việc không bổ
sung muối. Sau 6 h sục khí hoạt tính
enzym dehydrogenase khi bổ sung muối
tăng gấp 1,5 lần so với mẫu không bổ
sung muối. Điều đó có thể chứng minh
rằng việc bổ sung muối trên có thể cải
thiện khả năng trao đổi chất của bùn hoạt
tính, do đó hiệu quả xử lý COD đạt cao
hơn.
Hình 4. Hoạt tính của enzym
dehydrogenase của bùn hoạt tính khi bổ
sung muối Guanibiphos
3.2. Đánh giá hiệu quả kích thích của
muối Guanibiphos nhằm bỏ các thành
phần chất ô nhiễm trong nước thải
phòng thí nghiệm
Để đánh giá mức độ ô nhiễm của nước
thải phòng thí nghiệm, các thành phần ô
nhiễm được xác định bằng phương pháp
phân tích sắc ký khí ghép khối phổ, kết
quả được thể hiện trên Hình 5. Qua biểu
đồ xác định nồng độ một số chất ô nhiễm
như sau: metanol (28 mg/l), etanol (0,9
mg/l), aceton (18,4 mg/l), isobutanol (0,1
mg/l), etyl cellosolve (0,3 mg/l), styren
(1,3 mg/l), o-xylen (0,3 mg/l).
Hình 5. Biểu đồ sắc ký của nước thải
trước xử lý
Hình 6. Biểu đồ sắc ký của nước thải sau
xử lý không bổ sung muối Guanibiphos
Phân tích nước thải sau xử lý khi không
có bổ sung muối Guanibiphos (Hình 6)
thành phần các chất ô nhiễm thay đổi như
sau: metanol (0,2 mg/l), etanol (0,1 mg/l),
etyl cellosolve (0,3 mg/l).
Kết quả phân tích sắc ký khí nước thải có
bổ sung muối Guanibiphos 10-6 g/l (Hình
7) cho thấy trong nước sau xử lý chỉ chứa
etylcellsolve (0,3 mg/l).
105
Hình 7. Biểu đồ sắc ký của nước thải sau
xử lý có bổ sung muối Guanibiphos
Như vậy, khi không bổ sung muối
Guanibiphos nước thải sau xử lý không
đảm bảo loại bỏ hoàn toàn ba thành phần:
metanol, etanol và etyl cellsolve. Trong
trường hợp thêm guanibiphos ở nồng độ
10-6 g/l nước thải trong xử lý hiếu khí
không còn quan sát thấy methanol và
etanol, điều đó cho thấy rằng muối
guanibiphos đã giúp kích thích hoạt động
của VSV bùn hoạt tính trong quá trình
oxy hóa các hợp chất hữu cơ.
4. KẾT LUẬN
Qua kết quả thực nghiệm có thể thấy khả
năng loại bỏ COD và các thành phần chất
hữu cơ trong nước thải bởi VSV khi có sự
kích thích của muối Guanibiphos ở nồng
độ 10-6 g/l đều cao hơn so với mẫu trắng
(không bổ sung muối), điều đó khẳng
định rằng việc sử dụng muối Guanibiphos
trong xử lý sinh học hiếu khí là rất cần
thiết, và sẽ đạt hiệu quả kinh tế.
Việc bổ sung muối Guanibiphos ở nồng
độ 10-6 g/l giúp tăng sinh khối và tăng
hoạt tính của enzym dehydrogenes lần
lượt gấp 2,7 lần vầ 1,5 lần so với việc
không bổ sung muối.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. K. Barbusincki, K. Filipek., “Aerobic
Sludge digestion in the presence of
hydrogen peroxide and Fenton’s
Reagent”, Polish Journal of
environmental Studies, 12, 35-40 (2003).
2. B. Jefferson, J. E. Burgess, A. Pichon,
“Nutrient Addition to Enhance Biological
Treatment of Greywater”, J. Water
Research, 35, 2702-2710 (2001).
3. J. E. Burgess, J. Quarmby, T.
Stephenson, “Micronutrient Supplements
for Optimization of the Treatment of
Industrial Wastewater Using Activated
Sludge”, J. Water Research, 33, 3707-
3714 (1999).
4. Lương Đức Phẩm, “Công nghệ xử lý
nước thải bằng biện pháp sinh học”, Nhà
xuất bản Giáo dục, Hà Nội (2003).
5. Nguyễn Tuấn Anh, “Giáo trình Phân
tích môi trường”, NXB Nông nghiệp Hà
nội (2008).
6. K. Miksch, “Selection of the optimum
methodology to determine the actvity of
activated sludge with the help of TTC
tests (Auswahl einer optimalen Methodik
für die Aktivitätsbestimmung des
Belebtschlammes mit Hilfe des TTC-
Testes)”, Vom Wasser, 64, 187-198
(1985).
7. U. J. Strotmann, A. Keinath, S. H.
Htittenhain, “Biological Test Systems for
Monitoring the Operation of Wastewater
106
Treatment Plants”, J. Chemosphere, 30,
327-338 (1996).
8. N. F. Y. Tam, “Effects of Wastewater
Discharge on Microbial Populations and
Enzyme Activities in Mangrove Soils”, J.
Environmental Pollution, 102, 233 - 242
(1998).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27405_91902_1_pb_1114_2096914.pdf