. Sự biến đổi của khí máu động mạch ở bệnh
nhân tai biến mạch máu não cấp theo thể xuất
huyết não và nhồi máu não pH ở cả ba thời điểm và
PCO
2 ở thời điểm 48h không có sự khác nhau giữa
hai thể bệnh (p >0,05). Các giá trị trung bình của các
thông số khác có sự khác nhau giữa hai thể bệnh.
PCO
2 và HCO3- của xuất huyết não cao hơn nhồi máu
não, nhưng PO2 và SaO2 thì ngược lại. Đa số các giá
trị trung bình của các thông số ở cả hai thể bệnh
đều trong giới hạn bình thường. Giá trị trung bình
của PO
2 ở thể xuất huyết não giảm, tại thời điểm
vào khoa là 67,5mmHg; 24h là 66,1mmHg; và 48h
là 68,3mmHg.
Tỉ lệ giảm của PCO2, PO2 và SaO2 tại thời điểm vào
khoa ở thể nhồi máu não là 56,2%, 25% và 18,8%; ở
thể xuất huyết não là 44,4%, 72,2% và 63%. Các tỉ lệ
này tại thời điểm 24h ở thể nhồi máu não là 75%,
56,2% và 50%; ở thể xuất huyết não là 50%, 79,6% và
70,4%. Thời điểm 48h ở thể nhồi máu não là 68,7%,
50% và 18,8%; ở thể xuất huyết não là 53,7%, 59,3%
và 44,4%. Các biến đổi của các thông số khác đều
có tỉ lệ thấp và có sự khác nhau giữa hai thể nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Toan hô hấp chỉ có ở thể
xuất huyết não. Kiềm hô hấp ở cả hai thể, đều chiếm
tỉ lệ cao nhất tại các thời điểm, lúc vào khoa có 25%
bệnh nhân nhồi máu não nhiễm kiềm hô hấp và tỉ lệ
này ở nhóm xuất huyết não là 27,8%. Tại thời điểm
24h có 12,5% bệnh nhân nhồi máu não nhiễm kiềm
hô hấp, xuất huyết não là 33,3%. Tại thời điểm 48h tỉ
lệ kiềm hô hấp ở bệnh nhân nhồi máu não là 12,5%,
xuất huyết não là 27,8%.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 40 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu khí máu động mạch ở bệnh nhân tai biến mạch máu não giai đoạn cấp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
- Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Đình Toàn, email: toan_joseph@yahoo.com
- Ngày nhận bài: 1/7/2017, Ngày đồng ý đăng: 13/8/2017, Ngày xuất bản: 15/9/2017
NGHIÊN CỨU KHÍ MÁU ĐỘNG MẠCH Ở BỆNH NHÂN
TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO GIAI ĐOẠN CẤP
Nguyễn Xuân Tài1 , Nguyễn Đình Toàn2
(1) Khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Trung ương Huế
(2) Bộ môn Nội, Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Mục tiêu: 1) Khảo sát sự biến đổi của khí máu động mạch ở bệnh nhân tai biến mạch máu não cấp theo
thể xuất huyết não và nhồi máu não. 2) Xác định mối tương quan và liên quan giữa khí máu động mạch với
thang điểm Glasgow, NIHSS, và thể tích tổn thương não trên hình ảnh chụp não cắt lớp vi tính. Đối tượng và
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc được thực hiện trên 70 bệnh nhân
TBMMN giai đoạn cấp. Kết quả: Tỉ lệ giảm của PCO
2
, PO
2
và SaO
2
tại thời điểm vào khoa ở thể nhồi máu não
là 56,2%, 25% và 18,8%; ở thể xuất huyết não là 44,4%, 72,2% và 63%. Tại thời điểm 24h ở thể nhồi máu não
là 75%, 56,2% và 50%; ở thể xuất huyết não là 50%, 79,6% và 70,4%. Tại thời điểm 48h ở thể nhồi máu não
là 68,7%, 50% và 18,8%; ở thể xuất huyết não là 53,7%, 59,3% và 44,4%. Toan hô hấp chỉ có ở thể xuất huyết
não. Kiềm hô hấp ở cả hai thể và chiếm tỉ lệ cao nhất. Tại thời điểm vào khoa, SaO
2
có tương quan nghịch với
kích thước tổn thương (r = - 0,264, p <0,05). HCO
3
- có tương quan với Glasgow (r = 0,323; p <0,01) và NIHSS
(r = - 0,274; p <0,05). Tại thời điểm 24h, có tương quan nghịch giữa PO
2
(r = - 0,375, p = 0,001) và SaO
2
(r = -
0,309, p <0,01) với NIHSS. Tương quan nghịch giữa PO
2
(r = - 0,435) và SaO
2
(r = - 0,457) với kích thước tổn
thương (p <0,0001). Tại thời điểm 48h, có tương quan nghịch giữa PCO
2
, PO
2
và SaO
2
với NIHSS (r = - 0,312
,p <0,01; r = - 0,305, p = 0,01 và r = - 0,270, p <0,05). PCO
2
có tương quan thuận với Glasgow (r = 0,260, p
<0,05). Có tương quan nghịch giữa PO
2
(r = - 0,391; p = 0,001) và SaO
2
(r = - 0,421; p <0,001) với kích thước
tổn thương. Kết luận: KMĐM ở bệnh nhân TBMMN cho thấy các rối loạn mà bệnh nhân đang mắc phải (toan,
kiềm, giảm oxy...). Các rối loạn này ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp lên tế bào não. Tổn thương não thứ
phát có thể được ngăn ngừa nếu các rối loạn đó được phát hiện và điều chỉnh kịp thời.
Từ khóa: Tai biến mạch máu não, khí máu động mạch, thang điểm Glasgow, NIHSS.
