Nghiên cứu khả năng phát chuyển đổi từ nuôi thủy sản truyền thống sang nuôi thủy sản hữu cơ

Đề tài: Nghiên cứu khả năng phát chuyển đổi từ nuôi thuỷ sản truyền thống sang nuôi thuỷ sản hữu cơ tại xã Tân Dân, An Lão, Hải Phòng Tóm tắt Trong khuôn khổ hoạt động của dự án ADDA-VNFU nhằm khuyến khích phát triển các hệ thống canh tác hữu cơ, nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm đánh giá tiềm năng và khả năng phát triển nuôi cá hữu cơ tại xã Tân Dân, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu bao gồm phỏng vấn không chính thức và tổ chức thảo luận nhóm có sử dụng các công cụ Đánh giá nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (PRA) với sự tham gia vấn đại diện chính quyền xã, huyện, phỏng vấn những người trực tiếp tham gia thương mại sản phẩm thuỷ sản. Nghiên cứu đã mô tả được bức tranh tổng thể về tình hình kinh tế xã hội, hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các cộng đồng cũng như khả năng chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ. Toàn xã Tân Dân có 58 ha ao hồ nuôi cá, năng suất nuôi biến động khá lớn từ 2,6 – 10 tấn/ha/năm. Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có nhiều ao hồ nhỏ, nằm rải rác ở các thôn xóm phục vụ chủ yếu cho việc nuôi cá cải thiện cuộc sống gia đình. Các đối tượng nuôi chủ yếu của xã bao gồm Cá rô hu, cá migral, cá mè hoa, cá trắm cỏ, cá chép, cá trôi ta, cá rô phi và cá chim trắng. Chỉ tính riêng hoạt động thuỷ sản, hàng năm giá trị sản lượng thuỷ sản đã đóng góp khoảng 35% tổng thu nhập toàn xã. Tuy nhiên, hiện nay trong phát triển nuôi trồng thuỷ sản của xã còn gặp một số tồn tại, khó khăn chính như hạn chế về hiểu biết kỹ thuật và kinh nghiệm nuôi, đặc biệt là trong quản lý ao nuôi và phòng trừ dịch bệnh. Sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản hiện nay của Tân Dân được tiêu thụ chủ yếu trên địa bàn xã, các chợ địa phương trên địa bàn huyện An Lão. Ngoài ra, một lượng nhỏ sản phẩm thuỷ sản của xã được vận chuyển đi tiêu thụ tại thị trường thành phố Hải Phòng thông qua hệ thống tư thương, những người buôn bán cá. Nhìn chung, phần lớn người nuôi cá cũng như những người tham gia thương mại sản phẩm thuỷ sản ở Tân Dân đều cho rằng việc chuyển đổi từ hình thức nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ có triển vọng tốt trên địa bàn. Tuy nhiên, người dân địa phương vẫn còn suy nghĩ cho rằng việc chuyển đổi này sẽ làm giảm năng suất, sản lượng, hơn nữa giá trị của sản phẩm nuôi hữu cơ chưa được thị trường nhìn nhận 1 cách đúng đắn do vậy hiệu quả của nuôi cá sẽ giảm. Ngoài ra, để nắm bắt được tiềm năng thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn một số chủ nhà hàng kinh doanh sản phẩm thuỷ sản, các đơn vị chế biến và các siêu thị trên địa bàn Hải Phòng, Hà Nội. Đối với những đối tượng này, sản phẩm thuỷ sản hữu cơ sẽ được đánh giá cao do các sản phẩm này là sản phẩm sạch, không chứa dư lượng kháng sinh, thuốc trừ sâu và các loại thuốc, hoá chất. Tuy nhiên, đối với họ, các khía cạnh môi trường, sinh học trong nuôi cá hữu cơ thường ít được quan tâm hơn. Một trong những vấn đề quan tâm nữa của những người được phỏng vấn là việc giới thiệu và quảng bá sản phẩm nuôi hữu cơ trên thị trường. Tuy nhiên, nếu các tiêu chuẩn nuôi hữu cơ được đảm bảo và được công nhận về pháp lý, người mua sẵn sàng bỏ thêm 10 – 20% giá để mua sản phẩm nuôi hữu cơ. Nghiên cứu cũng đã sử dụng bộ tiêu chuẩn nuôi cá hữu cơ của Nature Land and Bio-Suisse để đánh giá những nhu cầu và các nguyên lý chính để chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ. Để chuyển đổi được, cần quan tâm đến các khía cạnh quản lý nguồn nước, sử dụng con giống có nguồn gốc hữu cơ, sử dụng các loại thức ăn, phân bón có nguồn gốc hữu cơ, không sử dụng các loại kháng sinh, hoá chất và không sử dụng các loại hormones. Việc Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cũng đã được tiến hành. Qua đó cho thấy, các điểm mạnh trong việc chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ bao gồm (i) Tân Dân là xã đầu tiên thực hiện nuôi cá hữu cơ ở miền Bắc Việt nam, đây là lợi thế rất lớn trong vấn đề thị trường, ít chịu cạnh tranh; (ii) Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Tân Dân tương đối phát triển; (iii) Việc nuôi cá hiện nay đang được tiến hành ở mức độ thâm canh thấp, hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hoá chất, cũng như các loại thức ăn nhân tạo. Điểm yếu, điểm hạn chế trong chuyển đổi nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ hiện nay ở Tân Dân đó là việc nhìn nhận của khách hàng đối với sản phẩm hữu cơ nói chung và sản phẩm nuôi thuỷ sản hữu cơ nói riêng. Hiện nay, chưa có kênh thị trường cho sản phẩm hữu cơ. Việc duy trì sản lượng một loại sản phẩm trong cả năm là khó có thể do sự thay đổi lớn về thời tiết, khí hậu, đặc biệt là vào mùa đông. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật, kỹ năng thực hành của người dân xã Tân Dân hiện nay còn hạn chế. Các cơ hội cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ trên địa bàn đó là nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Dự án mong muốn có được sự hỗ trợ của Chính phủ cũng như những cam kết của chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành thuỷ sản nói riêng cũng như tác động của phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến môi trường. Tuy nhiên, sự phát triển của nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ cũng gặp phải những thách thức liên quan đến viễn cảnh chung của người tiêu dùng trong việc sử dụng sản phẩm hữu cơ, đặc biệt là nhu cầu của những người hướng tới những sản phẩm có giá trị cao. Các sản phẩm sạch, an toàn sẽ dần được giám định và xác nhận bởi các cơ sở tiêu thụ có uy tín như Eurepgap và HACCP cũng như các cơ sở chế biến, sẽ là những thách thức và cạnh tranh đáng kể của sản phẩm hữu cơ. Việc đăng ký thương hiệu và giữ bản quyên trên thị trường vẫn là vấn đề đáng quan tâm ở Việt Nam hiện nay. Các nhãn mác sản phẩm dễ dàng được sao chép tạo thành những sản phẩm nhái trên thị trường. trong bối cảnh như vậy, các sản phẩm hữu cơ cần phải được xác nhận và chiếm được vị trí nhất định trên thị trường cũng như trong ý thức của người tiêu thụ. Trong bối cảnh như vậy, việc hình thành mối liên kết giữa các cơ sở chế biến, người sản xuất và hệ thống tư thương là cần thiết nhằm tạo được những triển vọng cho sự phát triển của sản xuất sản phẩm thuỷ sản hữu cơ. Người sản xuất, tư thương và những đối tượng có liên quan khác cần phải được đào tạo về sản xuất sản phẩm hữu cơ cũng như được giới thiệu một cách cặn kẽ quá trình sản xuất sản phẩm hữu cơ. Tuy nhiên, bên cạnh những kỹ thuật sản xuất tiên tiến, việc giới thiệu sản phẩm thuỷ sản hữu cơ sẽ phụ thuộc rất lớn vào vị trị của sản phẩm trên thị trường. Việc nghiên cứu sâu về khía cạnh thị trường, về người tiêu thụ là yếu tố cần thiết. