Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến tỷ lệ sống
sót và sinh trưởng của cây ngải đen ở giai đoạn
vườn ươm
Kết quả thí nghiệm cho thấy (Bảng 5), tỷ lệ sống
sót và khả năng sinh trưởng của cây mầm ngải đen
chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi chế độ che bóng. Chế độ
che bóng thích hợp nhất là 60 - 70% còn trong điều
kiện che bóng là 40 - 50% quá nắng so với cây Ngải
đen nên cây sinh trưởng phát triển kém và tỷ lệ sống
sót ở chế độ che bóng 80 - 90% là thấp nhất do nhiều
mầm cây bị nấm bệnh. Các công thức tỷ lệ sống sót
cũng như các chỉ tiêu sinh trưởng đều có sự sai khác
khi so sánh số liệu trong cùng một cột.
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy: Củ giống Ngải
đen có khối lượng 30 g - 40 g/1 nhánh cho tỷ lệ
nảy mầm cao nhất 100%, và các củ giống có khối
lượng như nhau nhưng càng nhiều nhánh thì tỷ lệ
nảy mầm và khản năng sinh trưởng, phát triển càng
thấp. Đối với thành phần giá thể đất + trấu hun
(1 : 1) hoặc cát 100% là tốt nhất cho tỷ lệ nảy mầm
đạt 100%, thời gian ươm tới khi xuất vườn 45 - 46
ngày. Khi bổ sung chất kích thích sinh trưởng GA3
ở nồng độ 150 ppm, N3M hoặc ROOTS NEW đều
cho tỷ lệ nảy mầm cao 100%, và ROOTS NEW có
thời gian ươm tới xuất vườn thấp nhất 40 ngày. Các
chỉ tiêu như tỷ lệ sống sót, chiều cao cây, đường kính
thân, chiều dài rễ của cây Ngải đen thích hợp nhất ở
chế độ che bóng 60 - 70%.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống ngải đen (kaempferia parviflora) bằng chồi củ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
49
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
vệ thực vật. Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng
dụng, Trường Đại học Cần Thơ.
Phạm Minh Lý, 2016. Khảo sát một số cơ chế đối kháng
với vi khuẩn Xanthomonas oryzae pv. oryzae gây bệnh
cháy bìa lá của các chủng xạ khuẩn triển vọng. Luận
văn tốt nghiệp kỹ sư chuyên ngành bảo vệ thực vật,
Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường
Đại học Cần Thơ.
Ertuğrul, S., G. Dönmez and S. Takaç, 2007. Isolation
of lipase producing Bacillus sp. from olive mill
wastewater and improving its enzyme activity.
Journal of Hazardous Materials, 149(3): 720-724.
Hsu, S., J. Lockwood, 1975. Powered chitin agar as a
selective medium for enumeration of actinomycetes
in water and soil. Apllied microbiology, 29(3): 422-426.
Mitra, P. and P. Chakrabartty, 2005. An extracellular
protease with depilation activity from Streptomyces
nogalator. Journal of Scientific and Industrial
Research, 64(12): 978-983.
Wonni, I., B. Cottyn, L. Detemmerman, S. Dao, L.
Ouedraogo, S. Sarra and V. Verdier, 2014. Analysis
of Xanthomonas oryzae pv. oryzicola Population
in Mali and Burkina Faso Reveals a High Level of
Genetic and Pathogenic Diversity. Phytopathology,
104(5): 520-531.
Yan-Min. V., T. Da Quun, T. Shi Min and Z. Ding,
2000. The antagonism of 26 strains Streptomyces sp.
against several vegetables pathogens. Hebaei Agric.
Univ., 23: 65-68.