Abstract
THE STUDY ON ARTERIAL BLOOD GAS
IN PATIENTS WITH ACUTE STROKE
Nguyen Xuan Tai1 Nguyen Dinh Toan2
(1) Intensive Care Unit, Hue Central Hospital
(2) Hue University of Medicine and Pharmacy
Objectives: 1) To investigate the variation in arterial blood gas in patients with acute stroke according to
ischemic stroke and hemorrhagic stroke. 2) To determine the correlation and relevance between arterial blood
gas and Glasgow scale score, NIHSS, volume of brain damage on computed tomography imaging. Subjects
and methods: A cross-sectional study was done in 70 patients with acute stroke. Results: Reduced rates of
PCO
2
, PO
2
, SaO
2
at the time of admission were 56.2%, 25%, 18.8% in ischemic stroke and 44.4%, 72.2%, 63%
in hemorrhagic stroke. At the time of 24 hours, these rates were 75%, 56.2%, 50% in ischemic stroke and
50%, 79.6%, 70.4% in hemorrhagic stroke. At the time of 48 hours, these rates were 68.7%, 50%, 18.8% in
ischemic stroke and 53.7%, 59.3%, 44.4% in hemorrhagic stroke. Respiratory acidosis was only present at
hemorrhagic stroke. Respiratory alkalosis was in both stroke style and had the highest proportion. At the
time of admission, SaO
2
was negatively correlated with damage volume (r=- 0.264, p<0.05). HCO
3
- correlated
with Glasgow (r=0.323; p<0.01) and NIHSS (r=-0.274; p<0.05). At the time of 24 hours, there was a negative
correlation between PO
2
(r=-0.375, p=0.001) and SaO
2
(r =-0.39, p<0.01) with NIHSS. There was a negative
correlation between PO
2
(r=-0.435) and SaO
2
(r=-0.457) with damage volume (p <0.0001). At the time of 48
hours, there was a negative correlation between PCO
2
, PO
2
and SaO
2
with NIHSS (r=-0.312, p<0.01, r=-0.35,
38
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch máu não là nguyên nhân thứ hai
gây tử vong và trên toàn thế giới có khoảng 6,7 triệu
người chết do tai biến mạch máu não [20]. Tỉ lệ này
ngày càng gia tăng, nhất là ở các nước đang phát
triển như Việt Nam. Phần lớn bệnh nhân nặng lên là
do các rối loạn chức năng của các cơ quan khác thứ
phát sau tổn thương thần kinh trung ương. Ngược
lại, các rối loạn của các cơ quan khác, như rối loạn
hô hấp, rối loạn tuần hoàn, rối loạn điều hòa thân
nhiệt... làm tổn thương não nặng hơn, nhất là giai
đoạn cấp. Trong đó, các rối loạn về hô hấp sẽ ảnh
hưởng đến lưu lượng máu não thông qua sự thay
đổi phân áp oxy, carbonic trong máu động mạch
[5], [13]. Khí máu động mạch có giá trị khách quan,
phản ánh tình trạng biến đổi các chỉ số phân áp oxy,
carbonic và các thông số cân bằng toan kiềm trong
cơ thể [2]. Khi có sự biến đổi oxy, carbonic, pH thì
đều ảnh hưởng đến lưu lượng máu não, chuyển hóa
tế bào não bị rối loạn. Ngược lại, khi bệnh nhân bị
tai biến mạch máu não cấp thì có nguy cơ giảm nồng
độ oxy máu, biến đổi nồng độ carbonic, thay đổi pH.
Các rối loạn này có thể gây nên các thương tổn não
thứ phát [3], [13], [16]. Do đó, chúng tôi tiến hành
đề tài này với hai mục tiêu: 1) Khảo sát sự biến đổi
của khí máu động mạch ở bệnh nhân tai biến mạch
máu não cấp theo thể xuất huyết não và nhồi máu
não. 2) Xác định mối tương quan và liên quan giữa
khí máu động mạch với thang điểm Glasgow, NIHSS,
và thể tích tổn thương não trên hình ảnh chụp não
cắt lớp vi tính.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu: 70 bệnh nhân đã
được chẩn đoán TBMMN giai đoạn cấp nhập viện
và điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu, Bệnh viện Trung
Ương Huế, từ tháng 7 năm 2015 đến tháng 7 năm
2016.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân được chẩn đoán xác định TBMMN
giai đoạn cấp theo TCYTTG dựa vào các tiêu chuẩn
lâm sàng và cận lâm sàng [5], [6] và đồng ý tham gia
nghiên cứu.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: TBMMN thoáng qua,
TBMMN vào viện sau một tuần từ khi khởi phát,
NMN đã được sử dụng thuốc tiêu sợi huyết, trường
hợp phối hợp XHN và NMN, XHN thứ phát sau NMN,
có những bệnh lý kèm theo: đái tháo đường, ung
thư, suy tim nặng, suy thận mạn, xơ gan mất bù...
hoặc có bệnh lý ảnh hưởng đến chức năng hô hấp
và TBMMN cấp có thông khí nhân tạo.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp
nghiên cứu mô tả cắt ngang có theo dõi dọc. Thu
thập số liệu bằng cách phỏng vấn bệnh nhân tại
giường bệnh, khám lâm sàng kết hợp tham khảo hồ
sơ bệnh án (chẩn đoán, kết quả cận lâm sàng).
2.2.1. Đặc điểm chung: Tuổi, giới, tiền sử hút
thuốc lá, THA, suy tim và rung nhĩ.
2.2.2. Đặc điểm lâm sàng: Thể bệnh (NMN hay
XHN), THA tâm thu (HA tâm thu ≥140mmHg [7]),
dấu Babinski dương tính, yếu/liệt nửa người, thất
ngôn, điểm Glasgow (Chia 3 mức độ: 13-15 điểm là
nhẹ, 9-12 điểm là vừa và 3-8 điểm là nặng), mức độ
nặng của TBMMN theo thang điểm NIHSS [1].
2.2.3. Đặc điểm cận lâm sàng: Hình ảnh CLVT
não (Xác định vị trí tổn thương và thể tích tổn
thương não) và KMĐM (khi vào khoa, tại thời điểm
24 giờ và 48 giờ) được đánh giá như sau:
- PCO2 được chia thành các mức: giảm khi PCO2
< 35mmHg, bình thường: 35 - 45mmHg và tăng
khi PCO2 > 45mmHg; HCO3- bình thường là 22 -
27mmol/l; giảm PO2 khi < 70 mmHg; SaO2 có giá
trị bình thường là 90 - 99%, nếu < 90% gọi là giảm.
- Rối loạn toan kiềm: khi pH > 7,45 gọi là nhiễm
kiềm (HCO3- tăng > 27mmol/l là nhiễm kiềm chuyển
hóa, PCO2 < 35mmHg là nhiễm kiềm hô hấp) và khi
pH < 7,35 gọi là nhiễm toan (HCO3- giảm < 22mmol/l
là nhiễm toan chuyển hóa, PCO2 > 45mmHg là
nhiễm toan hô hấp) [2].