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thị trường, cần phải có các chiến lược tiếp cận thị trường, phải thêểhiện rõ các kênh tiêu thụ sản phẩm và việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản hữu cơ trong giới tiêu thụ. MỤC LỤC Tóm tắt Giới thiệu 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Chuẩn bị nghiên cứu trên thực địa 2.2. Phỏng vấn nhà hàng, khách sạn, siêu thị 3. Các phương thức sản xuất hiện tại 3.1. Thông tin về xã Tân Dân 3.2. Các sự kiện lịch sử 3.3. Sinh kế 3.4. Hệ thống sản xuất 3.4.1.Các loài thủy sản 3.4.2.Quản lý chăm sóc ao nuôi 3.4.3.Chế độ cho ăn và nguồn dinh dưỡng 3.4.4.Thả cá, chăm sóc và thu hoạch 3.4.5.Bệnh dịch 4. Cơ chế tiêu thụ sản phẩm 4.1. Buôn bán cá ở xã Tân Dân 4.2. Người tiêu dùng 4.2.1. Nhà hàng khách sạn 4.2.2. Siêu thị 4.2.3. Nhà máy chế biến 5. Chuyển đổi sang hình thức nuôi cá hữu cơ 5.1. Định hướng chung 5.1.1.Thủ tục giao khoán và chứng nhận 5.1.2.Nguyên tắc quản lý 5.2. Phân tích SWOT đối với nghề NTTS ở xã Tân Dân 5.2.1.Phân tích nội tại: Điểm mạnh và điểm yếu 5.2.2. Phân tích ngoại cảnh: Cơ hội và thách thức 6. Khuyến nghị 6.1. Cấp độ sản xuất ở trang trại (yếu tố bên trong) 6.2. Thị trường (yếu tố bên ngoài) Tài liệu tham khảo (61 TRANG) Nghiên cứu khả năng phát chuyển đổi từ nuôi thủy sản truyền thống sang nuôi thủy sản hữu cơ

doc48 trang | Chia sẻ: banmai | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu khả năng phát chuyển đổi từ nuôi thủy sản truyền thống sang nuôi thủy sản hữu cơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu khả năng phát chuyển đổi từ nuôi thuỷ sản truyền thống sang nuôi thuỷ sản hữu cơ tại xã Tân Dân, An Lão, Hải Phòng ADDA – TWHND Irmen Mantingh Nguyễn Xuân Cương Nguyễn Huy Điền Tháng 1 năm 2006 Tóm tắt Trong khuôn khổ hoạt động của dự án ADDA-VNFU nhằm khuyến khích phát triển các hệ thống canh tác hữu cơ, nghiên cứu này đã được tiến hành nhằm đánh giá tiềm năng và khả năng phát triển nuôi cá hữu cơ tại xã Tân Dân, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Các phương pháp áp dụng trong nghiên cứu bao gồm phỏng vấn không chính thức và tổ chức thảo luận nhóm có sử dụng các công cụ Đánh giá nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (PRA) với sự tham gia vấn đại diện chính quyền xã, huyện, phỏng vấn những người trực tiếp tham gia thương mại sản phẩm thuỷ sản. Nghiên cứu đã mô tả được bức tranh tổng thể về tình hình kinh tế xã hội, hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các cộng đồng cũng như khả năng chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ. Toàn xã Tân Dân có 58 ha ao hồ nuôi cá, năng suất nuôi biến động khá lớn từ 2,6 – 10 tấn/ha/năm. Ngoài ra, trên địa bàn xã còn có nhiều ao hồ nhỏ, nằm rải rác ở các thôn xóm phục vụ chủ yếu cho việc nuôi cá cải thiện cuộc sống gia đình. Các đối tượng nuôi chủ yếu của xã bao gồm Cá rô hu, cá migral, cá mè hoa, cá trắm cỏ, cá chép, cá trôi ta, cá rô phi và cá chim trắng. Chỉ tính riêng hoạt động thuỷ sản, hàng năm giá trị sản lượng thuỷ sản đã đóng góp khoảng 35% tổng thu nhập toàn xã. Tuy nhiên, hiện nay trong phát triển nuôi trồng thuỷ sản của xã còn gặp một số tồn tại, khó khăn chính như hạn chế về hiểu biết kỹ thuật và kinh nghiệm nuôi, đặc biệt là trong quản lý ao nuôi và phòng trừ dịch bệnh. Sản phẩm nuôi trồng thuỷ sản hiện nay của Tân Dân được tiêu thụ chủ yếu trên địa bàn xã, các chợ địa phương trên địa bàn huyện An Lão. Ngoài ra, một lượng nhỏ sản phẩm thuỷ sản của xã được vận chuyển đi tiêu thụ tại thị trường thành phố Hải Phòng thông qua hệ thống tư thương, những người buôn bán cá. Nhìn chung, phần lớn người nuôi cá cũng như những người tham gia thương mại sản phẩm thuỷ sản ở Tân Dân đều cho rằng việc chuyển đổi từ hình thức nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ có triển vọng tốt trên địa bàn. Tuy nhiên, người dân địa phương vẫn còn suy nghĩ cho rằng việc chuyển đổi này sẽ làm giảm năng suất, sản lượng, hơn nữa giá trị của sản phẩm nuôi hữu cơ chưa được thị trường nhìn nhận 1 cách đúng đắn do vậy hiệu quả của nuôi cá sẽ giảm. Ngoài ra, để nắm bắt được tiềm năng thị trường tiêu thụ sản phẩm nội địa, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn một số chủ nhà hàng kinh doanh sản phẩm thuỷ sản, các đơn vị chế biến và các siêu thị trên địa bàn Hải Phòng, Hà Nội. Đối với những đối tượng này, sản phẩm thuỷ sản hữu cơ sẽ được đánh giá cao do các sản phẩm này là sản phẩm sạch, không chứa dư lượng kháng sinh, thuốc trừ sâu và các loại thuốc, hoá chất. Tuy nhiên, đối với họ, các khía cạnh môi trường, sinh học trong nuôi cá hữu cơ thường ít được quan tâm hơn. Một trong những vấn đề quan tâm nữa của những người được phỏng vấn là việc giới thiệu và quảng bá sản phẩm nuôi hữu cơ trên thị trường. Tuy nhiên, nếu các tiêu chuẩn nuôi hữu cơ được đảm bảo và được công nhận về pháp lý, người mua sẵn sàng bỏ thêm 10 – 20% giá để mua sản phẩm nuôi hữu cơ. Nghiên cứu cũng đã sử dụng bộ tiêu chuẩn nuôi cá hữu cơ của Nature Land and Bio-Suisse để đánh giá những nhu cầu và các nguyên lý chính để chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ. Để chuyển đổi được, cần quan tâm đến các khía cạnh quản lý nguồn nước, sử dụng con giống có nguồn gốc hữu cơ, sử dụng các loại thức ăn, phân bón có nguồn gốc hữu cơ, không sử dụng các loại kháng sinh, hoá chất và không sử dụng các loại hormones. Việc Phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức cũng đã được tiến hành. Qua đó cho thấy, các điểm mạnh trong việc chuyển đổi từ nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ bao gồm (i) Tân Dân là xã đầu tiên thực hiện nuôi cá hữu cơ ở miền Bắc Việt nam, đây là lợi thế rất lớn trong vấn đề thị trường, ít chịu cạnh tranh; (ii) Cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và phát triển nuôi trồng thuỷ sản của Tân Dân tương đối phát triển; (iii) Việc nuôi cá hiện nay đang được tiến hành ở mức độ thâm canh thấp, hạn chế sử dụng các loại thuốc kháng sinh, hoá chất, cũng như các loại thức ăn nhân tạo. Điểm yếu, điểm hạn chế trong chuyển đổi nuôi cá truyền thống sang nuôi cá hữu cơ hiện nay ở Tân Dân đó là việc nhìn nhận của khách hàng đối với sản phẩm hữu cơ nói chung và sản phẩm nuôi thuỷ sản hữu cơ nói riêng. Hiện nay, chưa có kênh thị trường cho sản phẩm hữu cơ. Việc duy trì sản lượng một loại sản phẩm trong cả năm là khó có thể do sự thay đổi lớn về thời tiết, khí hậu, đặc biệt là vào mùa đông. Hơn nữa, trình độ kỹ thuật, kỹ năng thực hành của người dân xã Tân Dân hiện nay còn hạn chế. Các cơ hội cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ trên địa bàn đó là nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm sạch, sản phẩm an toàn trên thị trường nội địa và xuất khẩu. Dự án mong muốn có được sự hỗ trợ của Chính phủ cũng như những cam kết của chính phủ trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành thuỷ sản nói riêng cũng như tác động của phát triển nuôi trồng thuỷ sản đến môi trường. Tuy nhiên, sự phát triển của nuôi trồng thuỷ sản hữu cơ cũng gặp phải những thách thức liên quan đến viễn cảnh chung của người tiêu dùng trong việc sử dụng sản phẩm hữu cơ, đặc biệt là nhu cầu của những người hướng tới những sản phẩm có giá trị cao. Các sản phẩm sạch, an toàn sẽ dần được giám định và xác nhận bởi các cơ sở tiêu thụ có uy tín như Eurepgap và