Kết quả nghiên cứu nhân giống cây
Ươi bằng phương pháp ghép
Ghép là phương pháp nhân giống sử dụng
cành hay mầm nhánh của cây mẹ có nhiều ưu
điểm như phẩm chất tốt, năng suất quả cao,
gắn sang một gốc ghép để tạo thành một thể
mới thống nhất với các mục đích như vẫn giữ
được các đặc tính của cây mẹ, mau cho quả, tuổi
thọ cao và có thể hạ được độ cao của cây trồng.
Do việc lấy vật liệu ghép là mắt ghép tại
các cây trội và các cây vật liệu đầu dòng rất khó
khăn và hạn chế về số lượng nên đề tài chỉ tiến
hành nghiên cứu 3 kỹ thuật ghép là ghép nêm
ngọn, ghép áp và ghép nối. Kết quả nghiên cứu
về kỹ thuật ghép được thể hiện tại bảng 05.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả ba phương
pháp ghép đều cho kết quả khả quan, trong đó
ghép nêm cho số cây ra chồi cao nhất với 89,3%
số cây ghép, tiếp đến là phương pháp ghép nối
với 54,7% số cây ghép và thấp nhất là phương
pháp ghép áp với tỷ lệ ra chồi là 48,7%.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về kỹ thuật
ghép, đề tài tiến hành sử dụng kỹ thuật ghép
nêm ngọn để sản xuất cây ghép với các kỹ
thuật như sau:
Chọn gốc ghép: các gốc ghép được gieo
từ hạt, trong bầu đất có tuổi cây từ 18 đến
24 tháng tuổi, thân hóa gỗ, đường kính gốc
tối thiểu đạt 0,6 - 0,8cm. Cây sinh trưởng tốt,
khỏe mạnh, không sâu bệnh, vỏ trơn. Cây được
chăm sóc trong vườn ươm và được chăm sóc
hàng ngày.
Chọn chồi ghép: chọn những chồi ghép có
đường kính 0,5 - 0,7cm, là các chồi có sức sống
tốt, gốc chồi đã hóa gỗ, chồi đang trong thời kỳ
sinh trưởng, vỏ nhẵn, không bị sâu bệnh. Chồi
có đỉnh chồi (tốt nhất là khi lá sắp bung ra).
Kỹ thuật ghép: cây ghép được tiến hành
ghép vào những ngày không mưa để tránh
nước mưa làm hỏng vết ghép. Dùng kéo sắc
cắt bỏ phần ngọn của cây vật liệu ghép cách
bầu cây khoảng 40cm. Dùng dao ghép chẻ một đường sâu 2-3cm giữa thân gốc ghép. Chồi ghép
được thu thập từ vườn vật liệu và từ các cây trội có chiều dài 7 - 8cm và được cắt bỏ hết phần lá,
chỉ để lại phần đỉnh chồi. Dưới chân chồi ghép, dùng dao sắc cắt vát 2 bên tạo thành hình chữ V
phẳng tương ứng với vết chẻ trên gốc ghép.
Cắm chồi ghép vào đường chẻ trên gốc ghép đến khi thấy tương đối chặt tay thì dừng lại.
Sử dụng dây nylon quấn chặt vết ghép bao phủ cả chồi ghép phía trên để tránh nước mưa, nước
tưới, nhiễm vào vết ghép.