Evaluation of antagonistic ability of actinomyces
for Xanthomonas oryzae pv. oryzicola causing bacterial leaf streak disease on rice
Tang Kim, Tran Van Dung, Le Minh Tuong
Abstract
The research was conducted in the laboratory of Plant Protection Department, Can Tho University to screen
actinomycetes to control bacterial leaf streak disease on rice caused by Xanthomonas oryzae pv. oryzicola. Eighteen
of 87 strains in total were able to resist against X. oryzae pv. oryzicola in laboratory condition. The experiments for
antagonistic ability of 18 actinomyces strains in controlling X. oryzae pv. oryzicola arranged in completely randomized
design with 5 replications. The results found that 4 strains CT4, ĐT24, TV4 and ĐT12 had high antagonistic
ability with a radius of inhibition zones reaching 5.0 mm; 4.8 mm; 4.6 mm and 4.8 mm respectively at 7 days after
inoculation. On the other hand, the lipolytic ability was also checked with 5 replications by completely randomized
design. The results indicated that 4 testing strains could produce lipase and 3 strains ĐT24, CT4 and ĐT12 expressed
the lipolytic activity, with the lipolytic halo radius of 14.00 mm; 14.90 mm and 15.20 mm respectively at 9 days after
testing. Beside, protease activity assay was tested with 5 replications by completely randomized design. The results
found that 4 strains could produce protease and the ĐT24 isolate expressed the highest proteinolytic activity with
proteinolytic halo radius of 17.58 mm at 9 days after testing.
Keywords: Actinomyces, bacterial leaf streak on rice, lipid, protein, Xanthomonas oryzae pv. Oryzicola
Ngày nhận bài: 13/4/2020
Ngày phản biện: 22/4/2020
Người phản biện: TS. Trần Đình Giỏi
Ngày duyệt đăng: 29/4/2020
1 Viện Nghiên cứu và Phát triển Vùng, Bộ Khoa học và Công nghệ; 2 Trường THPT Thạch Bàn, Hà Nội
NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG NGẢI ĐEN
(Kaempferia parviflora) BẰNG CHỒI CỦ
Đào Thùy Dương1, Nguyễn Thị Thu1, Trần Ngọc Lân1,
Nguyễn Đắc Bình Minh1, Nguyễn Viết Trung2
TÓM TẮT
Ngải đen là một loại dược liệu quý hiếm của Việt Nam, được nhân giống từ chồi củ, khối lượng củ giống từ
30 g - 40 g/1 nhánh cho tỷ lệ nảy mầm cao 100%, khi trồng nên chọn loại củ giống 1 nhánh to khỏe không nên chọn
củ nhiều nhánh nhỏ. Thành phần giá thể đất + trấu hun (1 : 1) hoặc cát 100% cho tỷ lệ nảy mầm đạt 100%, thời
gian ươm tới khi xuất vườn 45 - 46 ngày. Bổ sung chất kích thích sinh trưởng GA3 ở nồng độ 150 ppm, N3M hoặc
ROOTS NEW (pha theo khuyến cáo) đều cho tỷ lệ nảy mầm cao 100%, thời gian ươm tới khi xuất vườn giảm từ
8 - 12 ngày so với đối chứng. Chế độ che bóng thích hợp là 60 - 70% cây có tỷ lệ sống sót 100%, tăng khản năng phát
triển cây con.
Từ khóa: Ngải đen (Kaempferia parviflora), chồi củ, kỹ thuật nhân giống
50
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngải đen (Kaempferia parviflora Wall. Ex Baker)
còn được gọi là sâm Thái, địa liền đen thuộc họ
Gừng (Zingiberaceae). Ngải đen đã được sử dụng
như một loại thuốc dân gian có tác dụng kích thích
tiêu hóa, cải thiện lưu lượng máu và tăng cường sức
khỏe. Các chiết xuất hoạt chất sinh học trong củ ngải
đen có tác dụng kháng khuẩn rất mạnh giúp điều trị
chứng dị ứng (Tewtrakul et al., 2008), chống viêm
loét dạ dày (Rujjanawate et al., 2005), chống viêm
(Panthong et al., 1989), kháng ký sinh trùng sốt rét
và kháng nấm (Yenjai et al., 2004). Theo Trisomboon
(2009), củ ngải đen còn được xem như là nhân sâm
Thái, có khả năng tăng cường sinh lực, tăng cường
sức đề kháng của cơ thể đối với stress, làm giảm
triglycerides, ngăn ngừa bệnh tiểu đường.