2.4. Xử lý số liệu: Xử lý các thông số theo phương
pháp thống kê y học, sử dụng phần mềm Microsoft
Office Excel 2007, SPSS 20.0 và Epi Info 6.0.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên 70 bệnh nhân TBMMN giai
đoạn cấp trong đó tỉ lệ nam/nữ = 1,06; tuổi trung
bình là 65,34 ± 13,03, nhóm tuổi trên 70 chiếm tỉ lệ
cao nhất (35,69%) và nhóm tuổi dưới 50 chiếm tỉ lệ
thấp nhất (17,14%). 45,71% bệnh nhân có tiền sử
hút thuốc lá, tất cả đều là bệnh nhân nam. Tỉ lệ bệnh
nhân có tiền sử THA khá cao (68,57%).
3.1. Đặc điểm lâm sàng
Tỉ lệ XHN chiếm đa số (77,14%) cao gấp 3,37
lần NMN. Bệnh nhân có điểm Glasgow từ 9-12
chiếm đa số (95,7%). Điểm Glasgow trung bình là
10,1 ± 1,276.
p=0.01 and r=-0.0270, p<0.05). PCO
2
was positively correlated with Glasgow (r = 0.260, p <0.05). There was
a negative correlation between PO
2
(r = - 0.391, p = 0.001) and SaO
2
(r = - 0.421, p <0.001) with damage
volume. Conclusions: In stroke patients, disturbances on ABG they are surfered from (acid-base disorders,
hypoxemia) affect directly or indirectly on brain cells. Secondary brain damages could be well prevented if
these disturbances is diagnosed and treated promptly.
Key words: Stroke, arterial blood gas, Glasgow scale score, NIHSS
39
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3.1. Phân bố các triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng Số lượng (n) Tỉ lệ (%)
THA tâm thu 44 62,9
Dấu Babinski dương tính 35 50
Yếu/liệt nửa người 61 87,1
Thất ngôn 58 82,9
Điểm NIHSS ± SD (thấp nhất/cao nhất) 21,93 ± 6,203 (5/32)
Nhận xét: Triệu chứng lâm sàng thường gặp là yếu/liệt nửa người (87,1%), thất ngôn (82,9%), THA tâm
thu (62,9%). 50% bệnh nhân có dấu Babinski dương tính. Điểm NIHSS có giá trị trung bình là 21,93 ± 6,203
(điểm thấp nhất là 5 và cao nhất là 32).
3.2. Đặc điểm trên hình ảnh chụp não cắt lớp vi tính
Bảng 3.2. Các đặc điểm trên hình ảnh chụp não cắt lớp vi tính
Đặc
điểm
Vị trí tổn thương
Thể tích tổn thương (cm3)
(40,44 ± 36,44)
Tổng
Thùy
não
Nhân xám
trung ương
Thân
não
Tiểu
não
Vị trí
khác
< 30 ≥ 30
n 34 20 6 6 4 32 38 70
% 48,6 28,6 8,6 8,6 5,6 45,7 54,3 100
Nhận xét: Vị trí thường gặp là thùy não (48,6%), nhân xám trung ương (28,6%). Thân não và tiểu não
chiếm cùng tỉ lệ là 8,6%. Tổn thương ≥ 30 cm3 chiếm đa số với tỉ lệ 54,3%. Thể tích tổn thương trung bình
là 40,44 cm3.
3.4. Đặc điểm khí máu động mạch của đối tượng nghiên cứu theo thể bệnh
Bảng 3.3. Giá trị trung bình của một số thông số khí máu động mạch theo thể bệnh
Thông số Thời điểm
Giá trị trung bình ở từng thể bệnh p
NMN XHN
pH
Vào khoa 7,435 ± 0,041 7,425 ± 0,074 0,892
24 giờ 7,428 ± 0,043 7,432 ± 0,05 0,936
48 giờ 7,415 ± 0,053 7,434 ± 0,05 0,767
PCO
2
Vào khoa 32,9 ± 4,3 36,4 ± 7,5 < 0,001
24 giờ 32,2 ± 4 34,8 ± 5,4 < 0,001
48 giờ 32,2 ± 6,3 33,4 ± 6 0,09
HCO
3
-
Vào khoa 22 ± 2,4 23,6 ± 2,8 < 0,01
24 giờ 21,4 ± 3,2 23,1 ± 2,7 < 0,001
48 giờ 20,6 ± 4,4 22,4 ± 3,2 < 0,01
PO
2
Vào khoa 76,2 ± 10 67,5 ± 9,1 < 0,001
24 giờ 70,9 ± 9,2 66,1 ± 8,7 < 0,001
48 giờ 72,8 ± 9 68,3 ± 8 < 0,001
SaO
2
Vào khoa 95,4 ± 1,5 92,7 ± 2,9 < 0,001
24 giờ 94,2 ± 1,7 92,3 ± 3,1 < 0,001
48 giờ 95 ± 1,6 93,2 ± 3,2 < 0,001
Nhận xét: Tại thời điểm vào khoa và 24 giờ, pH không có sự khác nhau giữa hai thể. Giá trị trung bình của
các thông số khác có sự khác nhau giữa hai thể bệnh (p < 0,01), PCO
2
và HCO
3
- của XHN cao hơn NMN, nhưng
PO
2
và SaO
2
thì ngược lại. Tại thời điểm 48 giờ, PCO
2
không có sự khác nhau giữa hai thể (p > 0,05).