HACCP cũng như các cơ sở chế biến, sẽ là những thách thức và cạnh tranh đáng kể của sản phẩm hữu cơ. Việc đăng ký thương hiệu và giữ bản quyên trên thị trường vẫn là vấn đề đáng quan tâm ở Việt Nam hiện nay. Các nhãn mác sản phẩm dễ dàng được sao chép tạo thành những sản phẩm nhái trên thị trường. trong bối cảnh như vậy, các sản phẩm hữu cơ cần phải được xác nhận và chiếm được vị trí nhất định trên thị trường cũng như trong ý thức của người tiêu thụ. Trong bối cảnh như vậy, việc hình thành mối liên kết giữa các cơ sở chế biến, người sản xuất và hệ thống tư thương là cần thiết nhằm tạo được những triển vọng cho sự phát triển của sản xuất sản phẩm thuỷ sản hữu cơ. Người sản xuất, tư thương và những đối tượng có liên quan khác cần phải được đào tạo về sản xuất sản phẩm hữu cơ cũng như được giới thiệu một cách cặn kẽ quá trình sản xuất sản phẩm hữu cơ. Tuy nhiên, bên cạnh những kỹ thuật sản xuất tiên tiến, việc giới thiệu sản phẩm thuỷ sản hữu cơ sẽ phụ thuộc rất lớn vào vị trị của sản phẩm trên thị trường. Việc nghiên cứu sâu về khía cạnh thị trường, về người tiêu thụ là yếu tố cần thiết. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thị trường, cần phải có các chiến lược tiếp cận thị trường, phải thêểhiện rõ các kênh tiêu thụ sản phẩm và việc tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản hữu cơ trong giới tiêu thụ. Các từ viết tắt    ADDA  Agricultural Development Denmark Asia (Tổ chức phát triển Nông nghiệp Đan Mạch – Châu Á)   BAP  Best Aquaculture Practice (Thực hành NTTS tối ưu)   HND  Hội Nông dân   GAP  Good Aquaculture Practise (Thực hành NTTS tốt)   HACCP  Hazard Analysis Critical Control Points   IFOAM  International Federation of Organic Agriculture Movements (Liên đoàn các Phong trào Nông nghiệp Hữu cơ Thế giới)   IIED  International Institute for Environment and Development (Viện Môi trường và Phát triển Quốc tế)   PRA  Đánh giá nông thôn có sự tham gia cộng đồng   VNCNTTS  Viện Nghiên cứu NTTS I   USD  Đô la Mỹ   VKHNN  Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam   VND  Đồng Việt Nam   TWHND  Trung ương Hội Nông dân Việt Nam   Giới thiệu ADDA và Trung ương Hội nông dân Việt Nam (VNFU) đang tiến hành dự án nghiên cứu và hình thành hệ thống sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam. Cả hai tổ chức này đều nhìn nhận sản phẩm nông nghiệp hữu cơ là một trong những công cụ nâng cao vai trò xã hội của các cộng đồng nông thôn. Trên cơ sở đó, một dự án hợp tác đã được hình thành nhằm phục vụ cho việc phát triển nông nghiệp hữu cơ. Dự án sẽ được triển khai ở Đồng bằng Sông Hồng, bao gồm Hà Nội và một số tỉnh lân cận, với mục tiêu sản xuất nông phẩm cho các thị trường chính của miền Bắc – Hà Nội và Hải Phòng. Các địa điểm dự án được lựa chọn theo tiêu chí có thể làm đại diện cho những hệ thống canh tác chủ yếu ở vùng này. Ở Việt Nam, nếu quy chiếu theo tiêu chuẩn quốc tế về sản xuất, nền sản xuất nông nghiệp hữu cơ mới chỉ được bắt đầu. Trong 2-3 năm trở lại đây, một số dự án nhỏ về sản xuất hữu cơ đã cho thấy việc phát triển lĩnh vực này có tiềm năng phát triển tốt. Tuy nhiên, với những đặc thù cơ bản hiện nay của nông nghiệp Việt Nam về quy mô nông trại, nguồn lao động, tiền vốn và phương thức luân canh rau màu, chúng ta vẫn chưa xác định được chính xác loại hình canh tác nông nghiệp hữu cơ nào là phù hợp. Hầu hết những kinh nghiệm thu được về nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam cho đến nay vẫn tập trung vào trồng trọt, với các sản phẩm chủ yếu là rau xanh, trà và các loại gia vị (gừng, hồi, quế…). Tuy nhiên, do nông nghiệp hữu cơ chủ yếu dựa vào phương thức canh tác kết hợp, nên cần chú ý đến cả nghề chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Ở miền Nam, một số chương trình NTTS hữu cơ quy mô nhỏ đang được xây dựng, nhưng những thông tin chung về tính khả thi của NTTS hữu cơ, đặc biệt trong điều kiện miền Bắc (nơi dự án được triển khai) vẫn còn thiếu. Bởi vậy, cần phải nghiên cứu chi tiết khu vực này, để cho phép dự án xây dựng phương pháp luận cụ thể cho phát triển NTTS hữu cơ. Trong báo cáo này, những kết quả nêu ra được rút từ việc phân tích sơ bộ đối với hệ thống NTTS và các kênh tiêu thụ ở xã Tân Dân, Hải Phòng. Dự án ADDA-VNFU đã xác định những mục tiêu sau: Các nông trại sản xuất hữu cơ và người tiêu dùng được tổ chức thành các hợp tác xã, hiệp hội hoặc tổ nhóm, và thực hiện việc quản lý sản xuất các mặt hàng nông phẩm hữu cơ được cấp phép cũng như việc cung cấp các sản phẩm này ra thị trường địa phương. Mục tiêu cụ thể của quá trình nghiên cứu NTTS hữu cơ là: Mô tả các phương thức sản xuất hiện tại đối với các đối tượng nuôi trồng nước ngọt ở một số khu vực trọng điểm của huyện An Lão, Hải Phòng; Mô tả các cơ chế tiêu thụ hiện tại đối với các sản phẩm nuôi trồng nói trên; Phân tích các phương thức sản xuất hiện tại nhằm xác định những tiềm năng và trở ngại đối với việc chuyển đổi sang hình thức sản xuất hữu cơ (bằng cách phân tích SWOT); Đề xuất những kiến nghị về kỹ thuật đối với quá trình NTTS hữu cơ, trong đó có thức ăn, tỷ lệ thả, phương pháp thu hoạch… Những khuyến nghị này cũng cần phải bao hàm cả những biện pháp cụ thể sẽ được thực hiện trong 2 năm đầu của quá trình chuyển đổi. Nhóm nghiên cứu gồm tổng cộng 6 người (xem Bảng 1) Bảng 1 Thành viên nhóm nghiên cứu Họ tên  Chức vụ   Bà Nguyễn Thị Loan  Phó Giám đốc kiêm Điều phối viên Dự án   Bà Irmen Mantingh (trưởng nhóm nghiên cứu)  Chuyên gia tư vấn thủy sản   Ông Nguyễn Huy Điền  Phó Giám đốc – TT Khuyến ngư Quốc gia – Bộ Thủy sản   Ông Nguyễn Xuân Cương  Cán bộ Kinh tế - Xã hội (VNCNTTS)   Bà Hoàng Thị Mai Hương  Phiên dịch (Trụ sở TWHND tại Hà Nội)   Ông Phùng Hưng Mạnh  Trợ lý phỏng vấn (VP TWHND tại Hải Phòng)   Trong chương 2, chúng tôi sẽ trình bày các phương pháp nghiên cứu và phỏng vấn đã áp dụng. Chương 3 là kết quả nghiên cứu. Chương 4 tập trung vào các cơ chế tiêu thụ sản phẩm cá nước ngọt. Chương 5 phân tích yêu cầu chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp hữu cơ và trong chương 6 là các kiến nghị thực thi canh tác hữu cơ cũng như hoạt động nghiên cứu cần triển khai tiếp. 2 Phương pháp nghiên cứu 2.1 Chuẩn bị nghiên cứu trên thực địa Điểm nghiên cứu tại xã Tân Dân (Hải Phòng) đã được chọn trong khung lô-gic của dự án 5 năm giữa ADDA-TWHND. Khu vực dự án được lựa chọn với mục đích làm đại diện cho các hệ thống canh tác khác nhau của miền Bắc. Xã Tân Dân là một địa điểm với đặc trưng của hệ thống nông nghiệp tập trung vào NTTS, kết hợp với chăn nuôi và trồng trọt (ở quy mô hạn chế) như trồng lúa, ngô. Xã này vốn có truyền thống nuôi cá từ vài chục năm nay. 20 nông hộ trong xã được chọn theo tiêu chí: các hộ này phải có diện tích đất đủ lớn cho nuôi cá hữu cơ, có đủ điều kiện để áp dụng các phương thức canh tác hữu cơ (tức là không bị thiếu nguồn nước nghiêm trọng, có đủ lao động), sẵn sàng tham gia tổ nhóm và các hoạt động dự án một cách tự nguyện, và phải là những nông dân sinh sống thuần túy dựa vào nghề nông, với diện tích canh tác (không kể đất rừng) từ 5 đến 20 sào mỗi hộ. TWHND mời các cán bộ tỉnh, xã