Chăm sóc và theo dõi cây ghép: cây ghép được chăm sóc, theo dõi dưới giàn che sáng 50%
trong vườn ươm. Kết quả cho thấy, sau 14 ngày cây ghép bắt đầu này chồi và bắt đầu đâm ra
ngoài nylon quấn. Sau 30 ngày chồi ghép cao 8 - 10cm và đã ra được từ 2-3 lá non. Sau 60 ngày
cây sinh trưởng tốt, chồi cao từ 15-20cm. Sau 4 tháng tiến hành dỡ bỏ giàn che để cây thích nghi
với điều kiện tự nhiên. Khi chồi ghép hoàn toàn hóa gỗ, cao từ 30 cm trở lên, cứng cáp thì có thể
mang đi trồng rừng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô tính cây Ươi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 21
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18
1. Đặt vấn đề
Ươi (Scaphium macropodum) là cây gỗ đa
tác dụng, cho quả rất có giá trị ở Việt Nam, quả
Ươi làm dược liệu, tác dụng thanh nhiệt, giải
độc, chữa trị nhiều bệnh đường ruột ngoài
ra gỗ được sử dụng làm nhà hoặc đóng đồ.
Một cây Ươi sai quả có thể cho năng suất 40-60
kg quả/năm và đem lại lợi nhuận hàng nhiều
triệu đồng cho người dân. Hiện tại quả Ươi khô
đang có giá tăng đột biến tới 200.000-300.000
đồng/1kg. Do thân cây Ươi thẳng, cao tới 25-30
m, trèo thu hái quả rất khó khăn, nên người dân
thường chặt hạ cả cây để khai thác quả (khai
thác triệt) dẫn đến tình trạng các quần thể Ươi
tự nhiên bị tàn phá, suy thoái nghiêm trọng cả
về số lượng và chất lượng. Điều này làm cho
số phận cây Ươi, một loài cây có nhiều giá trị
đang ngày càng suy giảm một cách trầm trọng
Nghiên cứu kỹ thuật nhân giống vô tính cây Ươi
(Scaphium macropodum)
ThS. LẠI VĂN THỌ, TS. ĐOÀN ĐÌNH TAM
Trường Trung cấp Lâm nghiệp Tây Nguyên
tại huyện KBang, tỉnh Gia Lai
Hình 01: Thân, lá, quả cây Ươi
hơn và nhanh đi đến bờ vực diệt chủng. Trong
những năm qua, do nhiều nguyên nhân khác
nhau nên diện tích, trữ lượng cũng như nguồn
gen thực vật rừng nhiệt đới bị suy giảm mạnh
làm cho khả năng phòng hộ, cung cấp gỗ và
các loại lâm sản ngoài gỗ cho quá trình phát
triển kinh tế xã hội bị hạn chế. Mặc dù diện tích
rừng của Gia Lai tăng nhưng trữ lượng và chất
lượng rừng chưa được cải thiện rõ rệt, chủ yếu
rừng tự nhiên hiện nay thuộc đối tượng rừng
nghèo kiệt, giá trị kinh tế, phòng hộ, đa dạng
sinh học,... không cao. Rừng trồng sản xuất
mới chỉ là rừng trồng nguyên liệu, gỗ nhỏ. Vì
vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc phát triển
các loài cây bản địa đa tác dụng đang rất được
quan tâm, cây Ươi là một trong những loài cây
đó. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm góp phần cải
thiện chất lượng nguồn giống cũng như chủ
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT22
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G động về nguồn giống trong gây trồng rừng.
Với những kết quả đạt được của bài báo này sẽ
đóng góp các cơ sở khoa học cung cấp thông
tin về kỹ thuật nhân giống vô tính và bổ sung
cơ cấu cây trồng rừng bản địa đa mục đích,
có hiệu quả cho vùng Gia Lai nói riêng và Tây
Nguyên nói chung.
2. Phương pháp thực hiện
v Tuyển chọn cây trội: Tiến hành khảo
sát, dự tuyển và tuyển chọn cây trội tại các lâm
phần rừng tự nhiên tại huyện KBang tỉnh Gia
Lai theo tiêu chuẩn ngành số 04TCN147-2006
của Bộ Nông nghiệp.
v Phương pháp chiết cành: Sử dụng chất
kích thích rễ IBA dạng dung dịch với 7 nồng
độ (công thức) khác nhau: 250 ppm, 500 ppm,
750ppm; 1.000 ppm, 1.250ppm; 1.500 ppm và
đối chứng. Mỗi công thức tiến hành thí nghiệm
trên 90 cành chiết được chia thành 3 lần lặp.