Trên thế giới, cây ngải đen vẫn chưa được trồng
với quy mô lớn và chưa có nhiều nghiên cứu về nhân
giống. Một số công trình nghiên cứu về canh tác cây
ngải đen, như Iwana (2014), nghiên cứu nhân giống
Kaempferia parviflora ươm trồng trên một số thành
phần môi trường và nồng độ Paclobutrazol khác
nhau. Catherine và cộng tác viên (2014), nghiên cứu
thúc đẩy chồi ngủ của Kaempferia parviflora bằng
xử lý BAP và Ethephon. Theo Muaz và cộng tác viên
(2014), Kaempferia parviflora có tiềm năng để phát
triển cho một cây thuốc mới ở Indonesia. Một số
nghiên cứu về trồng trọt, như Jeff và cộng tác viên
(2005), ảnh hưởng của cường độ ánh sáng, thời gian
chiếu sáng và chất làm chậm sinh trưởng cây đến sản
xuất Kaempferia parviflora trồng trong chậu cảnh.
Khumaida (2012), nghiên cứu điều kiện độ cao và
che bóng ảnh hưởng đến tăng trưởng sinh dưỡng
của Kaempferia parviflora.
Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào về nhân
giống cây ngải đen. Do đó, việc tiến hành nghiên
cứu nhân giống cây ngải đen từ chồi củ là việc cần
thiết trong việc chủ động nguồn cây giống vì hiện
nay cây ngải đen ngoài tự nhiên không còn nhiều.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Củ ngải đen (Kaempferia
parviflora) được thu thập tại vùng núi tỉnh Thanh Hóa.
- Vật liệu nghiên cứu:
+ Giá thể bao gồm đất phù sa, vỏ trấu được hun
trong điều kiện yếm khí, vỏ trấu hun thành phẩm
còn nguyên cánh, màu đen và cát vàng đã được xử lý.
+ Dụng cụ: Bầu ươm mầu đen có kích thước
7 cm ˟ 12 cm, thuốc kích thích GA3, N3M, ROOTS
NEW, thuốc trừ nấm Carbendazim, dụng cụ đo ánh
sáng, lưới đen.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí thí nghiệm
a) Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của khối lượng thân
rễ ngải đen đến thời gian và tỷ lệ nảy mầm chồi củ
ngải đen
Khối lượng củ ngải đen gồm 4 công thức (CT):
CT1: 10 g/1nhánh, CT2: 20 g/1nhánh, CT3: 30 g/1
nhánh và CT4: 40 g/1 nhánh. Giá thể trồng: 50% đất
+ 50% vỏ trấu hun.
b) Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của số nhánh thân rễ
ngải đen đến thời gian và tỷ lệ nảy mầm chồi củ
ngải đen
Số lượng nhánh gồm 3 công thức (CT): CT1: củ
giống 1 nhánh (20 g); CT2: củ giống 2 nhánh (20 g);
CT3: củ giống 3 nhánh (20 g). Giá thể trồng: 50% đất
+ 50% vỏ trấu hun.
Các thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên (CRD) với 3 lần nhắc lại, mỗi công thức 30 củ
chồi/lần nhắc lại.
c) Thí nghiệm 3: Ảnh hưởng của thành phần giá thể
đến thời gian sinh trưởng và tỷ lệ nảy mầm chồi củ
ngải đen
Thí nghiệm ở 4 công thức: CT1: 100% đất;
CT2: 50% đất + 50% cát; CT3: 50% đất + 50% trấu
hun; CT4: 100% cát sông. Các thí nghiệm được bố
trí hoàn toàn ngẫu nhiên CRD với 3 lần nhắc lại, mỗi
công thức 30 củ chồi/lần nhắc lại. Tỷ lệ của giá thể
được tính theo thể tích của bầu ươm.
d) Thí nghiệm 4: Ảnh hưởng của chất kích thích sinh
trưởng đến tỷ lệ nảy nầm chồi củ ngải đen
Khử trùng củ ngải đen bằng thuốc Carbendazim
(pha theo khuyến cáo) trong vòng 15 phút, sau đó
rữa lại bằng nước sạch và vớt ra phơi ở nhiệt độ
25O - 27OC, nơi thoáng khí trong 2 ngày; và ngâm
trong dung dịch các chất kích thích sinh trưởng,
CT1: Ngâm nước sạch; CT2: Ngâm trong GA3
150 ppm; CT3: Ngâm trong N3M; CT4: Ngâm trong
ROOTS NEW; N3M và ROOTS NEW nồng độ được
pha theo khuyến cáo, GA3, ngâm trong 15 phút.
e) Thí nghiệm 5: Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến
tỷ sống sót và khản năng sinh trưởng của cây con ngải
đen sau 3 tháng ươm trồng
Các công thức thí nghiệm: CT1: Che bóng
40 - 50%; CT2: Che bóng 60 - 70%; CT3: Che bóng
80 - 90%.