và các thương nhân tham gia phỏng vấn (xem danh sách trong Phụ lục 1). Kế hoạch nghiên cứu tổng thể được trình bày trong phụ lục 2. Hoạt động nghiên cứu thực địa chủ yếu áp dụng các nguyên lý của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia cộng đồng (PRA) nhằm tìm hiểu nhận thức của các chủ thể liên quan đối với phương thức NTTS, trao đổi hàng hóa và tiềm năng nuôi hữu cơ ở xã Tân Dân. Trước hết, 2 phỏng vấn viên hướng dẫn 4 thành viên khác của nhóm về các nguyên tắc của PRA trong vòng nửa ngày, để họ làm quen với phương pháp này và có thể giúp đỡ tốt hơn các phỏng vấn viên trong quá trình phỏng vấn. Việc tập huấn chủ yếu tập trung vào các công cụ PRA sẽ sử dụng khi phỏng vấn (xem tài liệu tập huấn trong phụ lục 3). Những ví dụ về công cụ PRA được trích dẫn từ công trình của Pretty và CTV (1995). Khi chuẩn bị nghiên cứu, các bảng đề mục câu hỏi riêng rẽ đã được xây dựng cho từng nhóm đối tượng nông dân, cán bộ, tư thương trong xã (phụ lục 4a+). Hầu hết thời gian phỏng vấn được dành cho nông dân, vì họ là chủ thể chính trong sản xuất NTTS. 2.2 Phỏng vấn nhà hàng, khách sạn, siêu thị Một cuộc khảo sát nhỏ được thực hiện với 3 đầu bếp của các nhà hàng – khách sạn hàng đầu của Hà Nội và với một siêu thị của Hải phòng về cá và các sản phẩm từ cá trong năm 2005. Trong cuộc khảo sát này, chúng tôi cố gắng tìm câu trả lời cho các vấn đề về lượng cá tiêu thụ, giá cá và cơ cấu tiêu dùng với từng loài cá, tìm hiểu về nhận thức và thái độ của các đầu bếp và người quản lý siêu thị đối với cá nuôi hữu cơ. 2 bộ câu hỏi đã được chuẩn bị (phụ lục 5a+b). Vì lý do tế nhị, tên các khách sạn và nhà hàng sẽ không được nêu trong báo cáo này. Một nhà máy chế biến thủy sản cũng được phỏng vấn để xác định nhu cầu cá nước ngọt đã qua chế biến trên thị trường trong nước và xuất khẩu. 3 Các phương thức sản xuất hiện tại 3.1 Thông tin về xã Tân Dân Xã Tân Dân nằm ở trung tâm huyện An Lão, cách TP Hải Phòng 20 km. Xã Tân Dân có 7 làng: Việt Khê, Vị Xuyên, Đại Hoàng, Xóm Chùa, Xóm Gua, Lai Hà and Xóm Duong. Các làng này đều ở sát sông, và khu vực đất trũng của xã vốn có truyền thống nuôi cá từ lâu. Diện tích xã là 589 ha, trong đó có 325 ha lúa, 3 ha rau màu, 58 ha ao cá. Xã được bao bọc bởi một mạng lưới sông ngòi, cung cấp nước cho nghề nuôi thủy sản. Năm 2004, dân số toàn xã là 6667 người, với 1.674 hộ. Tổng số lao động là 2.587, chiếm 38,8% dân số. Lao động nông nghiệp chiếm 90,1% (2.350 người) trong lực lượng lao động. Trên 1.000 hộ (60 – 70%) trong xã có ao nuôi cá. Về điều kiện kinh tế, các hộ có thể chia ra 3 nhóm: 1) hộ khá (chiếm 57%); 2) hộ trung bình (34%), và 3) hộ nghèo (9%) (xem hình 1).  Hình 1 Phân loại kinh tế hộ ở xã Tân Dân Các sự kiện lịch sử Các nông dân được yêu cầu vẽ trục thời gian với các sự kiện chính liên quan đến nuôi trồng thủy sản (bảng 2). Trước năm 1960, nghề NTTS chủ yếu diễn ra dưới hình thức quảng canh và diện tích sản xuất NTTS một phần thuộc sở hữu tập thể, với 20 người tham gia quản lý, và một phần do HTX quản lý (cũng với 20 ngườI). Năng suất nuôi vào thời gian đó khá thấp, chỉ đạt khoảng 2,8 tấn/ha (bảng 3). Người dân địa phương thường bắt cá từ tự nhiên. Ngư trường khai thác không chỉ hạn chế trong phạm vi huyện mà người dân còn đi đánh bắt ở các nơi khác như Thái Thụy (Thái Bình), Ninh Giang (Hải Dương). Năm 1960 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng. HTX Nông nghiệp được thành lập, với hai tổ nuôi cá làm thành viên phụ trách sản xuất giống và ương nuôi cá thịt. Sản lượng cá tăng vọt. Các giống cá mè trắng, trắm cỏ, trôi được sản xuất và cung ứng cho các hộ dân trong xã cũng như các huyện và tỉnh khác. Hai tổ nuôi cá này còn tồn tại mãi đến năm 1985. Bảng 2 Các sự kiện quan trọng trong lịch sử nghề nuôi trồng thủy sản ở xã Tân Dân Năm  Sự kiện   Trước 1960  Người dân chủ yếu đánh bắt cá tự nhiên; sản lượng NTTS còn thấp.   1960  Hợp tác xã nông nghiepẹ thành lập   1979  Thành ủy Hải Phòng ra Quyết định 24, khuyến khích 3 xã Tân Dân, Thái Sơn và An Thắng hợp tác thả cá và quản lý sông ngòi trên địa bàn 3 xã này   1986  Chính sách Đổi mới ra đời; đất nông nghiệp được chia đều cho các nhân khẩu trong xã   1987  Các hộ dân quản lý phần đất và mặt nước được chia. NTTS bắt đầu phát triển   1989  Cải tạo bờ sông, thả cá   1990  - Ông Liên (Việt Khê) thả vào diện tích ao 10ha của mình cá trắm cỏ, mè trắng, chép, trôi Ấn, rô phi và trôi ta. Các hộ dân khác lập tức làm theo - Hệ thống ao chuôm được xây dựng - Trận lụt lớn phá hủy cơ sở vật chất của nghề NTTS, toàn bộ cá nuôi bị mất - Tư thương tìm đến xã để mua bán   1992  Thức ăn tự nhiên cho cá trong ao tăng lên, do lần đầu tiên áp dụng bón phân   1994  Lần đầu tiên xuất hiện dịch bệnh, khiến cá trắm chết hàng loạt Đưa thuốc kháng sinh vào sử dụng   1995  Áp dụng bón phân (NPK). Các hộ tư nhân bắt đầu ương nuôi cá giống   1997  Cá rô phi đơn tính và cá trê được đưa vào nuôi tại xã   2000  Lần đầu được chuyển giao công nghệ và tổ chức tập huấn về khuyến ngư Đưa vào nuôi các đối tượng mới: rô phi, chim trắng, cá chép   2002  Lần đầu tiên xảy ra dịch bệnh đối với trôi Ấn   2004  Đầu năm bị thiếu nước, nhưng cuối năm bị lũ lụt nghiêm trọng làm phá hủy ao chuôm, khiến tòan bộ cá nuôi bị mất Nghề nuôi cá trôi ta chấm dứt   2005  Nuôi cá hữu cơ được phổ biến   Sau đợt cải cách về đất đai năm 1986 (trong phong trào “Đổi mới”) và vào năm 1988, diện tích NTTS được giao cho các hộ dân. Từ đó trở đi, nghề NTTS chuyển sang hướng thâm canh và diện tích mặt nước ao của mỗi hộ đã được tăng thêm. Tổng diện tích NTTS lúc này đạt 19 ha. Ông Tèo và ông Đậu (Lai Thi) là những người đầu tiên mở rộng và cải tiến ao nuôi nhà mình, gia cố bờ ao, thả cá giống nhưng vẫn chưa chăm sóc theo đúng nghĩa (không cho cá ăn). Cá nuôi chủ yếu ăn các thức ăn tự nhiên như cỏ, bèo, rau xanh. Khi lượng thức ăn tự nhiên bị giảm sút, vào năm 1992, người dân đã bắt đầu bón phân gây màu để nâng cao sản lượng. Năm 1997, cá rô phi đơn tính và cá trê được đưa vào nuô. Đến năm 2000, tại xã đã tổ chức lớp tập huấn khuyến ngư đầu tiên cho người dân tiếp cận với kỹ thuật nuôi tiên tiến. Trong giai đoạn 1990 – 2005, 100 hộ có diện tích ao lớn, 1000 hộ có ao nhỏ, và tổng số diện tích đã tăng lên 58 ha vào cuối năm 2005. Năm 1990, các hộ nông dân được giao sử dụng đất nông nghiệp trong 10 năm (đến năm 1995 rút xuống còn 5 năm). Năm 2003, họ được giao lại với thời hạn 10 năm. Bảng 3 Phát triển nuôi trồng thủy sản về số lượng hộ nuôi, diện tích nuôi, năng suất và thu nhập từ 1960 đến nay Giai đoạn  Số hộ gia đình  Diện tích sản xuất (ha)*  Năng suất (tấn/ha)  Thu nhập (tỷ đồng)  % tổng thu nhập   1960-1990  20  7,39  2,8 (100 kg/sào)  Các hộ không nhớ chính xác  không nhớ chính xác   1990-2000  Không có số liệu  34  4,2 (150 kg/sào)  Các hộ không nhớ chính xác  không nhớ chính xác   2000-2005  1100  58  7,2 (170 kg/sào)  2.6  25   Chú thích: * Diện tích được mở rộng nhờ chuyển đổi ruộng năng suất thấp sang NTTS Sinh kế Ở xã Tân Dân, sản xuất nông nghiệp (lúa, rau màu) là hoạt động chính, với 100% số hộ tham gia. Hầu hết các hộ nuôi trâu bò, lợn, gà (90%). Trong 85% số hộ, NTTS có một vai trò quan trọng. Các hoạt động phi nông nghiệp đứng ở vị trí thấp hơn (xem bảng 4). Bảng 4 Các hoạt động tạo thu nhập ở xã Tân Dân và % các hộ tham gia Họat động  Tỷ lệ hộ tham gia   Trồng trọt (lúa, rau màu)  100%   Chăn nuôi (trâu bò, lợn, gia cầm)  >90%   NTTS (ương, nuôi)  85   Các hoạt động phi nông nghiệp (cơ khí, mộc, nề, ….)  