- Giá thể sử dụng cho chiết cành là xơ dừa
trộn bùn đất.
- Áp dụng phương pháp chiết đối với các
loài cây ăn quả trong nông - lâm nghiệp. Cành
chiết được chọn là các cành bánh tẻ của các cây
trội đã được tuyển chọn. Chọn những cành có
đường kính 2-3cm với độ tuổi 1-3 tuổi ở phần
trên của tán nơi có nhiều ánh sáng, lá mọc dày
để chiết.
- Bầu chiết được theo dõi, đánh giá trong
thời gian từ 3-5 tháng.
- Khi thấy rễ đã dài và chuyển sang màu
vàng ngà thì tiến hành cắt cành chiết xuống
và giâm trong cát ẩm 1 tháng cho rễ ổn định.
v Phương pháp ghép: Vật liệu chồi ghép
và cành ghép cho các thí nghiệm nghiên cứu
nhân giống Ươi bằng kỹ thuật ghép được lấy
trực tiếp từ các cây trội và từ vườn vật liệu. Các
thí nghiệm ghép gồm: Ghép nêm (CT1), ghép
áp (CT2) và ghép nối (CT3). (Vườn vật liệu là
vườn ươm các cây chiết được chiết từ các cây
trội đã tuyển chọn).
- Tạo gốc ghép từ các cây Ươi 1-2 tuổi được
gây trồng từ hạt (đường kính 0,8-1cm, cao 60-70
cm), có sức sống tốt, không sâu bệnh, cắt tạo
gốc ghép cao 25-35cm.
- Cây ghép được chăm sóc, theo dõi dưới
giàn che sáng 75% trong vườn ươm. Sau 4
tháng tiến hành giảm tỷ lệ che sáng xuống
còn 50%.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Điều tra khảo sát tuyển chọn cây trội
Bảng 01: Đường cong đa dạng ưu thế D-D
của quần xã thực vật các lâm phần nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy, đường cong
D-D của các hiện trường nghiên cứu có độ dốc
khác nhau. Kết quả thể hiện tại các đường cong
cho thấy Ươi là loài chiếm ưu thế trong quần
thể(chiếm 56%). Tiếp đến là các loài khác có
vị trí thấp hơn trên đường cong D-D là những
loài ít ưu thế hơn và sắp xếp theo một trật tự
ưu thế nhất định.
Kết quả điều tra, tính toán cho thấy, các
cây trội được tuyển chọn là những cây có các
chỉ tiêu về sinh trưởng cũng như sản lượng quả
vượt trội hơn so với lâm phần. Về đường kính,
cây trội có độ vượt từ 41,9% đến 144,2% so với
lâm phần; chiều cao vượt từ 18,4% đến 65,8%
so với lâm phần. Đặc biệt, sản lượng quả vượt
từ 136,6% đến 198,5% so với sản lượng quả
trung bình của lâm phần điều tra, tùy theo
từng khu vực nghiên cứu. Do Ươi là loài cây
bản địa có chu kỳ sai quả 4 - 5 năm/lần nhưng
do việc khai thác quả Ươi bằng phương pháp
chặt cành nên loài cây này cũng cần lượng thời
gian dài hơn (có thể tới 4 - 6 năm) để phục hồi
để ra hoa, quả trở lại.
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 23
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18
Qua bảng 02 ta thấy, ở công thức đối
chứng cành chiết không ra rễ. Trong các
công thức còn lại thì tỷ lệ ra rễ của công thức
1.000ppm là cao nhất với 53 cành ra rễ, đạt
58,9%; tiếp đến là công thức 750ppm, với 43
cành ra rễ, đạt 47,8%; công thức 1.250ppm có
39 cành ra rễ, đạt 43,3%; công thức 500ppm
cho số cành ra rễ là 25 cành, đạt 27,8%; khi sử
dụng chất IBA, nồng độ 1.500ppm số cành ra
rễ chỉ đạt 16/90 cành, đạt 17,8% và thấp nhất là
công thức 250ppm với 10 cành ra rễ đạt 27,8%.