40
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3.4. Tỉ lệ các biến đổi một số thông số khí máu động mạch theo thể bệnh
Thời điểm Vào khoa 24 giờ 48 giờ
Thông số
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
pH
Giảm 0 (0)
8
(14,9)
1 (6,3) 4 (7,4) 0,68 1(6,3) 2 (3,7)
Bình
thường
12 (75)
26
(48,1)
0,32 12 (75)
29
(53,7)
0,45
13
(81,2)
30
(55,6)
0,38
Tăng 4 (25) 20 (37) 0,52 3 (18,7)
21
(38,9)
0,42
2
(12,5)
22
(40,7)
0,2
PCO
2
Giảm 9 (56,2)
24
(44,4)
0,62 12 (75) 27 (50) 0,36
11
(68,7)
29
(53,7)
0,58
Bình
thường
7 (43,8)
26
(48,1)
0,85 4 (25)
26
(48,1)
0,27
5
(31,3)
24
(44,4)
0,53
Tăng 0 (0) 4 (7,5) 0 (0) 1 (1,9) 0 (0) 1 (1,9)
HCO
3
-
Giảm 8 (50)
14
(25,9)
0,2 9 (56,3)
16
(29,6)
0,2
9
(56,2)
22
(40,7)
0,5
Bình
thường
8 (50)
36
(66,7)
0,55 6 (37,4)
35
(64,8)
0,29
6
(37,5)
28
(51,9)
0,54
Tăng 0 (0) 4 (7,4) 1 (6,3) 3 (5,6) 1 (6,3) 4 (7,4)
PO
2
Giảm 4 (25)
39
(72,2)
0,06 9 (56,2) 43 (79,6 0,45 8 (50)
32
(59,3)
0,73
Bình
thường
12 (75)
15
(27,8)
0,03 7 (43,8)
11
(20,4)
0,28 8 (50)
22
(40,7)
0,68
SaO
2
Giảm 3 (18,8) 34 (63) 0,06 8 (50)
38
(70,4)
0,47
3
(18,8)
24
(44,4)
0,19
Bình
thường
13
(81,2)
20 (37) 0,08 8 (50)
16
(29,6)
0,3
13
(81,2)
30
(55,6)
0,38
Nhận xét: Tỉ lệ giảm PO
2
và SaO
2
ở thể XHN cao hơn NMN, nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Các tỉ lệ khác đều có sự khác nhau giữa hai thể nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.5. Tỉ lệ các rối loạn toan kiềm theo thể bệnh của đối tượng nghiên cứu
Thời điểm Vào khoa 24 giờ 48 giờ
Rối loạn
toan kiềm
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
NMN
n (%)
XHN
n (%)
p
Toan
hô hấp
0
(0)
4
(7,4)
0
(0)
1
(1,9)
0
(0)
1
(1,9)
Kiềm
hô hấp
4
(25)
15
(27,8)
0,88
2
(12,5)
18
(33,3)
0,34
2
(12,5)
15
(27,8)
0,49
Toan
chuyển hóa
0
(0)
5
(9,3)
1
(6,3)
2
(3,7)
1 (6,3)
2
(3,7)
Kiềm
chuyển hóa
0
(0)
3
(5,6)
1
(6,3)
1
(1,9)
1 (6,3)
1
(1,9)
Nhận xét:Tại thời điểm vào viện, kiềm hô hấp có ở cả hai thể với tỉ lệ tương đương nhau, NMN (25%) và
XHN (27,8%); các rối loạn toan kiềm khác chỉ có ở thể XHN. Tại thời điểm 24 giờ và 48 giờ, các rối loạn toan
kiềm đều có ở cả hai thể, trừ toan hô hấp chỉ có ở thể XHN.
3.5. Tương quan giữa một số thông số khí máu động mạch với thang điểm Glasgow, NIHSS và thể tích
tổn thương não trên hình ảnh chụp cắt lớp vi tính não
41
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Bảng 3.6. Tương quan giữa một số thông số khí máu động mạch với Glasgow, NIHSS
và thể tích tổn thương tại thời điểm vào khoa
Glasgow NIHSS Kích thước tổn thương
pH
r 0,081 - 0,110 0,089
p 0,508 0,365 0,462
PCO2
r 0,112 - 0,040 - 0,114
p 0,356 0,742 0,346
HCO3
-
r 0,323 - 0,274 - 0,069
p 0,006 0,022 0,571
PO2
r - 0,069 - 0,085 - 0,089
p 0,569 0,485 0,466
SaO2
r - 0,050 - 0,154 - 0,264
p 0,680 0,203 0,027
Nhận xét: Có tương quan nghịch giữa SaO
2
với kích thước tổn thương ở mức độ yếu (r = - 0,264). HCO
3
- có
tương quan thuận với Glasgow (r = 0,323) và tương quan nghịc với điểm NIHSS (r = - 0,274). Các thông số còn
lại không có mối tương quan.
Bảng 3.7. Tương quan giữa một số thông số khí máu động mạch với Glasgow, NIHSS
và thể tích tổn thương tại thời điểm 24h
Glasgow NIHSS Kích thước tổn thương
pH
r 0,010 0,168 0,212
p 0,936 0,166 0,079
PCO2
r 0,155 - 0,187 - 0,152
p 0,199 0,121 0,208
HCO3
-
r 0,177 - 0,075 - 0,018
p 0,142 0,536 0,881
PO2
r 0,028 - 0,375 - 0,435
p 0,818 0,001 0,000
SaO2
r - 0,041 - 0,309 - 0,457
p 0,735 0,009 0,000
Nhận xét: Có tương quan nghịch giữa PO
2
và SaO
2
với NIHSS ở mức độ trung bình (r = - 0,375 và r = -
0,309). Có tương quan nghịch giữa PO
2
và SaO
2
(r = - 0,435 và r = - 0,457) với kích thước tổn thương ở mức
độ trung bình (p < 0,0001). Các thông số còn lại không có tương quan.
Bảng 3.8. Tương quan giữa một số thông số khí máu động mạch với Glasgow, NIHSS
và thể tích tổn thương tại thời điểm 48h
Glasgow NIHSS Kích thước tổn thương
pH
r - 0,124 0,215 0,099
p 0,308 0,073 0,414
PCO2
r 0,260 - 0,312 - 0,159
p 0,030 0,008 0,189
HCO3
-
r 0,210 - 0,202 - 0,109
p 0,081 0,093 0,371
PO2
r - 0,018 - 0,305 - 0,391
p 0,882 0,010 0,001
SaO2
r 0,070 - 0,270 - 0,421
p 0,566 0,024 0,000
42
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Nhận xét: Có tương quan nghịch giữa PCO
2
, PO
2
và SaO
2
với NIHSS (r = - 0,312; r = - 0,305; r = - 0,270).