51
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Các ô thí nghiệm được che bóng bằng các lớp
lưới đen và sử dụng dụng cụ đo ánh sáng để kiểm tra
chế độ che bóng.
Thí nghiệm được tiến hành trong vườn ươm có
mái che lưới đen. Các công thức được bố trí theo
khối hoàn toàn ngẫu nhiên CRD với 3 lần nhắc lại,
mỗi công thức 30 củ chồi/lần nhắc lại.
2.2.2. Chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
- Tỷ lệ nảy mầm (%) = tổng số củ nảy mầm/tổng
số củ ươm ˟ 100%.
- Thời gian nảy mầm (ngày): Từ ươm đến nảy
mầm 50%.
- Thời gian cây con xuất vườn (ngày): Từ khi ươm
đến khi xuất vườn. Cây con sinh trưởng tốt, không
bị sâu bệnh, có chiều cao từ 20 cm trở lên.
- Tỷ lệ hình thành cây con (%) = tổng số cây con/
tổng số củ ươm ˟ 100%.
- Chiều cao cây (cm) đo từ mặt đất đến điểm cuối
của lá.
- Đường kính thân (mm) đo bằng kẹp Palme, đo
cách gốc 1 cm.
- Chiều rộng lá (cm) đo ở vị trí rộng nhất của lá.
- Chiều dài lá đo từ cuống đến ngọn lá, số rễ/cây
đếm tổng số rễ/cây.
- Chọn 10 cây theo dõi chỉ tiêu sinh trưởng theo
phương pháp đường chéo góc.
Các số liệu được đo đếm sau 3 tháng ươm trồng.
2.2.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý trên phầm mềm IRRISTAT 5.0
và Excel 2007.
2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3 đến tháng 9
năm 2017.
- Địa điểm nghiên cứu: Thí nghiệm được bố trí
tại xã Ái Thượng, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Ảnh hưởng của khối lượng và số nhánh củ
chồi đến thời gian và tỷ lệ nảy mầm củ ngải đen
Dinh dưỡng cần cho giai đoạn nảy mầm được
cung cấp chủ yếu từ các chất dinh dưỡng được dự trữ
trong củ giống. Theo Zhao và Xu (1992), giai đoạn
nảy mầm chỉ cần khoảng 0,24% tổng khối lượng của
củ giống. Tuy nhiên, gian đoạn này là nền tảng của
quá trình sinh trưởng, phát triển về sau của cây. Việc
chọn củ giống, đúng kích thước, khối lượng và tạo
điều kiện thuận lợi để ươm trồng là rất cần thiết.
Vì vậy, kích thước và dinh dưỡng của củ giống có
ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cây con trong giai
đoạn tiếp theo (trích dẫn theo Ravindran và Nirmal,
2005). Thời gian đầu, nếu khối lượng mầm nhỏ khả
năng nảy mầm sẽ kém hơn, cây sinh trưởng chậm
hơn do nguồn dinh dưỡng dự trữ trong củ ít, cây
cần nhiều thời gian hơn để tạo ra một lượng vật chất
nuôi cơ thể và dự trữ. Như vậy, khối lượng mầm
càng lớn thì thời gian sinh trưởng càng ngắn, tỷ lệ
nảy mầm càng cao. Kết quả này cũng giống với kết
quả nghiên cứu ảnh hưởng của khối lượng củ giống
gừng đến thời gian sinh trưởng và tỷ lệ nảy mầm của
Mai Thị Thúy, Ninh Thị Phíp (2013).