Khẳng định nồng độ thuốc kích thích ra rễ có
ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ ra rễ của các cành
chiết, nồng độ IBA khác nhau thì tỷ lệ ra rễ của
cành chiết cũng khác nhau. Trong đó, công
thức sử dụng thuốc kích thích ra rễ IBA nồng
độ 1.000ppm cho tỷ lệ ra rễ cao nhất, đồng thời
việc sử dụng IBA ở nồng độ quá cao đã kìm hãm
sự ra rễ của cành chiết.
Bảng 03: Tỷ lệ số lượng rễ trung bình qua
các công thức thí nghiệm
Qua bảng 03 và 04 ta thấy công thức có
chất lượng bộ rễ thấp nhất là 1.500ppm khi chỉ
đạt trung bình 1 rễ/cây chiết và rễ cũng không
dài (trung bình 4cm). Công thức đối chứng chỉ
thấy ra mô sẹo, không thấy xuất hiện rễ, có cành
nhú rễ ở tháng thứ 3 sau đó chết vào tháng thứ
4. Điều này chứng tỏ việc sử dụng chất kích
thích ra rễ có ảnh hưởng mạnh tới tỷ lệ ra rễ và
chất lượng của bộ rễ chiết.
3.2. Kết quả nghiên cứu nhân giống cây
Ươi bằng phương pháp chiết
Bảng 02: Biểu đồ tỷ lệ % cành chiết ra rễ
ở các công thức thí nghiệm
Bảng 04: Chiều dài của rễ cây chiết tại các
công thức thí nghiệm
Hình 03: Bầu chiết và rễ cây chiết
Trên cơ sở của kết quả nghiên cứu các
nồng độ chất kích thích ra rễ, đề tài tiến hành
sản xuất cây vô tính bằng phương pháp chiết,
cụ thể như sau:
Thời gian chiết cành được thực hiện vào
cuối mùa khô và đầu mùa mưa (tháng 7 đến
tháng 8). Sử dụng chất kích thích ra rễ IBA nồng
độ 1.000ppm. Tại các cây trội đã được tuyển
chọn, chọn những cành ở phần trên, có nhiều
ánh sáng, lá mọc dày của tán cây trội có đường
kính 1-3cm với độ tuổi cành từ 1 - 3 năm.
Ở chân cành chiết bóc một khoanh vỏ,
chiều dài khoảng 3 - 5 cm; lấy lưỡi dao, cạo
khẽ lên gỗ, dưới khoanh vỏ đã bóc để làm chết
tương tầng có thể làm cho vỏ tái sinh, thành
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT24
T
Ạ
P
C
H
Í
K
H
O
A
H
Ọ
C
C
Ô
N
G
N
G
H
Ệ
V
À
M
Ô
I T
R
Ư
Ờ
N
G một cầu nối cho nhựa ở cành chiết thoát xuống
phía dưới, không thuận cho việc ra rễ. Phải cạo
toàn bộ mặt gỗ dưới vỏ không bỏ sót chỗ nào,
chờ 20 - 30 ngày khi tượng tầng chết mặt gỗ
đã khô, vết chiết đã hình thành mô sẹo thì tiến
hành cạo sạch mô sẹo và bôi thuốc kích thích
ra rễ vào phía trên của phần đã bóc vỏ, sau đó
đắp bùn trộn sơ dừa quanh cành ở chỗ đã bóc
vỏ phía ngoài bọc bằng bao tải để thuận tiện
cho việc thấm và thoát nước.