20 – 30%   Buôn bán (rau quả, vật tư, ăn uống, chạy chợ hoặc bán hàng tại nhà)  10%   Trung bình trong mỗi hộ dân, 50% nguồn thu nhập là từ trồng trọt, 35% từ NTTS, 15% từ các hoạt động khác (hình 3a). Tại các hộ có nghề NTTS là hoạt động tạo thu nhập chính, thì NTTS đóng góp tới 80% tổng thu nhập, còn lại trồng trọt 15% và các hoạt động khác 5% (hình 3b).   Hình 2 Đóng góp từ các hoạt động kinh tế vào thu nhập bình quân (a) xã Tân Dân, và (b) đối với hộ nuôi cá Mỗi hộ có tổng thu nhập khác nhau tùy thuộc vào nguồn tạo thu nhập đó. Tổng thu nhập của một hộ lấy NTTS làm nghề chính đạt khoảng 15 triệu đồng (tương đương 1000 USD) đến 150 triệu đồng (10.000 USD) mỗi năm, và trung bình đạt 35 triệu đồng (2200 USD). Chi phí sản xuất và sinh hoạt chiếm đến 70-80% tổng thu nhập. Việc mua sắm vật tư - trang thiết bị NTTS tốn kém nhất, tiếp đó là đến chi phí mua giống (Bảng 5). Tiền tiết kiệm hàng năm dao động từ 5 triệu đến 30 triệu đồng, và trung bình là 10 triệu. Bảng 5 Các khoản chi phí theo miêu tả của các hộ NTTS – thứ tự theo tầm quan trọng Loại chi phí  Xếp hạng   Vật tư - trang thiết bị  1   Giống  2   Thuê lao động  3   Sinh hoạt  4   Chi phí xã hội  5   Trả lãi tín dụng  6   Sửa chữa phương tiện sản xuất  7   Chú thích: 1= quan trọng nhất; 7 = ít quan trọng nhất Lao động tại chỗ được chia ra thành 2 nhóm nam và nữ (bảng 6). Phụ nữ mỗi ngày dành 5 giờ cho công việc nội trợ, từ nấu ăn, giặt giũ, đi chợ đến chăm sóc con cái. Họ cũng tham gia canh tác nông nghiệp: cho lợn gà ăn, chở phân bón ra ao. Bảng 6 Những hoạt động nông nghiệp phân chia theo giới Nam giới  Nữ giới   Cắt cỏ  Nấu ăn   Cày bừa  Đi chợ   Thủy lợi  Cho cá ăn   Trồng lúa  Chăm sóc con cái   Trông ao  Giặt giũ   Bơm nước  Cho lợn gà ăn   Khuấy dẻo  Cắt cỏ   Cho cá ăn  Chở phân bón ra ngoài ao   Giặt giũ    Cho lợn gà ăn    Trông coi bờ ao    Đánh bắt cá    Nam giới dành nhiều thời gian quản lý chăm sóc ao cá hơn phụ nữ (bảng 7), nhưng 2 việc dành riêng cho phụ nữ là cắt cỏ và chở phân bón ra ao. Thời gian dành cho ao cá thường chiếm khoảng 3 giờ mỗi ngày, không kể thời gian trông coi vào buổi tối và ban đêm, vì nạn trộm cá diễn ra khá nghiêm trọng, có lúc bị mất tới 40 kg cá mỗi đêm. Bảng 7 Mức độ tham gia vào các hoạt động NTTS theo giới Hoạt động  Nam giới (% thời gian)  Nữ giới (% thời gian)   Thả cá giống  80  20   Cho cá ăn (1giờ)  80  20   Lấy cỏ (4 giờ)  20  80   Bón phân cho ao cá  80  20   Quyết định loài nuôi  90  10   Quyết định thu hoạch  80  20   Thu hoạch  90  10   Tính toán thu chi  50  50   Tham gia tập huấn  70  30   Bán cá  50  50   Thăm ao (1giờ)  50  50   Canh ao (12 giờ)  100  0   Chú thích: Số liệu trong ngoặc thể hiện thời gian trong ngày Thể chế Ở xã có những cơ quan, tổ chức khác nhau tác động đến sinh kế nói chung cũng như hoạt động NTTS nói riêng của người dân (hình 4). HND xã Tân Dân có vai trò rất quan trọng, vì họ đại diện cho các hộ nông dân và có quan hệ mật thiết với HND huyện (An Lão) cũng như Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng. Biểu đồ Venn (hình 4) cho thấy mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức với nông dân nuôi cá và các tổ chức khác. Tầm quan trọng của các cơ quan, tổ chức này đối với nông dân được nêu trong bảng 8.  Hình 4 Sơ đồ các cơ quan, tổ chức có vai trò quan trọng đổi với nông dân nuôi cá ở Tân Dân (theo thứ tự quan trọng từ to đến nhỏ, và cấp độ ảnh hưởng từ xa đến gần) Bảng 5 Các cơ quan, tổ chức có vai trò quan trọng đối với người dân – các hoạt động và hạn chế của họ Cơ quan, tổ chức  Thời gian thành lập  Mức quan trọng  Hoạt động  Hạn chế   1. Chính quyền (cấp xã)  Không biết  Rất quan trọng  Đề ra phương hướng chỉ đạo phát triển kinh tế xã hội Lập quy hoạch, kế hoạch Quản lý, giám sát Tuyên truyền chính sách, xây dựng chiến lược Cung cấp thông tin  Sự tham gia chỉ ở mức dộ chung chung, không tập trung vào hoạt đọng nào cụ thể   2. HND xã  Những năm 1990  Quan trọng  Liên hệ TTKN để chuyển giao công nghệ và giống Huy động tín dụng ngân hàng cho các hội viên vay Tuyên truyền chủ trương, chính sách của nhà nước Tổ chức tham quan học tập Xây dựng mô hình Cung cấp thông tin  Năng lực cán bộ HND còn hạn chế Nguồn lực còn hạn chế   3. TTKN  Không biết  Quan trọng  Cung cấp kỹ thuật Cung cấp giống Liên hệ với cơ sở  Không giải quyết được vấn đề tiêu thụ SP Kinh phí hạn chế   4. Dịch vụ đầu vào - đầu ra  Những năm 1990  Rất quan trọng  Cung cấp giống, vật tư Tiêu thụ SP Hỗ trợ vốn (cho mua chịu)  Độc quyền, thường tự quyết định giảm giá SP   5. Ngân hàng  Không biết  Quan trọng  Cung cấp vốn Hỗ trợ người dân tiếp cận vốn vay (hướng dẫn giấy tờ, thủ tục vay vốn)  Thời gian vay quá ngắn Thủ tục phức tạp Chậm giải ngân (sau khi nộp đơn xin vay) Vốn vay hạn chế   6. Hội PN  Không biết  Quan trọng  Huy động tín dụng ngân hàng cho các hội viên vay Tuyên truyền chủ trương, chính sách Cung cấp thông tin    7. Hội CCB  1989  Ít quan trọng  Tuyên truyền chủ trương, chính sách Cung cáp thông tin  Các thành viên ít phối hợp hoạt động   Hệ thống sản xuất Các loài thủy sản Nông dân ở xã Tân Dân nuôi nhiều đối tượng khác nhau. Bảng 9 nêu ra tên tiếng Anh, tên khoa học và tên tiếng Việt của các đối tượng nuôi này. Phổ biến nhất là trắm cỏ, trôi, mè, chép, rô phi và chim trắng. Bảng 6 Bảng đối chiếu tên tiếng Anh và tiếng Việt của các loài thủy sản ở xã Tân Dân Tên tiếng Anh  Tên khoa học  Tên tiếng Việt   Grass carp  Ctenopharyngodon idellus (Cuvier & Valenciennes, 1844)  Cá Trắm cỏ   Common carp  Cyprinus carpio Linnaeus, 1758  Cá Chép   Mud carp  Cirrhina denticulatus Oshima, 1926  Cá Trôi ta (Cá Trôi Việt)   Rohu  Labeo rohita (Hamilton, 1822)  Cá Trôi ấn độ (Cá Rô hu)   Mrigal  Cirrhinus mrigalla (Hamilton, 1822)  Cá Mrigal   Silver carp  Hypophthalmychthys molitrix (Valenciennes, 1844)  Cá Mè trắng   Old tilapia  Oreochromis mossambicus (peters, 1852) Oreochromis niloticus (Linnaeus, 1757)  Cá Rô phi cũ (rô phi đen) Rô phi vằn   Black carp  Mylopharyngodon piceus (Richardson, 1845)  Cá Trắm đen   Mono-sex tilapia  Oreochromis Niloticus (Linnaeus, 1757)  Cá Rô phi đơn tính   Hybrid common carp  Cyprinus carpio Linnaeus, 1758  Cá Chép lai   Catfish  Clarias fuscus (Lacepede, 1803) Clarias gariepinus (Burchell, 18150  Cá Trê đen Cá Trê phi   Colossoma  Colossoma brachypomum Cuvier, 1818  Cá Chim trắng   Những loài này hầu hết được thả ghép (bảng 10). Trắm cỏ là loài phổ biến nhất, vì dễ nuôi và chi phí thấp do chỉ ăn cỏ, còn chim trắng và mè trắng ít được nuôi hơn cả. Bảng 7 Thành phần các đối tượng nuôi ghép và thị hiếu của nông dân Đối tượng nuôi  Tỷ lệ (%)  Thị hiếu   Trắm cỏ  10  1   Trôi ta  30  2   Mè trắng  20  6   Chép  10  4   Rô phi  20  3   Chim trắng  10  5   Chú