Bảng 1. Ảnh hưởng của khối lượng củ giống đến thời gian và tỷ lệ nảy mầm của ngải đen
Công thức
Thời gian từ ươm
giống đến nảy
mầm 50% (ngày)
Thời gian từ trồng
đến xuất vườn của
cây con (ngày)
Tỷ lệ nảy
mầm (%)
Chiều cao
mầm (cm)
Đường kính
mầm (mm)
CT1: 10 g/1 nhánh 27 42 99,00b 2,95d 3,13d
CT2: 20 g/1 nhánh 24 39 99,66ab 3,54c 4,62c
CT3: 30 g/1 nhánh 22 37 100a 4,12b 5,12b
CT4: 40 g/1 nhánh 20 35 100a 5,03a 5,57a
LSD0,05 0,99 0,36 0,15
CV (%) 2,5 4,7 1,5
Ghi chú: Các bảng có số liệu trong cùng một có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
Số liệu so sánh sự sai khác giữa các công thức về
tỷ lệ nảy mầm cho thấy CT2, CT3 và CT4 không có
sự sai khác, còn chiều cao và đường kính của mầm
thì có sự sai khác giữa các công thức. Như vậy công
thức CT4 (40 g) thời gian nảy mầm ngắn 20 ngày,
tỷ lệ mầm hình thành cây con cao 100%, chiều cao
mầm 5,03 cm và đường kính mầm 5,57 mm lớn nhất.
52
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Bảng 2. Ảnh hưởng của số nhánh tới tỷ lệ nảy mầm
và khả năng sinh trưởng cây ngải đen sau 45 ngày ươm
Công thức
Tỷ lệ củ
giống nảy
mầm (%)
Số lượng mầm ngải đen Chiều
cao mầm
trung bình
(cm)
Đường
kính mầm
trung bình
(mm)
Củ giống
nảy 1 mầm
(củ giống)
Củ giống
nảy 2 mầm
(củ giống)
Củ giống
nảy 3 mầm
(củ giống)
CT1: củ giống (20 g, 1 nhánh) 100 90 0 0 4,51a 4,12a
CT2: củ giống (20 g, 2 nhánh) 97,7 56 32 0 3,40b 3,50b
CT3: củ giống (20 g, 3 nhánh) 94,4 50 25 0 3,01c 3,00c
LSD0,05 0,26 0,36
CV (%) 3,2 4,6
Số liệu thí nghiệm khối lượng bằng nhau (20 g)
cho thấy (Bảng 2), loại củ giống 1nhánh/củ cho tỷ
lệ nảy mầm 100%, có mầm to khỏe nhất, chiều cao
mầm trung bình là 4,51cm, đường kính mầm trung
bình là 4,12 mm. Ở công thức 2 nhánh/1 củ giống tỷ
lệ nảy mầm đạt 97,7% và có số lượng củ giống nảy
1 mầm 56 củ, nảy 2 mầm là 32 củ. Đối với loại củ
giống 3 nhánh/củ giống có tỷ lệ nảy mầm thấp nhất
nhưng vẫn nảy mầm được 94,4% trong đó số lượng
nảy 1 mầm là 50 củ, nảy 2 mầm là 25 củ và nảy 3
mầm chỉ có 10 củ và kích thước của cây con sau 45
ngày ươm của củ 1 nhánh dài và to nhất còn củ lên
3 nhánh các cây mầm thấp và bé nhất. Như vậy khi
chọn củ chồi ngải đen làm giống nên chọn loại củ 1
nhánh to khỏe không nên chọn củ nhiều nhánh nhỏ.
3.2. Ảnh hưởng của thành phần giá thể bầu ươm
đến tỷ lệ sống sót và khả năng sinh trưởng của cây
ngải đen ở giai đoạn vườn ươm
Số liệu thí nghiệm (Bảng 3) cho thấy, sau 45 ngày
ươm, tỷ lệ nảy mầm trên tất cả các giá thể khá cao
từ 83% - 100%. Điều này cho thấy cây ngải đen có
khả năng thích nghi cao với điều kiện vườn ươm.
Trong 4 loại giá thể trồng, ở công thức CT1 (100%
đất) ngải đen nảy mầm (50%) nhanh hơn 25 ngày có
thể do khả năng giữ ẩm của giá thể này là tốt nhất;
còn CT2 (50% đất + 50% cát) và CT3 (50% đất +
50% vỏ trấu hun) củ ngải đen nảy mầm chậm có thể
do khả năng giữ nước thời gian đầu kém. Bên cạnh
đó giá thể còn ảnh hưởng đến tỷ lệ nảy mầm. Công
thức CT3 (50% đất + 50% trấu) và CT4 (100% cát)
khả năng nảy mầm và hình thành cây con cao nhất
là 100%, thấp nhất là công thức CT1 (đất) công thức
đối chứng chỉ đạt 83,31%. Kết quả nghiên cứu này
phù hợp với kết quả nghiên cứu của Marsh và cộng
tác viên (2005) cho rằng độ ẩm của các giá thể khác
nhau, ảnh hưởng đến khả năng nảy mầm sớm của
cây ngải đen.