Có tương quan thuận giữa PCO
2
với Glasgow ở mức
độ yếu (r = 0,26). Tương quan nghịch giữa PO
2
(r
= - 0,391) và SaO
2
(r = - 0,421) với kích thước tổn
thương. Các thông số còn lại không có mối tương
quan.
4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm lâm sàng
Theo Hoàng Khánh, Nguyễn Văn Đăng thì NMN
chiếm 85%, XHN chiếm 15% [5]. Trong nghiên cứu
của chúng tôi, XHN chiếm đa số (77,14%), NMN
chiếm 22,86%. Có thể vì chúng tôi nghiên cứu tại
khoa Hồi sức cấp cứu, nên đa số bệnh nhân TBMMN
đều nặng và XHN thường gặp hơn. Điểm Glasgow từ
9-12 chiếm đa số (95,7%), điểm Glasgow trung bình
là 10,1 ± 1,276 và không có trường hợp nào có điểm
từ 8 trở xuống; khác với tác giả Nguyễn Văn Tuyến,
điểm Glasgow từ 9-12 có tỉ lệ cao nhất (46,95%); hai
nhóm còn lại có tỉ lệ thấp hơn, điểm Glasgow 3-8
có tỉ lệ 32,19%, điểm Glasgow 13-15 có tỉ lệ 20,86%
[8]. Nghiên cứu của chúng tôi có 62,9% bệnh nhân
THA tâm thu. Theo Nguyễn Văn Tuyến thì tỉ lệ này là
80%, cao hơn so với chúng tôi [8]. Nguyễn Văn Tuyến
chỉ nghiên cứu trên những bệnh nhân XHN và THA
chính là YTNC của XHN. Theo Hoàng Khánh, khi HA
tâm thu > 160mmHg thì nguy cơ XHN tăng 3,1 lần ở
nam giới và 2,9 lần ở nữ giới [6]. Kiểm soát tốt HA sẽ
phòng ngừa được TBMMN và bệnh lý tim mạch [11].
Điểm NIHSS trong nghiên cứu của chúng tôi có giá
trị trung bình là 21,93 ± 6,203, tương tự nghiên cứu
của Nguyễn Văn Tuyến có điểm NIHSS trung bình là
19,43 điểm [8].
4.3. Đặc điểm trên hình ảnh chụp não cắt lớp
vi tính
Trong nghiên cứu của chúng tôi, vị trí tổn thương
thường gặp nhất là thùy não (48,6%), sau đó là
nhân xám trung ương (28,6%), thân não và tiểu não
(8,6%). Nghiên cứu của Tôn Thất Trí Dũng cho thấy
vị trí tổn thương thường gặp nhất là bao trong và
nhân xám trung ương (34,48% trường hợp NMN và
66,66% trường hợp XHN) và tổn thương thùy não
chiếm tỉ lệ lớn (37,92% trường hợp NMN và 18,18%
trường hợp) [4]. Động mạch đậu - vân là một nhánh
xuyên của động mạch não giữa tưới máu cho vùng
bao trong, các nhân xám trung ương, cầu não, là
động mạch chịu áp lực cao, dễ thoái hóa. Charcot đã
gọi động mạch đậu - vân là động mạch của chảy máu
não (động mạch Charcot). Khi động mạch này vỡ sẽ
gây xuất huyết ở vùng nhân xám trung ương, bao
trong... [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, thể tích
tổn thương ≥ 30 cm3 chiếm tỉ lệ 54,3% và thể tích
trung bình của tổn thương là 40,44 cm3. Theo Tôn
Thất Trí Dũng, thể tích trung bình của XHN là 57 cm3
và của NMN là 30 cm3 [4]. Nghiên cứu của Nguyễn
Văn Tuyến, thể tích trung bình của XHN là 58,04 cm3
[8]. So với tác giả này thì thể tích tổn thương trung
bình của chúng tôi nhỏ hơn, có thể là do chúng tôi
có nghiên cứu trên bệnh nhân NMN.
4.3. Biến đổi của một số thông số khí máu động
mạch ở bệnh nhân tai biến mạch máu não cấp theo
thể bệnh
Đa số các giá trị trung bình ở cả ba thời điểm
(vào khoa, 24h và 48h) đều trong giới hạn bình
thường và có sự khác nhau giữa hai thể bệnh, trong
khi pH không có sự khác nhau giữa hai thể bệnh.
PCO
2
không có sự khác nhau giữa hai thể bệnh (p >
0,05) tại thời điểm 48h. Giá trị trung bình của PO
2
của bệnh nhân XHN giảm ở cả ba thời điểm. Trong
đó, pH máu biến đổi ít nhất và gần như bình thường.
Điều này là do cơ thể có hệ thống đệm điều hòa nội
mô rất tốt và pH máu là một chỉ số biến đổi chậm.
Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Christine
Roffe và của Nguyễn Văn Tuyến. Theo nghiên cứu
của Christine Roffe và cộng sự thì giá trị trung bình
của pH là 7,45 ± 0,04 [16]. Còn theo tác giả Nguyễn
Văn Tuyến thì pH máu là 7,42 ± 0,06 [8].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, PO
2
có sự biến
đổi lớn nhất, ở thể XHN sự giảm PO
2
là đáng kể, khá
tương đồng với Christine Roffe [16]. Điều này cho
thấy PO
2
là thông số rất nhạy với bệnh lý TBMMN
của bệnh nhân và thương tổn não do XHN ảnh
hưởng nhiều đến PO
2
hơn là NMN.
Một bệnh nhân TBMMN cấp có nguy cơ tiến
triển thành tình trạng giảm oxy máu là do nhiều
nguyên nhân khác nhau. Bao gồm các yếu tố liên
quan đến TBMMN như rối loạn, tổn thương trung
tâm hô hấp, ngưng thở khi ngủ cũng như các
biến chứng của TMMN như rối loạn nuốt, viêm
phổi sặc, thuyên tắc mạch phổi. Ngoài ra, các bệnh
lý tim mạch, hô hấp từ trước cũng góp phần làm
nặng tình trạng giảm oxy máu [15]. Chúng tôi không
đưa vào nghiên cứu những bệnh nhân có tiền sử
bệnh tim nặng, bệnh phổi mạn tính. Nên tình trạng
giảm PO
2
trên những bệnh nhân này là do TBMMN
gây ra. Giá trị trung bình của HCO
3
- và PCO
2
ở cả
ba thời điểm của XHN đều lớn hơn NMN, sự khác
biệt này có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, nếu so sánh
với kết quả của tác giả Nguyễn Văn Tuyến thì giá
trị PCO
2
của chúng tôi có thấp hơn, nhưng HCO
3
-
thì tương đương. Theo Nguyễn Văn Tuyến thì giá
trị trung bình của HCO
3
- là 23,66 mmol/l; của PCO
2
là 37,17mmHg, trong khi giá trị PCO
2
lớn nhất trong
nghiên cứu của chúng tôi là 36,4mmHg (ở thể XHN
tại thời điểm vào khoa) [8].