Khi thời tiết chưa vào mùa mưa, tiến hành
chăm sóc định kỳ 3 tuần 1 lần bằng cách mở
hé phía trên bầu đất và dùng bình xịt phun
nước, tạo độ ẩm cho bầu chiết. Từ tháng thứ
2 định kỳ 1 tháng 1 lần kiểm tra tình hình ra
rễ của cây chiết. Khi thấy rễ đã dài và chuyển
sang màu vàng ngà thì tiến hành cắt cành chiết
xuống và giâm trong cát ẩm 1 tháng cho rễ ổn
định, sau đó chuyển cây chiết vào bầu polime.
Thành phần ruột bầu gồm 80% đất mặt + 15%
phân chuồng hoai + 5% phân vi sinh (tính theo
trọng lượng bầu).
Sau khi cây chiết được đưa vào bầu 2
tháng, rễ đã ổn định, tiến hành tác động kỹ
thuật trẻ hóa cây chiết bằng phương pháp cắt
thân tạo chồi. Thân cây chiết được cắt cách
miệng bầu 20 - 30cm, đồng thời huấn luyện,
chăm sóc trong vườn ươm có giàn tưới phun
tự động. Cây được che sáng 70% trong tháng
thứ 3 đến tháng thứ 4, đến khi cây chiết nảy
chồi mới dài khoảng 10cm, tiến hành giảm tỷ
lệ che sáng xuống còn 50% ánh sáng tự nhiên.
3.3. Kết quả nghiên cứu nhân giống cây
Ươi bằng phương pháp ghép
Ghép là phương pháp nhân giống sử dụng
cành hay mầm nhánh của cây mẹ có nhiều ưu
điểm như phẩm chất tốt, năng suất quả cao,
gắn sang một gốc ghép để tạo thành một thể
mới thống nhất với các mục đích như vẫn giữ
được các đặc tính của cây mẹ, mau cho quả, tuổi
thọ cao và có thể hạ được độ cao của cây trồng.
Do việc lấy vật liệu ghép là mắt ghép tại
các cây trội và các cây vật liệu đầu dòng rất khó
khăn và hạn chế về số lượng nên đề tài chỉ tiến
hành nghiên cứu 3 kỹ thuật ghép là ghép nêm
ngọn, ghép áp và ghép nối. Kết quả nghiên cứu
về kỹ thuật ghép được thể hiện tại bảng 05.
Bảng 05: Ảnh hưởng của phương pháp
ghép đến tỷ lệ ra chồi của cây ghép
Phương pháp
ghép
Lần
lặp Dung
lượng
mẫu
Số
cành
ra
chồi
Tỷ lệ (%)
Tỷ lệ
%
Trung bình
(%)
Ghép nêm
(CT1)
1 50 46 92
89,32 50 43 86
3 50 45 90
Ghép áp
(CT2)
1 50 26 52
48,72 50 18 36
3 50 29 58
Ghép nối
(CT3)
1 50 29 58
54,72 50 28 56
3 50 25 50
Kết quả nghiên cứu cho thấy, cả ba phương
pháp ghép đều cho kết quả khả quan, trong đó
ghép nêm cho số cây ra chồi cao nhất với 89,3%
số cây ghép, tiếp đến là phương pháp ghép nối
với 54,7% số cây ghép và thấp nhất là phương
pháp ghép áp với tỷ lệ ra chồi là 48,7%.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về kỹ thuật
ghép, đề tài tiến hành sử dụng kỹ thuật ghép
nêm ngọn để sản xuất cây ghép với các kỹ
thuật như sau:
Chọn gốc ghép: các gốc ghép được gieo
từ hạt, trong bầu đất có tuổi cây từ 18 đến
24 tháng tuổi, thân hóa gỗ, đường kính gốc
tối thiểu đạt 0,6 - 0,8cm. Cây sinh trưởng tốt,
khỏe mạnh, không sâu bệnh, vỏ trơn. Cây được
chăm sóc trong vườn ươm và được chăm sóc
hàng ngày.