ý: 1 = được ưa thích nhất; 6 = ít được ưa thích nhất Từ năm 1990, số lượng đối tượng nuôi đã tăng dần. Các lòai được cải tạo giống như rô phi đơn tính, chép lai được đưa vào nuôi trong những năm gần đây cùng với cá trê và chim trắng. Cá rô-hu là đối tượng nuôi có hiệu quả nhất qua các năm về thu nhập và sản lượng (bảng 11). Bảng 8 Thay đổi cơ cấu đối tượng nuôi từ 1990 đến 2005 1990  2005   Đối tượng  Tầm quan trọng  Đối tượng  Sản lượng  Thu nhập   Trắm cỏ  2  Trắm cỏ  2  2   Chép  3  Chép  -  -   Trôi ta  4  Trôi ta  -  -   Rô-hu  1  Rô-hu  1  1   Mri-gan  4  Mri-gan  4  5   Mè trắng  1  Mè trắng  2  2   Rô phi truyền thống  2  Rô phi truyền thống  -  -   Trắm đen  5  Trắm đen  5  6     Rô phi đơn tính  4  4     Chép lai  3  3     Trê  4  6     Chim trắng  4  6   Chú thích: 1 = quan trọng nhất; 6 = ít quan trọng nhất Quản lý chăm sóc ao nuôi Cá được nuôi trong ao, ruộng lúa và trong các khu dân cư. Ở đây chúng tôi tập trung vào nuôi ao. Trước đây ao cá thường ở ngay trong làng và có diện tích trung bình 200 m2 (70-700 m2), lấy nước mưa là chủ yếu. Ngày nay ao được đào xung quanh làng và cấp nước từ sông. Các ao mới có diện tích trung bình 1500 m2 (700-40.000 m2) và được nông dân phân làm 3 loại: ao lớn (> 2 ha), ao vừa (1000-20.000 m2) và ao nhỏ (<1000 m2) (bảng 12). Ao lớn thường ở xa nhà ở, còn ao nhỏ hoặc nằm trong khuôn viên nhà ở hoặc gần đó. Ao nhỏ thường sâu từ 0,5 đến 1 m, còn ao lớn từ 1,5 đến 2 m. Riêng ao ương diện tích trung bình là 700 m2 (350-7000 m2). Vùng tập trung là Việt Khe và Đại Hoàng, dọc các sông Cù, Đá Đỏ, Vườn Rẽ ở phía đông nam xã Tân Dân. Bảng 9 Đặc trưng về kích thước ao gia đình và sự tham gia của nông hộ Đặc trưng  Số hộ   Hộ có ao lớn (> 2 ha), vừa ương cá giống vừa nuôi cá thịt  100   Hộ có ao vừa (1000-20000m2), một số vừa ương giống vừa nuôi thịt, còn lại chỉ nuôi cá thịt  200   Hộ có ao nhỏ (<1000 m2), chỉ nuôi cá thịt  700   Việc đào và duy tu ao cá ngày càng được thực hiện bằng máy móc thay vì thủ công như trước. Nếu gia đình có điều kiện, bờ ao có thể xây kè gạch và bê tông, nhờ đó giảm công duy tu sửa chữa. Ao nuôi cá thịt thường được tát cạn sau 1-2 năm (1 năm/lần đối với ao nhỏ, 2 năm/lần với ao lớn). Ao ương cá giống được thay nước hàng năm. Việc chuẩn bị ao nuôi được tiến hành trước khi thả cá vào tháng 2, tháng 3. Sau khi nước được tháo cạn, người dân rắc vôi bột xuống nền đáy (2000 kg/ha), phơi 3 ngày rồi bơm nước vào, bón phân (phân chuồng, phân đạm) rồi sau 1 tuần sẽ thả cá. U-rê kích thích sự sinh trưởng của phù du sinh vật trong ao. Đôi lúc, nếu có mưa to làm mực nước ao dâng cao, người dân quây lưới xung quanh để ngăn không cho cá ra ngòai. Nhưng biện pháp này cũng không giữ được cá nếu có lũ lớn. Vào mùa khô (tháng 10-11), người dân bơm nước bổ sung vào ao. Mùa đông, nhiệt độ nước ao xuống còn 10-15 (C, và mùa hè, nhiệt độ tăng lên đến 35-37 (C. Lượng ô-xy hòa tan bị giảm đột ngột khiến cá nổi đầu. Người nuôi cá xử lý bằng cách bơm nước từ dưới sông vào (thấp hơn nhiệt độ ao khoảng 10-15(C). Chất lượng nước thường tốt nhất vào quãng tháng 8-9. 3.4.3 Chế độ cho ăn và nguồn dinh dưỡng Thức ăn cho cá chủ yếu là từ phân chuồng (phân lợn, gà vịt), cỏ, cám gạo – ngô. Phân lợn thường được sử dụng phổ biến nhất, có thể mua từ các hộ chăn nuôi lợn trong xã. Các hộ nuôi quy mô lớn hơn có thể mua phân lợn ở các trang trại lợn lớn cách Tân Dân 10-20 km. Phân gà vịt có thể lấy ngay trong nhà hoặc mua các hộ khác ở xóm. Cũng giống như trên, các hộ nuôi cá quy mô lớn hơn có thể mua phân gà từ nhiều nguồn, chủ yếu lấy ở Thành phố Hải Phòng. Phân chuồng được bón một tuần một lần, mặc dù một số hộ nông dân nuôi lợn có thể bón phân lợn và cám lợn thừa xuống ao hàng ngày khi dọn chuồng lợn. Phân bắc thường không được bón trực tiếp mà ủ trong hố cách ao 2-10 m rồi chảy từ từ xuống ao. Lượng thức ăn cho cá hàng tháng được nêu trong bảng 13. Bảng 10 Lượng cỏ, phân chuồng và cám làm thức ăn cho cá hàng tháng trên mỗi hecta Loại thức ăn  Lượng (kg/ha/thg)  Tần suất cho ăn   Cỏ  1000?  Daily at 10 am   Phân chuồng  2000  Weekly   Cám gạo và ngô  1000?  Daily at 3 pm   Cỏ được lấy từ vệ đường, bờ sông, bờ ao và thả xuống ao hàng ngày làm thức ăn trực tiếp cho cá. Phụ nữ thường cắt cỏ vào sáng sớm để tận dụng trời mát, ít nắng và cỏ còn tươi. Cỏ được rắc vào ao, trong khoảng 10 m tính từ bờ ao. Các loại bèo và rau nước cũng được thu lượm từ các vùng nước xung quanh để cho cá ăn. Nếu ao lớn hơn 1 ha, nông dân thường dùng thuyền để rắc thức ăn đều lên mặt ao. Nếu cá không ăn hết, cỏ thừa được vớt ra để cho ăn trong ngày hôm sau. Trắm cỏ và mè trắng là các đối tượng ăn thực vật (bảng 14). Cám gạo- ngô có thể làm thức ăn cho tất cả các lòai nuôi trừ mè trắng, và có thể mua từ một đại lý thức ăn ở xã hoặc huyện. Cám gạo – ngô được nấu đặc để cho cá ăn vào buổi chiều hàng ngày. Thức ăn chế biến công nghiệp ít được sử dụng do giá cả đắt đỏ (6.000-9.000/kg). Một số hộ chỉ dùng loại thức ăn này nếu họ ương cá giống. Để so sánh, phân lợn có giá 200 đồng/kg, phân gà 250 đồng/kg và phân vịt 250-300 đồng/kg (bảng 15). Các hộ nuôi quy mô nhỏ thường có đủ phân chuồng, nhưng hầu hết các hộ nuôi cá đều phải bổ sung thêm bằng lượng phân mua ngoài. Vào mùa đông, lượng thức ăn cho cá giảm đến 40 %. Bảng 11 Các loại thức ăn cho cá Đối tượng  Cỏ  Phân chuồng  Cám gạo – ngô   Trắm cỏ  1  3  2   Trôi ta  -  1  2   Mè trắng  -  1  -   Chép  -  2  1   Rô phi  -  1  2   Chim trắng  3  2  1   Chú thích: 1= được ưa chuộng nhất; 3 = ít được ưa chuộng nhất Bảng 12 Giá cả (đồng/tạ) và nguồn cung cấp các loại thức ăn, phân bón Phân bón  Giá cả (VND/100 kg)  Nguồn cung cấp   Phân lợn  20.000  Mua/ tự cấp   Phân gà  25.000  Mua/ tự cấp   Phân vịt  25.000-30.000  Mua/ tự cấp   NPK  150.000  Mua   U-rê  500.000  Mua   Cám gạo  ???  Mua/ tự cấp   Phân xanh   Thu lượm   3.4.4 Thả cá, chăm sóc và thu hoạch Hàng năm, vụ cá bắt đầu từ khoảng tháng 2-3. Cá giống được mua từ nhiều nhà cung cấp khác nhau. Khỏang 20 hộ lấy cá bột từ trại giống quốc doanh của Sở Thủy sản Hải Phòng (hình 5). Cá bột được tính theo lít (1 cc chứa khoảng 2000 con). Sau khi ương khoảng 20 ngày, các hộ này bán cá giống cho những người khác, thông qua một số tư thương tự định đọat giá cả. Giá cá giống ở các giai đoạn khác nhau được mô tả trong bảng 17. Khoảng 40% nông dân ương cá bột lên giống là để nuôi tiếp lên cá thịt và bán cho các hộ khác. Cá giống được chọn bằng cách quan sát: tròng mắt lớn, màu trong, bơi khỏe. Mật độ thả tùy thuộc vào cỡ cá giống. Thông thường, tỷ lệ thả cá bột là 10.000 con/sào (360 m2). Việc thu cá bột được làm với lưới mắt nhỏ  Hình 3 Sơ đồ nguồn cung ứng cá giống cho xã Tân Dân Đợt thu hoạch cá đầu tiên là vào tháng 6, tức là 4 tháng sau khi thả. Lần thu thứ hai là tháng 8, và lần 3 vào tháng 11. Năng suất thu hoạch đạt khoảng 500 kg/ha mỗi đợt. Riêng cá nhỏ được giữ lại và thả bù thêm cá giống vào tháng 6 và tháng 8 (bảng 16). Vào tháng 11, nhiệt độ xuống thấp nên không thả giống nữa. Sau 1 năm là lúc thu lớn. Tuy nhiên khoảng 500 kg cá đạt kích cỡ thương phẩm được giữ lại cho vụ sau. Tiếp