43
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Tại các thời điểm, tỉ lệ giảm PO
2
và SaO
2
ở thể
XHN cao hơn NMN, các tỉ lệ khác đều có sự khác
nhau giữa hai thể nhưng đều không có ý nghĩa thống
kê. Tỉ lệ giảm của PCO
2
, PO
2
và SaO
2
tại thời điểm
vào khoa ở thể NMN là 56,2%, 25% và 18,8%; và ở
thể XHN là 44,4%, 72,2% và 63%. Các tỉ lệ này tại
thời điểm 24h ở thể NMN là 75%, 56,2% và 50%;
ở thể XHN là 50%, 79,6% và 70,4%. Tỉ lệ giảm của
PCO
2
, PO
2
và SaO
2
tại thời điểm 48h ở thể NMN là
68,7%, 50% và 18,8%; ở thể XHN là 53,7%, 59,3% và
44,4%. Markus R. và cộng sự đã nghiên cứu bệnh
nhân TBMMN cấp thì giảm oxy máu (SaO
2
< 90%)
xảy ra ở 50% bệnh nhân, thiếu máu cục bộ làm giảm
cung cấp oxy và các dưỡng chất cho não, chuyển hóa
toan hóa càng làm tổn thương ngày càng nặng nề
hơn [14]. Theo Vingerhoets F., Bogousslavsky J. thì
giảm nồng độ oxy sau TBMMN là phổ biến, suy hô
hấp (giảm PO
2
, giảm SaO
2
) ở bệnh nhân TBMMN có
thể cung cấp các thông tin hữu ích giúp chẩn đoán
nguyên nhân cũng như tiên lượng bệnh. Vì chức
năng hô hấp phụ thuộc vào một số cấu trúc thần
kinh từ vỏ não cho đến tủy sống [18].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở cả ba thời
điểm đều có tỉ lệ các rối loạn toan kiềm có sự khác
nhau giữa hai thể, nhưng không có ý nghĩa thống
kê. Các trường hợp toan hô hấp đều ở bệnh nhân
XHN. Kiềm hô hấp ở cả hai thể đều chiếm tỉ lệ
cao nhất tại các thời điểm. Lúc vào khoa có 25%
bệnh nhân NMN bị nhiễm kiềm hô hấp và tỉ lệ này
ở nhóm XHN là 27,8%. Tại thời điểm 24h NMN có
12,5% bị nhiễm kiềm hô hấp, XHN là 33,3%. Tại
thời điểm 48h tỉ lệ kiềm hô hấp ở bệnh nhân NMN
cũng tương tự như thời điểm 24h nhưng XHN là
27,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp
với nghiên cứu của tác giả Huang R. [12]. kiềm hô
hấp là hậu quả của tình trạng tăng thông khí, mà
nguyên nhân là do trung tâm hô hấp bị kích thích
sau khi bị tổn thương thần kinh trung ương trong
bệnh cảnh TBMMN. Sự gia tăng nhịp thở kéo dài
sẽ gia tăng nguy cơ làm mệt các cơ hô hấp. Do đó,
bệnh nhân cần được theo dõi chặt chẽ để phát
hiện các dấu hiệu của suy hô hấp khi các cơ hô
hấp đã bị suy kiệt [2]. Cũng theo Huang R., thì hiện
tượng tăng thông khí mà nguyên nhân là do các
tổn thương ở não, là nguyên nhân chính gây ra tình
trạng kiềm hô hấp. Và biện pháp quan trọng nhất
để duy trì sự cân bằng toan kiềm trong giai đoạn
cấp của TBMMN là áp dụng một liệu pháp truyền
dịch và cung cấp oxy một cách hợp lý [12].
4.5. Tương quan giữa một số thông số khí máu
động mạch với thang điểm Glasgow, NIHSS và thể
tích tổn thương não trên hình ảnh chụp cắt lớp vi
tính não
Thời điểm vào khoa, chúng tôi nhận thấy có
mối tương quan nghịch giữa SaO
2
với kích thước
tổn thương ở mức độ yếu (r = - 0,264). Thể tích tổn
thương càng lớn thì SaO
2
càng giảm. HCO
3
- có tương
quan trung bình với Glasgow (r = 0,323) và tương
quan yếu với NIHSS (r = - 0,274). Các thông số còn
lại không có mối tương quan. Ở thời điểm 24h cũng
như vậy, nhưng mức độ tương quan giữa PO
2
và
SaO
2
với kích thước tổn thương ở mức độ trung bình
(r = - 0,435 và r = - 0,457) và có tương quan nghịch
giữa PO
2
và SaO
2
với NIHSS ở mức độ trung bình
với r = - 0,375 và r = - 0,309. Tại thời điểm 48h, các
tương quan giữa PO
2
, SaO
2
với NIHSS và kích thước
tổn thương cũng tương tự. Nhưng có xuất hiện mối
tương quan giữa PCO
2
với điểm Glasgow (tương
quan thuận với r = 0,260) và với NIHSS (tương quan
nghịch r = - 0,312).