Chọn chồi ghép: chọn những chồi ghép có
đường kính 0,5 - 0,7cm, là các chồi có sức sống
tốt, gốc chồi đã hóa gỗ, chồi đang trong thời kỳ
sinh trưởng, vỏ nhẵn, không bị sâu bệnh. Chồi
có đỉnh chồi (tốt nhất là khi lá sắp bung ra).
Kỹ thuật ghép: cây ghép được tiến hành
ghép vào những ngày không mưa để tránh
nước mưa làm hỏng vết ghép. Dùng kéo sắc
cắt bỏ phần ngọn của cây vật liệu ghép cách
KHOA HOÏC KYÕ THUAÄT 25
S
Ố
0
4
N
Ă
M
2
0
18bầu cây khoảng 40cm. Dùng dao ghép chẻ một đường sâu 2-3cm giữa thân gốc ghép. Chồi ghép
được thu thập từ vườn vật liệu và từ các cây trội có chiều dài 7 - 8cm và được cắt bỏ hết phần lá,
chỉ để lại phần đỉnh chồi. Dưới chân chồi ghép, dùng dao sắc cắt vát 2 bên tạo thành hình chữ V
phẳng tương ứng với vết chẻ trên gốc ghép.
Cắm chồi ghép vào đường chẻ trên gốc ghép đến khi thấy tương đối chặt tay thì dừng lại.
Sử dụng dây nylon quấn chặt vết ghép bao phủ cả chồi ghép phía trên để tránh nước mưa, nước
tưới, nhiễm vào vết ghép.
Chăm sóc và theo dõi cây ghép: cây ghép được chăm sóc, theo dõi dưới giàn che sáng 50%
trong vườn ươm. Kết quả cho thấy, sau 14 ngày cây ghép bắt đầu này chồi và bắt đầu đâm ra
ngoài nylon quấn. Sau 30 ngày chồi ghép cao 8 - 10cm và đã ra được từ 2-3 lá non. Sau 60 ngày
cây sinh trưởng tốt, chồi cao từ 15-20cm. Sau 4 tháng tiến hành dỡ bỏ giàn che để cây thích nghi
với điều kiện tự nhiên. Khi chồi ghép hoàn toàn hóa gỗ, cao từ 30 cm trở lên, cứng cáp thì có thể
mang đi trồng rừng.
Hình 04: Cây ghép và cây mang đi trồng rừng
4. Kết luận
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu, người viết đưa ra các kết luận của đề tài như sau:
- Việc chiết cành cây ươi sử dụng thuốc kích thích ra rễ IBA nồng độ 1000ppm cho tỷ lệ ra rễ,
số lượng rễ và chất lượng rễ cao nhất so với các nồng độ thí nghiệm còn lại.
- Các cây chiết trẻ hóa thường cho trung bình từ 3 -4 chồi/cây.
- Sử dụng phương pháp ghép nêm cho tỷ lệ ra chồi cao hơn (89,3%) so với phương pháp
ghép áp và ghép nối./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2006): Tiêu chuẩn công nhận giống cây trồng lâm nghiệp, Tiêu chuẩn ngành 04 TCN
147 - 2006 (Ban hành kèm theo Quyết định số 4106/QĐ/BNN-KHCN ngày 29/12/2006).
2. Đặng Thái Dương, “Tìm hiểu tình hình sinh trưởng và kỹ thuật gây trồng loài cây Ươi (Scaphium lychnophorum) tại tỉnh Thừa Thiên
Huế”, trường Đại học Nông lâm Huế, 1995.
3. Phạm Ngọc Lý, Nghiên cứu nhân giống vô tính vải bằng phương pháp ghép, Luận văn thạc sỹ khoa học nông nghiệp Viện khoa
học nông nghiệp Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_ky_thuat_nhan_giong_vo_tinh_cay_uoi.pdf