Bảng 3. Ảnh hưởng của giá thể trồng
đến thời gian và tỷ lệ nảy mầm của ngải đen
Công thức
Thời gian
từ trồng
đến nảy
mầm 50%
(ngày)
Thời gian từ
trồng đến
xuất vườn
của cây con
(ngày)
Tỷ lệ
nảy
mầm
(%)
CT1: 100% đất
(ĐC) 25 40 83,31
c
CT2: 50% đất +
50% cát sông 28 43 91,72
b
CT3: 50% đất +
50% trấu hun 28 45 100
a
CT4: 100% cát 31 46 100a
LSD0,05 1,77
CV (%) 2,9
3.3. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng lên
khả năng nảy mầm và ra rễ của cây ngải đen
Trong thí nghiệm có bổ sung chất kích thích
sinh trưởng, thời gian trồng tới khi cây con đủ
điều kiện xuất vườn được rút ngắn từ 52 ngày ở đối
chứng (không ngâm) xuống còn ngắn nhất là 40
ngày (ngâm trong Roots New); tỷ lệ nảy mầm cũng
tăng từ 95% ở đối chứng lên 100% ở tất cả các công
thức có bổ sung chất kích thích sinh trưởng. Tỷ lệ
auxin/cytokinin khác nhau dẫn đến thời gian nảy
mầm và thời gian xuất vườn khác nhau. Cụ thể, thời
gian trồng tới khi nảy mầm 50% ngâm trong GA3
150ppm, N3M, Roots New lần lượt là 24 ngày, 22
ngày và 20 ngày. Ngải đen được ngâm trong GA3 ở
nồng độ 150 ppm thời gian trồng tới khi xuất vườn
là 46 ngày, giảm 8 ngày so với công thức đối chứng; ở
công thức ngâm trong N3M và Roots New cho thấy
thời gian trồng đến khi xuất vườn từ 40 đến 42 ngày,
giảm từ 10 - 12 ngày so với đối chứng.
53
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
Như vậy, chất kích thích sinh trưởng có ảnh
hưởng tới thời gian ươm cây con ngải đen ở giai
đoạn vườn ươm, rút ngắn thời gian nảy mầm, tỷ lệ
nảy mầm đều đạt 100%.
Bảng 4. Ảnh hưởng của chất kích thích sinh trưởng
đến thời gian, tỷ lệ nảy mầm của ngải đen
Công thức
Thời gian
từ gieo ươm
đến khi nảy
mầm 50%
(ngày)
Thời gian
từ gieo ươm
đến xuất
vườn của cây
con (ngày)
Tỷ lệ
nảy
mầm
(%)
CT1: Ngâm nước
sạch (ĐC) 30 52 95,00
b
CT2: Ngâm trong
GA3 150 ppm
24 46 100a
CT3: Ngâm trong
N3M 22 42 100
a
CT4: Ngâm trong
ROOTS NEW 20 40 100
LSD0,05 1,84
CV (%) 2,5
3.4. Ảnh hưởng của chế độ che bóng đến tỷ lệ sống
sót và sinh trưởng của cây ngải đen ở giai đoạn
vườn ươm
Kết quả thí nghiệm cho thấy (Bảng 5), tỷ lệ sống
sót và khả năng sinh trưởng của cây mầm ngải đen
chịu ảnh hưởng rõ rệt bởi chế độ che bóng. Chế độ
che bóng thích hợp nhất là 60 - 70% còn trong điều
kiện che bóng là 40 - 50% quá nắng so với cây Ngải
đen nên cây sinh trưởng phát triển kém và tỷ lệ sống
sót ở chế độ che bóng 80 - 90% là thấp nhất do nhiều
mầm cây bị nấm bệnh. Các công thức tỷ lệ sống sót
cũng như các chỉ tiêu sinh trưởng đều có sự sai khác
khi so sánh số liệu trong cùng một cột.