đó, ao nuôi lại được cải tạo như đã nêu trong mục 3.2.4. Năng suất ở các ao lớn có thể đạt 10 tấn/ha mỗi năm, còn ao nhỏ đạt 4 tấn/ha/năm. Bảng 13 Lịch thu cá và năng suất trên ha Tháng  Thả  Thu (kg/ha)   Tháng 2  Thả mới  1000 (sau 1 năm)   Tháng 6  Thả bù 10%  500   Tháng 8  Thả bù 10%  500   Tháng 11  Không thả  600   Để thu cá, người dân sử dụng lưới có kích cỡ mắt khoảng 0,5-1 cm. Nam giới quyết định thời điểm bán cá, còn phụ nữ quyết định giá cá vì họ đi chợ hàng ngày và nắm được giá thị trường, đồng thời thương lượng giá với những người buôn bán. Khi thu hoạch, những người buôn cá đến tận nơi để cân cá và sẽ thanh toán sau khi đã bán xong cá. Nông dân thường chọn người nào mà họ tin tưởng nhất để giao, tuy vậy quan hệ giữa nông dân với người buôn bán thường không ổn định. Người buôn bán nào có uy tín sẽ được nhiều nông dân giao hàng hơn. Nhìn chung, giá cá không thay đổi trong suốt năm trừ dịp Tết – đây là thời gian giá tăng lên thậm chí gấp đôi ngày thường. Năm 2005, giá cá cũng có biến động nhỏ. Giá bán thường lên cao vào đầu năm vì cung ít, tiếp đó sẽ giảm dần từ tháng 4 trở đi, vì lúc đó nông dân bắt đầu thu cá. Giá cá xuống thấp nhất vào tháng 10 vì đây là thời điểm thu nhiều nhất. Sau tháng 10, giá cá lại tăng cho đến mức cực đại vào đầu năm sau. Giá cá trung bình khi thu hoạch và trọng lượng cá được nêu trong 17. Việc tiêu thụ sản phẩm cá nuôi sẽ được phân tích trong chương 4. Bảng 14 Giá cá trung bình trong các giai đoạn sản xuất khác nhau Đối tượng nuôi  Giá cá bột VND/10.000 con  Giá cá giống  Giá cá bán tại chỗ khi thu hoạchVND/kg (g/con)     20 ngày tuổi VND/1000 con  50 ngày tuổi VND/kg (số con/kg)    Trắm cỏ  25.000  25.000  25.000 (50)  20.000 (1000)   Trôi ta  20.000  20.000  12.000 (50)  12.000 (500-600)   Mè trắng  15.000  15.000  8.000 (50)  9.000 (500-600)   Chép  30.000  30.000  50.000 (100)  25.000 (500-600)   Rô phi  25.000  25.000  50.000 (100)  20.000 (500-600)   Chim trắng  40.000  40.000  100.000 (150)  20.000 (1000)   Chú thích: Giá cá hiện nay đã tăng 1,5 lần so với 1990 3.4.5 Bệnh dịch Bệnh cá thường bùng phát vào tháng 5-6, khi nhiệt độ nước ao tăng đến 35-37(C. Trong bảng 18 là 4 loại bệnh thường gặp và ảnh hưởng của chúng đối với 6 loài cá nuôi cơ bản. Rô phi có sức kháng bệnh tốt nhất, và nông dân cho biết họ chưa gặp trường hợp rô phi mắc bệnh nào. Trắm cỏ và chim trắng dễ bị bệnh hơn cả. Khi có dịch bệnh xảy ra, nông dân tìm đến trại giống quốc doanh của Sở Thủy sản và thông báo về triệu chứng cá nhiễm bệnh. Cán bộ thú y sẽ hướng dẫn dùng loại thuốc nào, nhưng người dân không nhớ vì tên thuốc ghi bằng tiếng nước ngòai, mà họ chỉ biết rằng có màu trắng. Nông dân thường xuyên thông tin cho nhau về bệnh dịch. Cá chết vì dịch được chôn cẩn thận và không nấu cho lợn ăn. Cũng có lúc người dân sử dụng thuốc kháng sinh trước khi thả cá để phòng dịch. Bảng 15 Bệnh thường gặp ở cá nuôi và khả năng kháng bệnh theo quan sát của người dân xã Tân Dân (tên bệnh có thể không chính xác do vấn đề dịch thuật) Đối tượng nuôi theo thứ tự kháng bệnh (từ trên xuống)  Độ nhạy cảm với bệnh dịch  Desquamate (%)  Defecation (%)  Xuất huyết (%)  Đen đầu, sưng đầu (%)   Rô phi  5  -  -  -  -   Trôi ta  4  -  30-40 chết 30 nhiễm  30-40 chết 30 nhiễm  30-40 chết 30 nhiễm   Mè trắng  3  -  -  30-40 chết 30 nhiễm  30-40 chết 30 nhiễm   Chép  2  -  -  10-20 chết 50 nhiễm  50 die 30 nhiễm   Chim trắng  1  -  -  -  -   Trắm cỏ  1  100 chết 50-60 nhiễm  100 chết  -  -   Note: 1= nhạy cảm nhất; 5 = ít nhạy cảm nhất 4 Cơ chế tiêu thụ sản phẩm 4.1 Buôn bán cá ở xã Tân Dân Nghề buôn bán cá xuất hiện ở xã từ năm 1989, tại các thôn Việt Khê, Đan Hoàng. Ông Bùi Văn Đậu và ông Nguyễn Văn Hiền là những người buôn bán cá đầu tiên sau khi họ đào ao thả cá. Hiện nay tất cả các thôn đều nuôi những loài cá giống nhau, và xã có khoảng 30 người chuyên mua bán cá. Tuy nhiên, số người buôn bán ở huyện An Lão và TP Hải Phòng đến xã mua cá thì không xác định được chính xác. Cá được bán tại các chợ làng của xã, huyện cũng như thông qua mạng lưới tư thương đến các chợ và nhà hàng trong thành phố (hình 6). Hiệp hội tư thương bảo vệ quyền lợi cho những người buôn bán. Hình 4 Sơ đồ thị trường tiêu thụ cá của xã Tân Dân Những người buôn bán cá nhận thấy có sự thay đổi quan trọng trong giai đoạn 1989-2005, đặc biệt là lượng cá tiêu thụ đã tăng gấp 10-15 lần. Bên cạnh đó, năng suất và trọng lượng cá tiêu thụ cũng tăng đáng kể. Việc mua bán đã chuyển từ cá chết sang cá tươi sống. Người tiêu dùng ngày càng có xu hướng ăn cá to hơn. Lượng cá tiêu thụ tại gia đình đã tăng từ 200-300 g/ngày năm 1989 lên 800-1000 g/ngày năm 2005. Người bán cá căn cứ vào nhiều tiêu chuẩn để chọn cá. Ở trang trại nuôi cá, họ phải để ý xem cách thức nuôi cá thế nào, đặc biệt là nguồn nước ao. Họ thích những ao có nước chảy lấy từ sông, vì cá ở các ao này thường ngon hơn ao nước tĩnh. Nước ao phải có màu xanh nõn chuối - biểu hiện môi trường nuôi tốt. Một số hộ dân nuôi cá bằng cỏ và phân chuồng mà không cho thêm cám gạo, điều đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng cá. Khi chọn cá, các tiêu chuẩn sau đây được cân nhắc: Kích cỡ. Càng to càng tốt Sức khỏe. Cá bơi nhanh là cá khỏe. Màu sắc tươi đẹp. Độ chắc. Độ chắc của thịt cá là sự phản ánh loại thức ăn của cá. Theo những người buôn bán cá, thức ăn công nghiệp tuy làm cá lớn nhanh nhưng thịt cá bị nhão và kém thơm ngon. Cá phải đói. Ruột cá không chứa thức ăn trước khi vận chuyển hoặc để giữ cho nước sạch. Tầm quan trọng của các tiêu chí này được nêu trong bảng19. Bảng 16 Phân hạng tiêu chuẩn chọn cá của người buôn bán Tiêu chuẩn  Xếp hạng   Kích cỡ  2   Sức khỏe  4   Màu sắc  5   Độ chắc  3   Cá đói  1   Chú thích: 1 = quan trọng nhất; 5 ít quan trọng nhất Sau khi thu hoạch, cá sống được cho vào bồn hoặc xô nước có sục khí để giữ mức ô-xy hòa tan không bị thiếu hụt. Cá được chuyển thẳng ra chợ bằng xe đạp hoặc xe máy (bảng 20). Phụ nữ thích dùng xe đạp vì nhẹ nhàng hơn, còn nam giới thích đi xe máy. Lượng hàng vận chuyển tăng đáng kể sau khi đường sá được nâng cấp, đổ bê tông, giúp cho xe đạp xe máy ít phải đem đi bảo dưỡng, và tuổi thọ săm lốp cũng được tăng lên 4 lần so với trước. Bảng 17 Phương tiện và khối lượng vận chuyển Phương tiện  Tỷ lệ %  Sở thích theo giới  Tổng khối lượng chuyên chở, kể cả nước (kg)  Cá (kg)   Xe đạp  70  Nữ  50-60  20   Xe máy  30  Nam  60-70  >30   Những người buôn bán đã nói chuyện khá lâu về việc ai là người quyết định giá thị trường. Đầu tiên họ nói rằng người tiêu dùng quyết định, nhưng sau cùng thì thừa nhận chính họ là người đưa ra giá đó. Giá cả được xác định một ngày trước khi mua tại ao, và phần lớn ít khi dao động trong suốt năm. Mức giá lên xuống thường trong khoảng 1.000-2.000 đồng/kg. Giá các loài nuôi chính được nêu trong bảng 21. Lượng cá tiêu thụ có sự thay đổi theo mùa vụ: Vào mùa đông (Tháng 10- tháng 2), cá trắm được tiêu thụ nhiều nhất. Đến mùa hè (Tháng 4- tháng 9), rô phi và chim trắng lại bán được nhất. Vào dịp Tết, giá cá tăng lên gấp đôi, gấp ba ngày thường, trong đó các loài cá to và ngon như trắm cỏ và chép là các đối tượng được chú ý nhất. Trôi ta, mè trắng và chim trắng không được người dân mua vào dịp Tết vì họ cho rằng nếu ăn các loài cá đó sẽ gặp xui xẻo. Vào dịp cuối tuần, lượng cá tiêu thụ tăng lên nhưng giá không thay đổi. Nhu cầu cá vào mùa đông lớn hơn mùa hè, vì người dân thường ăn cá khi thời tiết lạnh hơn. Bảng 18 Giá bán và giá mua sản phẩm theo quyết định của người buôn bán Đối tượng  Giá trung bình (VND/kg) trong năm  Giá vào dịp Tết (VND/kg)    Mua  Bán  Mua  Bán   Trắm cỏ  15.000  17.000  18.000  20.000   Chép  16.000  17.000  18.000  20.000   Rô phi  13.000  15.000  -  -   Trôi ta  10.000  11.000  -  -   Mè trắng  5.000  6.000  -  -   Chim trắng  12.000  13.000  -  -   Cá được bán tại nhiều chợ: chợ Chùa tại xã Tân Dân, chợ Ruồn cách đó 3 km, chợ Bến Phà (họp buổi sáng, cách 6km), chợ Gò Công (họp buổi chiều, cách 5 km). Những người buôn bán không hạ giá cá vào cuối buổi chợ để bán tháo, mà họ giữ lại cá để bán tiếp. Không chỉ bán ở chợ, họ còn đem đến các làng bán dạo cho đến khi hết hàng. Cá không để qua đêm, nếu không sẽ chết. 5 người buôn bán được phỏng vấn không theo dõi cụ thể mà họ chỉ nắm được sơ bộ số lượng cá bán, khoảng 9 tấn/tháng, thu về khoảng 700.000-800.000 đồng/người mỗi tháng. Tiền đầu tư phải bỏ ra trong vòng 6 thánglà khoảng 1 triệu đồng. Khi buôn bán cá, những khả năng gây rủi ro là thời tiết xấu: trời nắng nóng hoặc trời mưa đều không bán được. Nếu mất điện, cá cũng sẽ chết do không đủ ô-xy. Theo những người buôn bán cá, cá nuôi hữu cơ cũng không khác gì về chất lượng với cá tự nhiên: màu sắc cũng tươi, đẹp như vậy, độ thơm ngon cũng không kém. Do đó, họ có thái độ tích cực đối với cá nuôi hữu cơ do lợi nhuận thu được khá cao. Họ tin rằng thị trường cá nuôi hữu cơ cũng có tiềm năng, nhưng còn phụ thuộc vào giá cả, mà tốt nhất không nên cao quá 2.000-3.000/kg so với mức giá trung bình. Hiện nay, người tiêu dùng đã nhận thức được những tác động bất lợi của các lòai cá nuôi thông thường có thể gây ra cho sức khỏe con người, nên thường hỏi “cá này có bị nhiễm bẩn không” (hàm ý có sử dụng thuốc kháng sinh hoặc hóa chất không). Ở huyện An Lão, thị hiếu mua sắm không có thay đổi lớn, trong khi đó những người buôn bán cho rằng thị trường ở TP Hải Phòng lớn hơn và người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn. Những người buôn bán được phỏng vấn cho rằng giữa họ và người nuôi cá cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau hơn, và phải có một hệ thống kiểm tra chất lượng và cấp phép sản xuất hữu cơ. Người bán sản phẩm hữu cơ phải có dấu hiệu riêng, chẳng hạn như biển thông báo điểm bán hàng sạch, và phân biệt bằng các phương tiện khác biệt và bắt mắt hơn. Hiệp hội tư thương cần giúp họ đầu tư mua xe tải nhỏ có thùng lạnh để chở sản phẩm đi xa. 4.2 Người tiêu dùng 4.2.1 Nhà hàng khách sạn Cơ cấu tiêu dùng Khách hàng ở các nhà hàng cao cấp thường là những người đến thuê phòng khách sạn, khách du lịch, những người Việt giàu có và thương nhân. Hầu hết các sản phẩm NTTS được tiêu thụ ở nhà hàng là hải sản và không phải là lòai tươi sống. Bảng 22 liệt kê danh sách các lòai nước mặn và nước ngọt được ưa chuộng trong các nhà hàng cũng như xuất xứ của chúng. 2 loài nước ngọt duy nhất được ưa thích là cá quả và cá tra/ba sa, nhưng lượng tiêu thụ ít khi vượt quá 100 kg/tháng ở mỗi nhà hàng (bảng 23). Nhìn chung, khách hàng đến những nhà hàng này chỉ thích các đặc sản biển như tôm, cá hồi, tôm hùm, mực ống. Các món ăn ít chịu ảnh hưởng bởi thời vụ vì có cả nguồn cung cấp từ nước ngoài. 5 năm trở lại đây đã có một số thay đổi về thị hiếu tiêu thụ như sau: Từ khi nạn cúm gia cầm bùng phát vào năm 2003, gà ít được ăn hơn và thay vào đó là cá Một số món ăn mới đã xuất hiện, như cá ba sa Thương hiệu trở nên quan trọng hơn và bởi vậy một số sản phẩm chỉ được cung cấp từ những nguồn hàng ngoại quốc như cá Saba (Nhật Bản), sac-đin và điệp (Pháp). Một số món ăn như cá kiếm, vây cá mập… đã bị đưa ra khỏi thực đơn của một nhà hàng, do thuộc loài có tên trong sách đỏ Bảng 19 Các loài cá: nguồn gốc và giá cả trên thực đơn các nhà hàng cao cấp Món ăn (khai vị và món chính)  Nguồn gốc  Giá trên thực đơn (USD)   Barramundi   >12,00   Cá chép  Việt Nam    Cá đánh bắt tươi sống  Hải phòng (Việt Nam)  16,50-17,00   Cá tra, basa  Việt Nam  11,00   Cá Lăng  Việt Nam  14,50   Trứng cá hồi  Pháp    Ngao   6,00   Cua   >12,00   Ghẹ  Biển Đông  7,50   Vẹm  Tây Ban Nha    Cá mú (song)   17,00   Vẹm xanh  Niu Di-lân    Cá trích (đã qua chế biến)  Châu Âu    Tôm hùm  Pháp, Nha Trang (Việt Nam)  8,50-18,50   Hàu  Australia  >6,00   Tôm các cỡ (và tôm sạch tại 1 nhà hàng)  Việt Nam (chủ yếu miền Nam), tôm sạch từ Cà Mau  >14,00   Cá hồi  Tasmania, Na-uy  >14,00   Cá hồi tartar  Tasmania, Na-uy  9,00   Điệp  Alaska, Pháp    Cá chẽm (+ phi-lê)  Việt Nam    Cerviche hải sản  Việt Nam    Cá quả  Việt Nam    Mực ống  Việt Nam  9,00-15,00   Cá ngừ (đại dương)  Miền Nam Việt Nam  16,50   Cá ngừ  Nha Trang (Việt Nam)  >12,00   Bảng 20 Lượng tiêu thụ theo tháng và chỉ số giá bán lẻ của các loài thủy sản khác nhau Loài thủy sản  Lượng tiêu thụ kg/thg  Giá trung bình đồng/kg   Barramundi  0-57  80.000   Cá tra, ba sa  0-34  40.000   Ngao  0-57  ?   Thịt cua  0-6  50.000-65.000   Mực nang  0-100  85.000   Cua tươi sống  10-30  140.000   Tôm hùm  0-1000  240.000   Tôm các cỡ (và tôm sạch tại 1 nhà hàng)  28-1000  110.000-225.000 (tùy cỡ và chất lượng)   Cá hồi  69-380  140.000   Điệp  0-80  150.000-240.000   Cá chẽm (+ phi-lê)  0-190  65.000-145.000   Cá quả (phi-lê)  0-120  65.000-78.000   Mực ống  0-600  50.000-60.000   Cá ngừ  0-100  80.000   Chú thích: 1 USD = 15.890 VND (Tháng 11/2005) Theo các đầu bếp, trong tương lai sẽ có những thay đổi lớn về cung ứng cá: Chính sách nhập khẩu của chính phủ sẽ linh hoạt hơn, cho phép sản phẩm nước ngoài dễ dàng thâm nhập Nguồn hàng cho siêu thị sẽ tăng cường và ngày càng nhiều sản phẩm sẽ được lưu thông qua kênh này Sẽ có ít cá giá trị cao, do nguồn cá tự nhiên bị khai thác quá mức Các lòai nuôi sẽ phổ biến hơn, vì chất lượng nuôi ngày càng được cải thiện Cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, hướng đến sản phẩm tự nhiên: “lượng ít hơn, nhưng chất phải đảm bảo”. Các nhà hàng đã phải đối mặt với vấn đề tìm ra nhà cung ứng sản phẩm tốt, để có nguồn hàng tươi sống và đảm bảo vệ sinh. 3 chợ đầu mối ở Hà Nội: Long Biên, 19/12 và An Dương là những nơi mà các đầu bếp thường đến trực tiếp kiểm tra và mua hàng. Với họ, các siêu thị chưa phải là nơi đáng tin cậy, vì các sản phẩm từ thị trường truyền thống được giữ tươi hơn , trong khi các siêu thị lại ở xa và không có dịch vụ giao hàng tốt. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn cung cấp cá Đầu bếp thường nhìn vào nhiều đặc điểm hàng hóa khác nhau để mua hàng, trong đó chất lượng là hàng đầu (bảng 24). Bên cạnh những đặc điểm nêu trong bảng này, một số nhân tố khác cũng có vị trí quan trọng: nguồn cung ứng phải ổn định, cán cân cung - cầu, sự thuận lợi và tính kinh tế của sản phẩm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbcncthuysanhp_5907.doc