Các thông số PO
2
và SaO
2
trong nghiên cứu của
chúng tôi có mối tương quan nghịch với NIHSS và
kích thước tổn thương ở các thời điểm với mức độ
khác nhau. Khi điểm NIHSS và kích thước tổn thương
càng lớn thì PO
2
và SaO
2
càng thấp. Theo Christine
Roffe thì bệnh nhân TBMMN cấp có nguy cơ giảm
oxy máu (giảm PO
2
và SaO
2
)
do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Bao gồm những yếu tố liên quan trực
tiếp đến TBMMN như rối loạn trung tâm điều hòa
hô hấp, chứng rối loạn hô hấp lúc ngủ và sự suy
yếu cơ hô hấp ở nửa người bên bị yếu, liệt [16]. Các
yếu tố này là hậu quả của tổn thương thần kinh do
TBMMN gây ra, ví dụ như XHN tại hành não gây tổn
thương trung tâm hô hấp. Các rối loạn này thường
xuất hiện từ đầu hoặc tại thời điểm tổn thương não
đầy đủ, thường là trong vòng 24h sau khi khởi phát,
và thể tích tổn thương não càng lớn thì lâm sàng
càng nặng nề, thời gian đạt đến mức tối đa càng
ngắn [6]. Ngoài ra, các biến chứng do TBMMN như
nhiễm trùng hô hấp, suy hô hấp, tắc mạch phổi, có
thể là nguyên nhân gây giảm oxy máu trong những
ngày tiếp theo. Bên cạnh đó, sự tồn tại của các bệnh
lý về tim mạch, phổi trước khi bệnh nhân nhập viện
cũng góp phần làm xuất hiện tình trạng giảm oxy
máu [16], [17].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tình trạng giảm
PO
2
và SaO
2
chủ yếu là do bệnh lý TBMMN gây ra.
Mối tương quan tuy chưa chặt chẽ nhưng cũng
phản ánh được phần nào các rối loạn đó là nguy cơ
giảm PO
2
và SaO
2
ở những bệnh nhân TBMMN. Nếu
thể tích tổn thương càng lớn, điểm NIHSS càng cao
thì nguy cơ giảm PO
2
và SaO
2
càng cao. Theo Nguyễn
Văn Tuyến, giảm PO2 và SaO2 chủ yếu ở những
bệnh nhân có điểm Glasgow thấp, điểm NIHSS cao
và thể tích tổn thương lớn [8]. Demet G.G. và cộng
sự nghiên cứu có sự tương quan thuận giữa SaO2
44
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
và điểm Glassgow của bệnh nhân TBMMN. Bệnh
nhân TBMMN cấp có nguy cơ giảm oxy máu và mức
độ nặng rối loạn oxy tùy thuộc vào mức độ nghiêm
trọng của TBMMN trên lâm sàng cũng như hình ảnh
tổn thương trên chụp não CLVT [10]. Theo Huang R.,
sự thay đổi các yếu tố toan kiềm có liên quan mật
thiết với vị trí và kích thước tổn thương não [12].
Theo Sulter G., thì giảm SaO2 ở bệnh nhân TBMMN
cấp có liên quan với mức độ nặng của bệnh, có hay
không có hiện tượng khó nuốt và tuổi [17].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tại thời điểm
48h có mối tương quan thuận giữa PCO
2
với điểm
Glasgow (r = 0,260) và tương quan nghịch với NIHSS
(r = - 0,312). Như vậy, Glasgow càng thấp và NIHSS
càng cao thì PCO
2
càng giảm. Trên thực tế điều này
không hoàn toàn đúng. Glasgow sẽ giảm đến một
mức điểm nào đó (< 8 điểm), NIHSS tăng đến một
mức điểm nào đó thì tương ứng với một bệnh cảnh
lâm sàng đã nặng nề. Sẽ có suy hô hấp do rối loạn
nhịp thở, ứ đọng chất tiết... Khi đó, xét nghiệm sẽ cho
kết quả tăng PCO
2
, nếu kết quả PCO
2
> 60mmHg kèm
với PO
2
< 60mmHg thì xem như bắt buộc phải thông
khí nhân tạo cho bệnh nhân [9]. Ngoài ra, PCO
2
còn
liên quan đến lưu lượng máu não. Khi PCO
2
giảm và
kéo dài, mạch máu não sẽ có nguy cơ co quá mức
dẫn tới giảm tưới máu não. Ngược lại, PCO
2
cao hơn
bình thường và kéo dài làm giãn mạch não dẫn đến
tăng áp lực nội sọ, làm nặng thêm tổn thương não
[5]. Trung tâm hô hấp ở hành não cũng chịu sự chi
phối bởi sự thay đổi về PCO
2
. Khi PCO
2
giảm thì trung
tâm hô hấp bị ức chế, làm giảm thông khí phế nang,
để giữ CO
2
lại. Nếu theo hai mối tương quan thuận
và nghịch đó thì khi bệnh nhân có Glasgow thấp và
NIHSS cao, tức là tình trạng lâm sàng bệnh nhân đã
nặng nề mà mạch máu não còn co lại, trung tâm hô
hấp còn bị ức chế do bị giảm PCO
2
. Thì hậu quả là
bệnh nhân sẽ rơi vào tình trạng nguy kịch, thiếu máu
não thứ phát do co mạch, rối loạn hô hấp, cần phải
được thông khí nhân tạo. Hai mối tương quan này
đều ở mức yếu và trung bình nên chưa thể dựa vào
đó để kết luận. Để đánh giá chính xác hơn, cần một
nghiên cứu đầy đủ và có số lượng bệnh nhân lớn.
5. KẾT LUẬN
5.1. Sự biến đổi của khí máu động mạch ở bệnh
nhân tai biến mạch máu não cấp theo thể xuất
huyết não và nhồi máu não pH ở cả ba thời điểm và
PCO
2
ở thời điểm 48h không có sự khác nhau giữa
hai thể bệnh (p >0,05). Các giá trị trung bình của các
thông số khác có sự khác nhau giữa hai thể bệnh.
PCO
2
và HCO
3
- của xuất huyết não cao hơn nhồi máu
não, nhưng PO
2
và SaO
2
thì ngược lại. Đa số các giá
trị trung bình của các thông số ở cả hai thể bệnh
đều trong giới hạn bình thường. Giá trị trung bình
của PO
2
ở thể xuất huyết não giảm, tại thời điểm
vào khoa là 67,5mmHg; 24h là 66,1mmHg; và 48h
là 68,3mmHg.
Tỉ lệ giảm của PCO
2
, PO
2
và SaO
2
tại thời điểm vào
khoa ở thể nhồi máu não là 56,2%, 25% và 18,8%; ở
thể xuất huyết não là 44,4%, 72,2% và 63%. Các tỉ lệ
này tại thời điểm 24h ở thể nhồi máu não là 75%,
56,2% và 50%; ở thể xuất huyết não là 50%, 79,6% và
70,4%. Thời điểm 48h ở thể nhồi máu não là 68,7%,
50% và 18,8%; ở thể xuất huyết não là 53,7%, 59,3%
và 44,4%. Các biến đổi của các thông số khác đều
có tỉ lệ thấp và có sự khác nhau giữa hai thể nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Toan hô hấp chỉ có ở thể
xuất huyết não. Kiềm hô hấp ở cả hai thể, đều chiếm
tỉ lệ cao nhất tại các thời điểm, lúc vào khoa có 25%
bệnh nhân nhồi máu não nhiễm kiềm hô hấp và tỉ lệ
này ở nhóm xuất huyết não là 27,8%. Tại thời điểm
24h có 12,5% bệnh nhân nhồi máu não nhiễm kiềm
hô hấp, xuất huyết não là 33,3%. Tại thời điểm 48h tỉ
lệ kiềm hô hấp ở bệnh nhân nhồi máu não là 12,5%,
xuất huyết não là 27,8%.
5.2. Mối tương quan và liên quan giữa khí máu
động mạch với thang điểm Glasgow, NIHSS, và thể
tích tổn thương não trên hình ảnh chụp não cắt lớp
vi tính
Tại thời điểm vào khoa, SaO
2
có tương quan
nghịch với kích thước tổn thương ở mức độ yếu (r
= - 0,264, p <0,05). HCO
3
- có tương quan với Glasgow
(r = 0,323; p <0,01) và NIHSS (r = - 0,274; p <0,05).
Các thông số còn lại không có mối tương quan.
Tại thời điểm 24h, có tương quan nghịch giữa
PO
2
và SaO
2
với NIHSS ở mức độ trung bình với r = -
0,375 (p = 0,001) và r = - 0,309 (p <0,01). Tương quan
nghịch giữa PO
2
(r = - 0,435) và SaO
2
(r = - 0,457)
với kích thước tổn thương ở mức độ trung bình (p
<0,0001). Các thông số còn lại không có tương quan.
Tại thời điểm 48h, có tương quan nghịch giữa
PCO
2
, PO
2
và SaO
2
với NIHSS ở mức trung bình và
yếu với r = - 0,312 (p <0,01), r = - 0,305 (p = 0,01)
và r = - 0,270 (p <0,05). PCO
2
có tương quan thuận
với Glasgow ở mức độ yếu (r = 0,260, p < 0,05). Có
tương quan nghịch giữa PO
2
(r = - 0,391; p = 0,001)
và SaO
2
(r = - 0,421; p < 0,001) với kích thước tổn
thương. Các thông số còn lại không có tương quan.
45
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế Tập 7, số 4 - tháng 8/2017
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đạt Anh, Mai Duy Tôn (2015), Xử trí cấp cứu
đột quỵ não, Nxb Thế giới, tr. 164, 239.
2. Lê Văn Bàng (2013), Giáo trình sau đại học Hô hấp
học, Nxb Đại học Huế, tr. 38-48.
3. Bộ môn Sinh Lý học Đại học Y Hà Nội (2014), Sinh lý
học, Nxb Y học, tr. 13-209.
4. Tôn Thất Trí Dũng (2001), Nghiên cứu mối liên hệ
giữa hình ảnh tổn thương não qua chụp cắt lớp vi tính với
các biểu hiện lâm sàng ở bệnh nhân tai biến mạch máu
não giai đoạn cấp, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại
học Y Khoa Huế.
5. Nguyễn Văn Đăng (2006), Tai biến mạch máu não,
Nxb Y học, tr. 12, 38-89, 162.
6. Hoàng Khánh (2013), Giáo trình sau đại học Thần
kinh học, Nxb Đại học Huế, tr. 207-270.
7. Huỳnh Văn Minh (2014), Giáo trình sau đại học Tim
mạch học, Nxb Đại học Huế, tr. 70-77.
8. Nguyễn Văn Tuyến (2013), Nghiên cứu đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và chỉ định thông khí cơ học ở
bệnh nhân chảy máu não mức độ vừa và lớn trên lều tiểu
não, Luận án tiến sỹ Y học, Viện nghiên cứu khoa học Y
dược lâm sàng 108.
9. Berrouschot J., Rössler A., et al (2000), “Mechanical
ventilation in patients with hemispheric ischemic stroke”,
Crit Care Med, 28 (8), pp. 2956-2961.
10. Demet G.G., Talip A.A., et al (2000), “The
evaluation of cerebral oxygenation by oximetry in patients
with ischaemic stroke”, Stroke, 46, Issue 2, pp. 70-74.
11. Gorelick P.B. (2002), “New horizons for stroke
prevention, PROGRESS and HOPE”, Lancet Neurology, 1
(3), pp. 149-156.
12. Huang R. (1991), “Acid base imbalance in acute
cerebrovascular diseases”, Chinese journal of neurology,
24 (6), pp. 7355-7384.
13. Norcliffe L.J., Claydon V.E., et al (2005),
“Cerebrovascular responses to hypoxia and hypocapnia
in high-altitude dwellers”, J. Physiol, 566 (1), pp. 287-294.
14. Markus R., Reutens D.C., et al (2004), “Hypoxia
tisue in ischaemic stroke: persistence and clinical
consequences of spontaneous survival”, Brain, pp. 1427-
1436.
15. Roffe C. (2002), “Hypoxia and stroke”, Age and
Ageing, 31 - S2, p. 10-12.
16. Roffe C., Sills S., et al (2003), “Unexpected
nocturnal hypoxia in patients with acute stroke”, Stroke,
34 (11), pp 2641-2645.
17. Sulter G., Elting J.W., et al (2000), “Continuous
pulse oximetry in acute hemiparetic stroke”, J Neurol Sci.,
179, pp. 65-69.
18. Vingerhoets F., Bogousslavsky J. (1994),
“Respiratory dysfunction in stroke”, Clin Chest Med, 15(4),
pp. 729-737.
19. Weng W.C., Huang W.Y., et al (2011), “The impact
of smoking on the severity of acute ischemic stroke”,
Journal of the neurological sciences, 308 (1), pp. 94-97.
20. WHO (2014), “The 10 leading causes of death
in the world, 2000 and 2012”,
mediacentre/factsheets/fs310/en/.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_khi_mau_dong_mach_o_benh_nhan_tai_bien_mach_mau_n.pdf