Bảng 5. Ảnh hưởng của chế độ che bóng
đến tỷ lệ nảy mầm, ra rễ và sinh trưởng
của cây ngải đen sau 3 tháng ươm trồng
Công thức
Tỷ lệ
sống
sót (%)
Chiều
cao
cây
(cm)
Đường
kính
thân
(mm)
Chiều
dài rễ
(cm)
CT1: Che bóng
40 - 50% 87,33
b 28,06b 5,57 b 8,03b
CT2: Che bóng
60 - 70% 100,00
a 42,28a 6,70a 10,63a
CT3: Che bóng
80 - 90% 71,00
c 36,61c 5,11b 7,03b
LSD0,05 5,44 2,67 1,14 2,34
IV. KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy: Củ giống Ngải
đen có khối lượng 30 g - 40 g/1 nhánh cho tỷ lệ
nảy mầm cao nhất 100%, và các củ giống có khối
lượng như nhau nhưng càng nhiều nhánh thì tỷ lệ
nảy mầm và khản năng sinh trưởng, phát triển càng
thấp. Đối với thành phần giá thể đất + trấu hun
(1 : 1) hoặc cát 100% là tốt nhất cho tỷ lệ nảy mầm
đạt 100%, thời gian ươm tới khi xuất vườn 45 - 46
ngày. Khi bổ sung chất kích thích sinh trưởng GA3
ở nồng độ 150 ppm, N3M hoặc ROOTS NEW đều
cho tỷ lệ nảy mầm cao 100%, và ROOTS NEW có
thời gian ươm tới xuất vườn thấp nhất 40 ngày. Các
chỉ tiêu như tỷ lệ sống sót, chiều cao cây, đường kính
thân, chiều dài rễ của cây Ngải đen thích hợp nhất ở
chế độ che bóng 60 - 70%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Mai Thị Thúy, Ninh Thị Phíp, 2013. Ảnh hưởng của giá
thể và khối lượng củ giống đến sinh trưởng và năng
suất của củ gừng trồng bao tại Gia Lâm, Hà Nội. Tạp
chí Khoa học và Phát triển, 2013, 11(4): 482-491.
Catherine D.L., Thohirah L.A., Johnson S., NurAshikin
P.A., Maheran A.A., 2014. Morphological
Description for Kunyit Hitam (Kaempferia
parviflora) and Breaking Bud Dormancy with BAP
and Ethephon Treatments. Trans. Malaysian Soc.
Plant Physiol., 22: 139-142.
Iwana P.P., 2014. Acclimatization of Kaempferia
parvifloraWall. Ex. Baker on Several Growing
Medium Compositions and Various Paclobutrazol
Concentrations. Institut Pertanian Bogor, 33pp.
Jeff S.K., M. Sarmiento, M.P. Paz, P.C. Branch, 2005.
Effect of Light Intensity, Photoperiod and Plant
Growth Retardants on Production of Zingiberacea
as Pot Plants. Proc. VthIS on New Flor. Crops,
pp.145-154.
Khumaida N., 2012. Altitude and shading conditions
affect vegetative growth of Kaempferia parviflora.
Bogor Agricultural University, 61pp.
Marsh L., Corrie Cotton, Elizabeth Philip and Isoken
Aighewi, 2005. Media Type and Moisture Influence
Growth and Development of Ginger (Zingiber
officinalis) Propagules. HortScience, 4 (40): 1032.
Muaz A.K., S. W. Ardie, D. N. Khumaida, 2014.
Pematahan Dormansi Rimpang Kaempferia parviflora
Wall. ex Baker. Bul. Agrohorti, 2 (1): 104-114.
Panthong A., Tassaneeyakul W., Kanjanapothi D.,
Tantiwachwuttikul P., Reutrakul V., 1989. Anti-
inflammatory activity of 5,7-dimethoxyflavone.
Planta Med., 55, 133-136.
54
Tạp chí Khoa học Công nghệ Nông nghiệp Việt Nam - Số 5(114)/2020
NGHIÊN CỨU XỬ LÝ PHÂN RUỒI LÍNH ĐEN
THÀNH PHÂN HỮU CƠ SINH HỌC VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ ĐẾN CẢI THIỆN ĐỘ pH, ĐỘ ẨM ĐẤT
Lâm Văn Hà1, Hà Tú Vân2, Huỳnh Hoàng Giang2,
Võ Văn Ai Vy2, Nguyễn Hà Linh2, Đặng Ngô Nhật Anh2
TÓM TẮT
Quy trình xử lý phân ruồi lính đen kết hợp với than sinh học để sản xuất phân hữu cơ sinh học được tiến hành
gồm 70% phân ruồi lính đen + 30% than sinh học từ vỏ trấu và chế phẩm ví sinh vật (Bacillus subtilis, Streptomyces
sp.) tất cả các nguyên liệu trên được phối trộn đều ủ bán hiếu khí trong 21 ngày có kiểm soát nhiệt độ (65 - 750C),
độ ẩm (50%). Thành phẩm sau khi ủ được đánh giá chất lượng dựa vào Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia QCVN 01-
189:2019/BNNPTNT về Chất lượng phân bón. Phân ruồi sau xử lý ủ hoai có chất lượng như sau: pH: 7,23; OM:
57,07 (%); Nts: 2,46 (%); axit humic: 3,79 (%); axit fulvic: 3,55 (%); K2Ots: 6,94 (%); P2O5ts: 5,34 (%) và tỉ lệ C/N:
11,74. Về các chỉ tiêu kim loại nặng (Cd, Pb, As và Hg) và vi sinh vật gây hại (Salmonella và E.coli) không phát hiện.
Qua đánh giá chất lượng của phân ruồi lính đen đến cải thiện pH và khả năng giữ ẩm trên đất xám, kết quả thực
nghiệm cho thấy với lượng bón 6.000 kg/ha trong 14 ngày không tưới nước cho đất, phân ruồi lính đen đã tăng
cường khả năng giữ ẩm và cải thiện pH đất tốt hơn so với phân gà xử lý và phân trùn quế khi bón cùng liều lượng.
Từ khoá: Phân ruồi lính đen, phân hữu cơ sinh học, pH đất, độ ẩm đất
Ravindran P.N. and K. Nirmal Babu, 2005. Ginger
- The Genus Zingiber. Medicinal and Aromatic
Plants - Industrial Profiles, pp. 15-35, 250, 259-263,
265-270, 291 - 293.
Rujjanawate C., Kanjanapothi D., Amornlerdpison
D., Pojanagaroon S., 2005. Anti-gastric ulcer effect
of Keampferia parviflora. J. Ethnopharmacol., 102:
120-122.
Tewtrakul S., Subhadhirasakul S., Kummee S.,
2008. Anti - Allergic Activity of Compounds from
Keampferia parviflora. Journal of Ethnopharmacology,
116 (1): 191-193.
Trisomboon H., 2009. Keampferia parviflora: A Thai
Herbal Plant, Nerther Promote Reproductive
Function Nor Increase Lobido via Male Hormone.
Thai Journal of Physiological Sciences, 21: 83-86.
Yenjai C., Prasanphen K., Daodee S., Wongpanich
V., Kittakoop P., 2004. Bioactive flavonoids from
Keampferia parviflora. Fitoterapia, 75 (1): 89-92.
Study on techniques of black ginger (Kaempferia parviflora)
multiplication by root buds
Dao Thuy Duong, Nguyen Thi Thu, Tran Ngoc Lan,
Nguyen Dac Binh Minh, Nguyen Viet Trung
Abstract
Black ginger is a precious and rare medicinal herbs of Vietnam, which are propagated from root buds; the root
weight of 30 g - 40 g/1 branch had high germination rate of 100%, when planting should choose the one branch
roots, do not select small and miltiplebranch roots. The substrate composition including soil + husk (1 : 1) or 100% of
sand gave germination rate of 100%; the nursery time until releasing for planting was 45 - 46 days. Supplementation
with growth regulator GA3 at the concentration of 500 ppm, N3M or ROOTS NEW had 100% germination rate; the
nursery time until releasing for planting reduced 8 - 12 days compared to the control formula. The shading regime
suitable for Kaempferia parviflora at this stage was 60 - 70%.
Keywords: Black ginger (Kaempferia parviflora), root buds, propagation technique
Ngày nhận bài: 29/4/2020
Ngày phản biện: 14/5/2020
Người phản biện: PGS. TS. Ninh Thị Phíp
Ngày duyệt đăng: 20/5/2020
1 Trung tâm Nghiên cứu Đất, Phân bón và Môi trường phía Nam, Viện Thổ nhưỡng Nông hoá
2 Trường Phổ thông liên cấp Vinschool Central Park
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ky_thuat_nhan_giong_ngai_den_kaempferia_parviflor.pdf